Kinh nghiệm phát triển năng lượng tái tạo của trung quốc và bài học đối với Việt Nam

Hạn chế đầu tư và giảm dần phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch. Mặc dù có rất nhiều thành công trong năng lượng tái tạo, Trung Quốc vẫn dựa vào than đá và dầu cho 90% nhu cầu năng lượng của họ. Do đó, khí thải carbon và ô nhiêm môi trường vẫn là thách thức lớn nhất cho sự phát triển của Trung Quốc hiện nay. Chính vì vậy, từ kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam ngoài việc có các biện pháp phát triển năng lượng tái tạo, đồng thời có cơ chế chính sách giảm đầu tư và phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch. Điều này sẽ làm giảm lượng năng lượng từ nguồn hóa thạch cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng lượng năng lượng tiêu thụ của Việt Nam. Có như vậy chúng ta mới thực sự đạt được mục tiêu phát triển xanh bền vững.

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm phát triển năng lượng tái tạo của trung quốc và bài học đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015 165 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO CỦA TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM Ngày nhận bài : 26/01/2015 Nguyễn Hùng Cường1 Ngày nhận lại : 13/02/2015 Ngày duyệt đăng : 19/05/2015 TÓM TẮT Bài báo này nghiên cứu những thành công, thách thức và các chính sách trong quá trình phát triển Năng lượng tái tạo trong thời gian gần đây của Trung Quốc. Từ những kinh nghiệm được rút ra trong việc quản lý, xây dựng khung chính sách, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển, thực thi bảo vệ môi trường,.. của các loại năng lượng tái tạo ở Trung quốc, bài viết tổng hợp thành các bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam nhằm phát triển ngành năng lượng tái tạo còn non trẻ, góp phần phát triển kinh tế bền vững vào bảo vệ môi trường. Từ khóa: Năng lượng tái tạo, Trung Quốc, môi trường, chính sách. ABSTRACT This paper studies the successes, challenges and policies in the development of renewable energy in recent years in China. Accordingly, experiences are drawn in the management and construction of the policy framework, promoting research and development, environmental protection enforcement... of all kinds of renewable energy in China, the article synthesizes lessons for Vietnam to develop the renewable energy industry which is still young, contributing to sustainable economic development in environmental protection. Keywords: Renewable Energy, China, environment, policies. 1. Đặt vấn đề1 Trong 20 năm qua, nền kinh tế của Trung Quốc đã tăng gấp mười lần. Sự tăng trưởng này đã nâng lên 660 triệu người thoát khỏi đói nghèo cùng cực. Tuy nhiên, nó đã phải trả giá đắt cho ô nhiễm môi trường gây nên bởi sự tăng trưởng này.Trung Quốc đang phải đối mặt với những thách thức về môi trường, năng lượng từ nguồn hóa thạch, ô nhiễm không khí và nước. Hiện nay, Trung Quốc là nước phát thải lớn nhất thế giới các khí nhà kính. Theo báo cáo của BP năm 2012, sự phụ thuộc nặng nề của Trung Quốc vào than đá và dầu - chiếm gần 90% của mức tiêu thụ năng lượng - Trung Quốc phát ra nhiều carbon dioxide (CO2) hơn bất kỳ đất nước nào. 1 ThS, Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải. Nếu không hành động, mức độ phát thải CO2 lớn sẽ dẫn đến biến đổi khí hậu nguy hiểm, mà Trung Quốc được dự đoán là dễ bị tổn thương và tác động mạnh bởi sự nóng lên của trái đất. Ô nhiễm môi trường tại các khu vực địa phương, đặc biệt với không khí và nước, có tác động lớn tới Trung Quốc. Họ ước tính rằng 90% nước ở các đô thị bị ô nhiễm, ô nhiễm không khí ngoài trời được ước tính gây ra tới hàng triệu người bị chết sớm mỗi năm. Hơn nữa, ước