Trong trường hợp của các quỹ REDD+ chi trả theo hoạt động, các nhà tài trợ có sự linh
hoạt trong một số lĩnh vực, điều này phản ánh cách tiếp cận theo giai đoạn đối với
REDD+ cũng như mức độ 'sẵn sàng' khác nhau của từng quốc gia. Ví dụ như với các
quỹ Amazon và GRIF, các nhà tài trợ cho phép thực hiện chi trả khi chưa có Đường cơ
sở (RL) hoàn chỉnh cũng như hệ thống MRV chưa vận hành, thay vào đó là cho phép các
hệ thống này được phát triển và vận động theo thời gian. Mặc dù có sự linh hoạt chung
về chi trả theo kết quả như vậy nhưng các nhà tài trợ thường vẫn chỉ đạo về cách thức
sử dụng quỹ (như thông qua thẩm định một số chương trình hoặc hoạt động tài trợ nào
đó).
Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ cũng có thể phản ánh bối cảnh của quốc gia sở tại. Ở
Guyana, tình hình quản trị điều hành yếu kém và nguy cơ tham nhũng cao khiến các nhà
tài trợ luôn đưa cải cách quản trị điều hành như là một điều kiện để chi trả theo kết quả
thực hiện.
Cuối cùng, trong một số trường hợp các nhà tài trợ có thể áp đặt một số điều kiện nhằm
thúc đẩy các lợi ích quốc gia của mình, như quảng bá cho các doanh nghiệp của họ
chẳng hạn. Như trong trường hợp quỹ FONAFIFO, có một khoản trợ cấp từ Đức với yêu
cầu là không quân Đức hoặc các công ty vận tải biển có vị thế bình đẳng với các công ty
Costa Rica trong việc cung cấp các dịch vụ vận tải được quỹ tài trợ.
Các yêu cầu cụ thể do các nhà tài trợ cá nhân đặt ra sẽ tiếp tục được xem xét trong giai
đoạn tiếp theo khi Chương trình LEAF hỗ trợ thành lập Quỹ REDD+ Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 817 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh nghiệm quốc tế về REDD+ và các quỹ lâm nghiệp quốc gia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Kinh nghiệm quốc tế về REDD+ 
và các quỹ lâm nghiệp quốc gia 
Việt Nam 
Giảm phát thải từ rừng ở khu vực châu Á (LEAF) 
Hiệp định hợp tác: AID-486-A-11-00005 
Kinh nghiệm quốc tế về REDD+ và các quỹ lâm nghiệp quốc gia 
Việt Nam 
Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) 
Phái đoàn Phát triển Khu vực châu Á (RDMA), Bangkok, Thailand 
Đệ trình bởi: 
Winrock International 
Ngày đệ trình: 
16th July 2013 
Chương trình Giảm phát thải từ rừng ở khu vực châu Á (LEAF) là một chương trình hợp tác 
5 năm, do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thông qua Phái đoàn Phát triển Khu 
vực châu Á (RDMA) tài trợ. Chương trình LEAF được tổ chức Winrock International 
(Winrock) thực hiện, với sự phối hợp với các đối tác chính là Tổ chức phát triển Hà Lan 
(SNV), Climate Focus và Trung tâm vì Con người và Rừng (RECOFTC). Chương trình LEAF 
bắt đầu triển khai từ năm 2011 và sẽ tiếp tục đến năm 2016. 
Mục lục 
1 Giới thiệu ......................................................................................................................1 
1.1 Thông tin chung .............................................................................................................1 
1.2 Vai trò và chức năng của các quỹ REDD+ quốc gia ......................................................2 
2 Đánh giá kinh nghiệm và so sánh với các quỹ quốc tế ............................................4 
2.1 Cấu trúc quỹ ...................................................................................................................9 
2.2 Quản trị và quản lý quỹ ................................................................................................ 10 
2.3 Đầu tư tiền quỹ ............................................................................................................. 13 
2.4 Tính hợp thức và các tiêu chí lựa chọn ........................................................................ 14 
2.5 Công tác đánh giá và “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV) ................................. 16 
2.6 Các biện pháp bảo đảm an toàn về xã hội và môi trường............................................ 18 
2.7 Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ .............................................................................. 19 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 1 LEAF 
1 Giới thiệu 
1.1 Thông tin chung 
Tại kỳ họp thứ 16 Hội nghị các bên (COP16), Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí 
hậu (UNFCCC), các bên nhất trí về việc thực hiện REDD+ thông qua một phương pháp 
tiếp cận theo giai đoạn, bắt đầu với các hoạt động chuẩn bị trước khi chuyển sang các 
giai đoạn trình diễn, và cuối cùng là các hoạt động định hướng dựa trên kết quả được 
theo dõi, báo cáo và thẩm định (MRV) một cách đầy đủ và toàn diện. Trong khi ở quy mô 
quốc tế, cho đến nay phần lớn các hoạt động REDD+ được tập trung vào các hoạt động 
chuẩn bị, thì sự thay đổi gần đây của nhiều quốc gia trong việc thí điểm chi trả theo kết 
quả cho thấy sự cần thiết phải xây dựng các phương pháp có hiệu quả, hiệu lực để tiếp 
nhận, quản lý và giải ngân kinh phí. 
Việt Nam với những bước tiến nhanh chóng trong việc thực hiện