tính sẽ có hơn 10 triệu ha đất nông nghiệp bị ô nhiễm, và lượng chất thải tại các bãi chôn cũng đang tăng lên. Ô nhiễm môi trường tại địa phương là hết sức nghiêm trọng, và tác động tiêu cực đến đời sống hàng ngày của người dân Trung Quốc. 166 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều trên hầu hết các nguồn năng lượng sạch và ngành công nghiệp môi trường, đặc biệt là sau kế hoạch kích thích kinh tế sau khủng hoảng tài chính. Hiện nay, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới trong đầu tư vào công nghệ năng lượng tái tạo. Trung Quốc có kế hoạch sản xuất 15% năng lượng từ các nguồn nhiên liệu phi hóa thạch vào năm 2020. Chính phủ đã đặt ra mục tiêu đầy tham vọng trong ngành năng lượng xanh. Ngoài những mục tiêu trên, Trung Quốc đặt mục tiêu có 140 GW công suất điện gió và 21 GW năng lượng mặt trời vào năm 2015 (National Energy Administration, 2012). Ở nước ta hiện nay, Theo dự báo của Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011–2020 có xét đến năm 2030 (Tổng sơ đồ điện 7), nhu cầu điện năng của Việt Nam sẽ tăng mạnh từ 87 tỷ kWh (năm 2009) lên 570 tỷ kWh (năm 2030), trong khi đó các nhà máy thủy điện gần như đã được khai thác ở mức tối đa và các nhà máy nhiệt điện được dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn về việc cung cấp nhiên liệu. Để giải quyết việc thiếu hụt nguồn cung, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Phát triển Năng lượng Quốc gia đến năm 2020 - tầm nhìn 2050 trong đó rất chú trọng tới phát triển nguồn năng lượng tái tạo (thủy điện nhỏ, năng lượng gió, năng lượng mặt trời...), với mục tiêu tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010, 5% năm 2020 và 11% năm 2050. Để đạt được mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo như đã đề ra, việc học hỏi những kinh nghiệm thành công và thất bại trong chính sách của Trung Quốc trong phát triển này là hết sức cần thiết. 2. Kinh nghiệm phát triển năng lượng tái tạo của Trung Quốc 2.1. Năng lượng mặt trời Thành công: Hiện nay, Trung Quốc là nhà sản xuất lớn nhất thế giới về thiết bị năng lượng mặt trời. Từ năm 2006 đến 2011, do chính sách hỗ trợ từ chính phủ các nước châu Âu, đặc biệt là Đức, Tây Ban Nha và Italia, đã dẫn đến sự bùng nổ toàn cầu về điện mặt trời. Thị trường toàn cầu điện mặt trời thêm 27,7 GW công suất điện mới trong năm 2011, và vào cuối năm đó, công suất lắp đặt tích lũy toàn cầu vượt quá 67,4 GW, so với chỉ 7,3 GW vào năm 2006 (EPIA, 2012). Các công ty Trung Quốc đã nắm bắt được một thị phần lớn của thị trường này, với xuất khẩu thiết bị điện mặt trời là 35,8 tỷ USD trong năm 2011. Các công ty Trung Quốc, chẳng hạn như Yingli và Trina, đã trở thành công ty hàng đầu thế giới trong sản xuất các tấm quang điện mặt trời . Trong năm 2011, Trung Quốc đại lục sản xuất của các tế bào năng lượng mặt trời đạt 17 GW, chiếm 48,5% sản xuất của thế giới. Các công ty Trung Quốc ban đầu chỉ sản xuất pin năng lượng mặt trời, nhưng ngày càng được tham gia vào tất cả các phần của chuỗi giá trị. Trong thời gian đầu bùng nổ năng lượng mặt trời, các công ty Trung Quốc đã không thể cạnh tranh trong các phần tấm pin quang điện và polysilicon (Silicon đa tinh thể) trên thị trường. Năm 2006, nhu cầu quốc gia cho polysilicon là 5.000 tấn, và sản lượng thực tế sản xuất tại Trung Quốc là dưới 300 tấn. Tuy nhiên, nhiều công ty ở Trung Quốc, như LDK Solar và GCL đã đầu tư mạnh vào thị trường polysilicon, và giá đã giảm xuống mức phù hợp. Kết quả là, vào năm 2012, 40% của polysilicon toàn cầu và 76% tấm pin quang điện được sản xuất ở Trung Quốc (Solarbuzz, 2012). Đầu tư xây dựng dự án năng lượng mặt trời trong nước bắt đầu từ từ nhưng đã phát triển đáng kể từ năm 2010. Các nhà sản xuất năng lượng mặt trời của Trung Quốc ban đầu dựa trên các thị trường xuất khẩu, với hơn 90% sản lượng sản xuất ra là xuất ra nước ngoài (MIIT, 2012). Những tăng trưởng gần đây ở Trung Quốc đã đưa quốc gia này lên đứng thứ 3 về công suất năng lương mặt trời, đứng trên cả Mỹ. Riêng trong năm 2011, Trung Quốc lắp đặt 2.250 MWp, tốc độ tăng trưởng hàng năm lên tới 500%. Thách thức: Ngành quang điện mặt trời phải đối mặt với một số thách thức tài chính và môi trường bởi các quá trình sản xuất, bao gồm cả việc dư thừa đầu tư. Dư thừa đầu tư đã tới mức cao trong các lĩnh vực sản xuất thiết bị, và rất nhiều các công ty sản xuất quang điện mặt trời lớn phải đối mặt với khả năng tự thua lỗ. Lượng đầu tư khổng lồ trong sản xuất làm năng lực sản xuất qua chuỗi giá trị quang điện dẫn đến sự giảm giá nhanh tróng, đẩy lợi nhuận xuống đến mức mà nhiều doanh nghiệp TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015 167 bị thiệt hại đáng kể. Thiếu đầu tư vào mạng lưới truyền tải điện cũng có thể gây ra các vấn đề trong các dự án sắp tới. Quang điện mặt trời ở Trung Quốc được đặt tại khu vực phía tây tương đối kém phát triển. Do đó, Một mạng kết nối lưới điện cần thiết để truyền điện cho khu vực phía đông phát triển hơn, nơi mà nhu cầu về năng lượng lớn nhất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư lưới điện chỉ đạt được 34,1% công suất yêu cầu. Một nhà máy điện năng lượng mặt trời 10 MW có thể được xây dựng trong vòng sáu tháng, trong khi một dự án truyền tải lưới điện có thể mất 3-4 năm. Với năng lượng mặt trời tiếp tục bùng nổ, vấn đề năng lực truyền tải này có thể là một nút cổ chai trong tương lai cản trở sự phát triển. Cơ sở sản xuất thiết bị năng lượng mặt trời lại gây ra ô nhiễm môi trường ở các địa phương. Nếu không được kiểm soát, quá trình sản xuất thiết bị năng lượng mặt trời có thể gây ra ô nhiễm không khí và nước. Do sự thiếu thực thi nghiêm túc các quy định về môi trường, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong sản xuất và lợi nhuận biên thấp, nhiều công ty năng lượng mặt trời thường không đầu tư đúng mức trong việc kiểm soát ô nhiễm. Thay vào đó, các công ty có xu hướng dựa trên xử lý ở giai đoạn cuối của quá trình thải, chứ không phải là kiểm soát ô nhiễm trước đó, và đã có báo cáo rằng một số công ty thậm chí không thực hiện xử lý cuối công đoạn thải mà thải thẳng ra môi trường. Các chính sách: Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các chính sách thúc đẩy chính hiện nay là thông qua trợ giá năng lượng tái tạo (feed-in-tariff) cao: Ngày nay, các trang trại năng lượng mặt trời nhận mức trợ giá 1 nhân dân tệ cho mỗi kWh họ sản xuất, tương đương 100% mức tiền thưởng trên giá mà thủy điện hoặc nhà sản xuất điện than nhận được. Vì chi phí đầu tư và vận hành của năng lượng mặt trời đã giảm, mức khuyến khích vẫn ở mức 1 nhân dân tệ mỗi kWh, có nghĩa là một số lượng lớn các dự án đã có lợi nhuận. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ gần đây của năng lượng mặt trời của Trung Quốc. Chính quyền địa phương cũng đã hỗ trợ giúp các công ty của họ để mở rộng nhanh chóng: Trong giai đoạn đầu, các nhà sản xuất điện mặt trời của Trung Quốc đã nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương bằng các hình thức hỗ trợ tài chính (bảo lãnh cho vay, vay ưu đãi, miễn giảm tiền thuê đất, giảm thuế) và tiếp cận đất đai các khu vực rộng lớn đủ tiêu chuẩn về nắng mặt trời để xây dựng nhà máy điện (hỗ trợ giải phóng mặt bằng, thủ tục giao đất đầu tư). Chính phủ tiếp tục cung cấp thêm ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào R&D: Để tiếp tục cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp Trung Quốc cần phải tiếp cận với các công nghệ tiên tiến trên thế giới. Tăng cường đầu tư R&D có thể giúp phát triển và đổi mới trong điện mặt trời, chẳng hạn như xây dựng công trình có tích hợp lắp đặt sẵn các tấm quang điện mặt trời. Các nhà chức trách Trung Quốc đã cung cấp nhiều ưu đãi hơn cho phát triển R&D để khuyến khích sự gia tăng đầu tư: chẳng hạn như giảm thuế và tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ. 2.2. Điện Gió Thành công: Công suất điện gió của Trung Quốc hiện nay là lớn nhất thế giới, với hơn 90 GW công suất được lắp đặt trong nước (GWEC, 2014). Chỉ riêng tăng trưởng trong năm 2011 là 40%, với hơn 11.000 tuabin được lắp đặt (CWEA, 2011). Tổng công suất điện lắp đặt của Trung Quốc trong năm 2011, 4,89% là điện gió, và lĩnh vực này thời gian gần đây đã trở thành nguồn năng lượng lớn thứ ba ở Trung Quốc (đứng sau nhiệt và thủy điện). Năm 2011 tổng đầu tư của Trung Quốc vào năng lượng gió đứng ở mức 30 tỷ USD, chiếm 42% đầu tư gió của thế giới. Điện gió ở Trung Quốc đang tập trung ở khu vực phía Bắc và phía Tây, khu vực Nội Mông dẫn đầu với hơn gần ba lần so với bất kỳ tỉnh hoặc khu tự trị khác về công suất lắp đặt tuabin trong năm 2011. Một số khu đã được phân bổ cho phát triển trang trại gió quy mô lớn. Dự án Gansu Jiuquan, nằm trên cạnh sa mạc Gobi, là trang trại gió lớn nhất thế giới, với công suất 10 GW, lớn hơn so với toàn bộ công suất lắp đặt của điện gió ở Vương quốc Anh. Các công ty năng lượng lớn cũng đang đầu tư lắp đặt các trang trai điện gió ngoài khơi. Trang trại điện gió đầu tiên của Trung Quốc - Shanghai Donghai Bridge với công suất 10MW - đã bắt đầu phát điện vào tháng 6 168 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC năm 2010. Trong khi công suất điện gió ngoài khơi nói chung vẫn còn thấp, tuy nhiên, các trang trại gió ở ngoài khơi có lợi thế là được nằm gần với đông dân cư ven biển tạo ra một cơ hội lớn cho điện gió ngoài khơi Trung Quốc. Sự bùng nổ của công suất điện gió đã được kết hợp với sự gia tăng trong sản xuất thiết bị trong nước. Một số công ty hàng đầu trên thế giới của Trung Quốc đã nổi lên trong sản xuất các tuabin gió. Các doanh nghiệp trong nước chiếm lĩnh hầu hết thị trường, với ba nhà sản xuất dẫn đầu chiếm hơn 50 phần trăm của thị trường. Các nhà sản xuất Trung Quốc đã cắt giảm chi phí sản xuất, kích thích sự phát triển. Chi phí xây dựng một trang trại điện gió ở Trung Quốc đã giảm khoảng 12% trong năm 2011 (Li et al, 2012.). Bằng cách làm cho điện gió có giá cả phải chăng hơn, các trang trại gió với các nguồn tài nguyên gió dồi dào trở nên khả thi hơn, mở đường cho đầu tư ngày càng gia tăng. Các nhà sản xuất thiết bị gió Trung Quốc chủ yếu dựa vào công nghệ nước ngoài được cấp phép nhưng họ ngày càng có những cải tiến tốt hơn cho sản phẩm. Người Trung Quốc đã có nhiều sáng tạo có khả năng tự xây dựng các tuabin ngoài khơi và đang xây dựng ngày càng nhiều với công suất 3 MW trở lên cho mỗi cột gió. Tuy nhiên, các nhà sản xuất Trung Quốc đã chủ yếu vẫn phải dựa trên giấy phép công nghệ của nước ngoài cho các sản phẩm của họ. Thách thức: Khả năng của truyền tải lưới điện đã không theo kịp với tốc độ tăng trưởng trong lắp đặt tuabin gió mới. Vào cuối năm 2011, 52 GW công suất điện gió đã được lắp đặt mới, nhưng chỉ có 45 GW đã được kết nối với mạng lưới điện (CWEA, 2011). Hơn nữa, trong thời gian nhất định, các trang trại điện gió không thể truyền tải tất cả điện năng mà họ sản xuất do không có khả năng kết nối vào lưới điện quốc gia gây ra lãng phí. Phần lớn các dự án điện gió đang ở xa khu vực đông dân, và trong khi đường dây truyền tải mới đang được xây dựng, có một độ trễ đáng kể trước khi Trung Quốc có thể được hưởng lợi đầy đủ từ tất cả năng lực sản xuất từ năng lượng gió. Các nhà sản xuất Trung Quốc vẫn dựa vào nhập khẩu nước ngoài cho một số bộ phận công nghệ cao. Một báo cáo năm 2012 ước tính rằng 50% của giá trị gia tăng của các bộ phận quan trọng và linh kiện kỹ thuật cao được nhập khẩu (Li et al., 2012). Các hệ thống điều khiển, hệ thống thủy lực và vòng bi trục chính thường vẫn phải nhập khẩu. Vì vậy, tăng cường đầu tư cho R&D là hết sức quan trọng để các công ty Trung Quốc có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị. Các ngành công nghiệp gió có thể bị đình trệ do thiếu nhân lực có trình độ. Gần đây một số ít trường đại học hiện đang cung cấp đào tạo chuyên ngành công nghệ gió. Với kế hoạch mở rộng đầy tham vọng năng lượng gió, chính phủ cần phải đảm bảo rằng hệ thống giáo dục đại học đào tạo kỹ sư đủ nhân lực cho sự phát triển năng lượng gió trong thời gian tới. Các chính sách: Các chính sách trợ giá năng lượng tái tạo (Feed-in-Tariff) đã thúc đẩy năng lượng gió phát triển: Các trang trại điện gió lắp đặt đầu tiên vào đầu những năm 2000 có thể nhận được mức thưởng 1,2 nhân dân tệ cho mỗi kWh. Về sau mức hỗ trợ trở thành quyết định của quá trình đấu thầu. Các dự án nhận được một biểu giá hỗ trợ cố định trong từ 0,51-0,61 nhân dân tệ cho mỗi kWh, tùy thuộc vào vị trí lắp đặt. Các ưu đãi tài chính khác cũng được cung cấp cho các nhà sản xuất điện gió: các trang trại gió được giảm 50% thuế VAT cho điện sản xuất từ gió, trong khi giảm thuế cũng được áp dụng cho R&D vào các quá trình phát triển công nghệ mới (Zhang et al., 2009). Các tín hiệu chính sách rõ ràng để phát triển điện gió được đảm bảo duy trì lâu dài. Chính sách hỗ trợ mạnh mẽ thông qua các mục tiêu đầy tham vọng và các ưu đãi về tài chính, hỗ trợ giá cao, là động lực chính của sự tăng trưởng này. Chính phủ duy trì tiếp tục hỗ trợ các chính sách rõ ràng này. 2.3. Năng lượng sinh học Thành công: Đầu tư và sinh khối (biomass) ngày càng mạnh mẽ và mục tiêu đầy tham vọng đã được thiết lập trong thập kỷ tiếp theo của Trung Quốc. Các dự án sinh khối có xu hướng được đặt tại khu vực sản xuất nông nghiệp, nơi nguyên liệu có rất sẵn. Ở Trung Quốc, các vùng đất màu mỡ nhất nằm ở các tỉnh ven biển TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015 169 phía đông, nơi đó cũng là nhu cầu cao nhất về năng lượng, vì vậy phần lớn các dự án đã được xây dựng ở đây. Các dự án khí sinh học (biogas), đặc biệt là sử dụng chất thải động vật để sản xuất điện, cũng có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Từ năm 2008 đến 2010, lượng sản xuất hàng năm của khí sinh học này đã tăng gấp đôi (Ma et al., 2012). Các dự án khí sinh học thu khí metan được sản xuất từ chất thải nông nghiệp hay công nghiệp và sử dụng khí đốt này chuyển đổi thành năng lượng hữu ích, thường là điện. Với nhu cầu gia tăng về thịt ở Trung Quốc tiềm năng khí sinh học từ chất thải động vật có cơ hội phát triển đặc biệt mạnh mẽ. Dự án khí sinh học sử dụng nước thải công nghiệp đang trở nên ngày càng thông dụng. Trong ngành rượu, axit và giấy, công ty có thể thu được metan từ quá trình công nghiệp và biến nó thành năng lượng. Các dự án sử dụng phương pháp phân hủy kỵ khí, và có thể cung cấp điện lại cho các nhà máy sử dụng bên trong doanh nghiệp hoặc bán lại vào lưới điện quốc gia. Việc sử dụng nhiên liệu sinh học lỏng như ethanol sinh học và dầu diesel sinh học cũng có được bước phát triển. Việc sản xuất nhiên liệu sinh học ethanol được pha trộn với xăng cho xe ô tô điện đã tăng gấp đôi từ năm 2005 đến năm 2010. Trung Quốc chỉ lên kế hoạch sản xuất là 10 triệu tấn từ ethanol sinh học và 2 triệu tấn so với dầu diesel sinh học, chỉ bằng hơn 10% so với các mục tiêu của Hoa Kỳ (Ji và Yu, 2008). Thách thức: Thách thức chủ yếu cho sản xuất sinh khối chính là chi phí nguyên liệu. Khi nồi hơi sinh khối điện và máy phát điện khi sản xuất đại trà, giá đã giảm tới mức hợp lý, nhưng chi phí chủ yếu hiện nay là nguyên liệu. Trong khi đó, rơm rạ là tương đối hợp lý, chi phí của các nguyên liệu sinh học khác, chẳng hạn như lõi ngô và vỏ đậu phộng, vẫn còn cao ở Trung Quốc. Sự bùng nổ về số lượng các nhà máy sinh khối đã dẫn đến tình trạng khan hiếm nguyên liệu ngày càng tăng trong một số khu vực nhất định như rơm rạ, vỏ đậu phộng. Điều này đẩy giá của các nguyên liệu mà chiếm tới hơn 70% của chi phí hoạt động sản xuất điện sinh khối lên cao (Ma et al., 2012). Giá nguyên liệu cao làm cho nhiều nhà máy không có lợi nhuận. Chi phí ethanol sinh học cũng khá cao ở Trung Quốc, trong khi cái giá bán của nhiên liệu sinh học là tương đối thấp. Hiện nay, chi phí sản xuất ethanol sinh học ở Trung Quốc là 17% cao hơn so với ở Hoa Kỳ, nhưng cái giá bán của ethanol sinh học là 18% thấp hơn. Điều này có nghĩa là lợi nhuận thấp cho các công ty muốn đầu tư vào sản xuất nhiên liệu sinh học. Các chính sách: Chính sách trợ giá năng lượng tái tạo đã được áp dụng rộng rãi cho các dự án sinh khối và metan sinh học. Chính phủ Trung Quốc đã trợ cấp 0,75 nhân dân tệ mỗi kWh cho tất cả điện sản xuất từ sinh khối và khí sinh học trong năm 2011. Chính sách này đã dẫn đến sự bùng nổ xây dựng của cả hai loại dự án sinh khối và khí sinh học, và cung cấp một môi trường đầu tư ổn định cho các nhà đầu tư. Cơ chế phát triển sạch (CDM) cũng đã cung cấp thêm thu nhập cho người sản xuất năng lượng sinh học. Đến cuối năm 2012, hơn 150 dự án sinh khối và gần 100 dự án thu metan áp dụng được tài trợ theo CDM, nơi các dự án nhận được một mức tiền cho mỗi tấn carbon giảm được. Tất cả các dự án này có công suất lắp đặt hơn 4 GW và 6 tỷ USD vốn đầu tư (UNEP, 2013). Do lo ngại về an ninh lương thực, các nhà chức trách Trung Quốc đã cung cấp mức hỗ trợ ít hơn cho nhiên liệu sinh học. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đang phải theo dõi các mối đe dọa của các dự án năng lượng sinh học vào phần lương thực. Thiếu đất canh tác và các vấn đề về thực thi chính sách ở các cấp địa phương có nghĩa là chính quyền tăng cường sự chú ý tới các mối đe dọa sản xuất nhiên liệu sinh học trên đất nông nghiệp thực phẩm. Trung Quốc khuyến khích tăng cường đầu tư R&D vào năng lượng sinh học bền vững. Trung quốc đang tập trung nghiên cứu nhằm tìm ra loai cây trồng có thể sử dụng là nhiên liệu sinh học nhưng không đe dọa an ninh lương thực. Thông qua nghiên cứu khoa học và đầu tư vào R&D thêm vào nhiên liệu thay thế, năng lượng sinh học có tiềm năng để đóng một phần quan trọng trong tương lai năng lượng của Trung Quốc. 170 TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC 3. Kết luận Nhìn chung, Trung Quốc đã có bước phát triển xanh lớn trong tất cả các ngành công nghiệp trong thập kỷ qua. Trung Quốc dẫn đầu thế giới về năng lượng gió sản xuất và đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng của năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học và các ngành công nghiệp liên quan tới môi trường. Sự phát triển trong các lĩnh vực này đã được thúc đẩy bởi một khuôn khổ chính sách mạnh mẽ. Năng lượng tái tạo, trợ giá năng lượng mạnh mẽ kết hợp với chi phí giảm đã dẫn đến sự tăng công suất lắp đặt trong các dự án điện gió, năng lượng mặt trời, sinh khối và metan sinh học. Tuy nhiên, trên các lĩnh vực nghiên cứu những thách thức lớn vẫn còn. Lượng khí thải carbon của Trung Quốc là lớn nhất trên thế giới. Mặc dù có những tiến bộ gần đây trong năng lượng tái tạo, Trung Quốc vẫn dựa vào than đá và dầu cho 90% nhu cầu năng lượng của họ. Hơn nữa, với mục tiêu sản xuất 15% năng lượng từ các nguồn nhiên liệu phi hóa thạch vào năm 2020, vậy năng lượng của Trung Quốc vẫn phụ thuộc 85% vào các nguồn năng lượng hóa thạch. Chính điều này tiếp tục gây ra các thách thức lớn về môi trường, phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính mà chính phủ Trung Quốc phải đối mặt hiện tại và trong tương lai sắp tới. Việc thiếu đầu tư vào R&D làm cho các công ty Trung Quốc đi sau về công nghệ so với thế giới ở hầu hết các ngành nghiên cứu và phải phụ thuộc vào giấy phép, thiết bị kỹ thuật cao nhập từ nước ngoài. Từ những thành công, thách thức và chính sách phát triển năng lượng tái tạo của Trung Quốc nghiên cứu rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau. 4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Thứ nhất: Xây dựng chính sách trợ giá giá năng lượng tái tạo (feed-in-tariff) thúc đẩy đầu tư năng lượng tái tạo. Ở Trung Quốc, nhà sản xuất năng lượng tái tạo được một mức giá cao hơn tỷ lệ nhất định cho điện tạo ra từ các nguồn truyền thống. Trong trường hợp của năng lượng mặt trời, biểu trợ giá là hơn gấp đôi số tiền đã trả cho điện từ các nhà máy điện đốt than, trong khi các dự án sinh khối nhận được 50% phí bảo hiểm (Ma, 2011). Năng lượng gió trước đây đã nhận được một mức trợ giá cao nhưng chi phí đã giảm, mức trợ giá hiện tại là có tỷ lệ tương tự với các nguồn năng lượng khác. Chính phủ Việt Nam có thể tham khảo vào biểu trợ giá này, từ đó dựa vào tình hình sản lượng và giá cả điện năng hiện nay, đưa ra các mức biểu trợ giá phù hợp với nguồn sản xuất năng lượng tái tạo. Việc có một biểu trợ giá phù hợp sẽ giúp thu hút thêm nhiều nguồn vốn đầu tư của xã hội, góp phần làm tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo mà không làm tăng gánh năng ngân sách nhà nước. Thứ hai: Tăng cường đầu tư trong nghiên cứu và phát triển (R&D). Hiện nay, Trung Quốc đang tăng đầu tư trong R&D, nhằm giải quyết những thách thức về môi trường của đất nước và để đảm bảo rằng ngành công nghiệp xanh của nó có thể cạnh tranh trên toàn cầu. Trên khắp mọi lĩnh vực nghiên cứu có một khoảng cách công nghệ giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và các đối thủ cạnh tranh trên thế giới, vì vậy họ khuyến khích đầu tư dài hạn trong R&D, và tiếp tục hỗ trợ đổi mới trong nước. Tuy nhiên, khác với Trung Quốc, công tác R&D tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn như nguồn tài chính hạn hẹp, thiếu nhân lực trong ngành, chưa có đối tác tin cậy chuyển giao công nghệ Chính vì vậy, Việt Nam cần phải thuê hoặc mua lại các giấy phép công nghệ của các nước có nền năng lượng tái tạo tiên tiến như Trung Quốc đã tiến hành trong thời kỳ đầu, nhằm nắm bắt đón đầu các công nghệ hàng đầu hiện nay mà không mất thời gian nghiên cứu ban đầu. Bên cạnh đó, chúng ta tập trung nghiên cứu nhằm cải biến và phát triển các công nghệ đã được chuyển giao làm giảm giá thành sản xuất, thay thế nhập khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của năng lượng tái tạo so với các năng lượng truyền thống khác. Thứ ba: Xây dựng cơ chế phối hợp đảm bảo lợi ích giữa chính quyền địa phương và trung ương. Là quốc gia quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức trong quản lý, trong đó có sự khác nhau về nhu cầu của chính phủ trung ương và hành động ở cấp địa phương. Đặc biệt, chính quyền địa phương thường tập trung nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn hơn là mối quan tâm về môi trường trong dài hạn hay các vấn đề của quốc gia. Sự khác biệt trong lợi ích này đã gây ra, trong số các TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015 171 tác động khác, một số nơi không thực thi các quy định về môi trường nhất định và thiếu đầu tư năng lượng sạch và phát triển bền vững. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra tại Việt Nam. Chính quyền địa phương vì sự phát triển kinh tế vùng trong ngắn hạn, mong muốn phát triển nhanh sẽ đánh đổi bằng cách đầu tư vào các nguồn năng lượng hóa thạch hay thủy điện. Nhưng trong dài hạn, các dự án năng lượng này có thể gây ra các hiệu ứng tiêu cực về môi trường, sức khỏe người dân và xét trên lợi ích toàn xã hội dự án có thể không đạt hiệu quả. Chính vì vậy, Chính phủ Trung ương cần suy xét kỹ sự đánh đổi giữa cái được và mất để đưa ra các quyết định đúng đắn. Đồng thời chính phủ cũng cần phải xây dựng cơ chế liên kết phối hợp giữa các bộ ngành và địa phương để đảm bảo sự thông suốt và hài hòa lợi ích của cả hai bên trong quá trình phát triển. Thứ tư: Có biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện các quy định về môi trường. Trong ngành sản xuất thiết bị năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học nếu các yêu cầu về môi trường không được tuân thủ đầy đủ thì các nguồn năng lượng này lại là tác nhân gây ra ô nhiễm môi trường. Do đó, đây vẫn là một thách thức lâu dài mà Trung Quốc vẫn phải đối mặt ở cấp địa phương. Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam cần tạo ra hệ thống hoạt động hiệu quả trong việc kiểm soát việc thực hiện các quy định về môi trường của các dự án năng lượng tái tạo dạng này ngay từ đầu và thống nhất trong cả nước. Muốn đạt được điều này thì phải thống nhất từ hệ thống văn bản pháp luật đến cơ chế hợp tác linh hoạt của các cơ quan Nhà nước và các địa phương có liên quan, để đảm bảo mọi yêu cầu về môi trường phải được thực hiện. Thứ năm: Hạn chế đầu tư và giảm dần phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch. Mặc dù có rất nhiều thành công trong năng lượng tái tạo, Trung Quốc vẫn dựa vào than đá và dầu cho 90% nhu cầu năng lượng của họ. Do đó, khí thải carbon và ô nhiêm môi trường vẫn là thách thức lớn nhất cho sự phát triển của Trung Quốc hiện nay. Chính vì vậy, từ kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam ngoài việc có các biện pháp phát triển năng lượng tái tạo, đồng thời có cơ chế chính sách giảm đầu tư và phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch. Điều này sẽ làm giảm lượng năng lượng từ nguồn hóa thạch cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng lượng năng lượng tiêu thụ của Việt Nam. Có như vậy chúng ta mới thực sự đạt được mục tiêu phát triển xanh bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO BP. (2012). Statistical Review of World Energy. China Environment News. (2012). The key areas of pollution control in the 12th Five-year Period. CCID Consulting. (2008). Analysis on China’s Solar PV Industry Chain and Its Impact on the Industry. CWEA. (2011). China’s Wind Power Installed Capacity. Li, J. et al. (2012). China Wind Power Development Report, 2012. Ma, J. (2011). On-grid electricity tariffs in China: development, reform and prospects, Energy Policy, 2011. Huang, J. and Qiu, H. (2010). The socioeconomic impact of the development of biofuel ethanol and the countermeasures. Beijing: Science Press. Ma, L. (2012). Research report on the development of biomass energy industry and technological innovation, China Securities Regulatory Commission and Guangzhou Energy Research Institute of Chinese Academy of Science, 2012. UNEP. (2013). China’s green long march a synthesis report: a study of renewable energy, environmental industry and cement sectors, 2013.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkinh_nghiem_phat_trien_nang_luong_tai_tao_cua_trung_quoc_va.pdf
Tài liệu liên quan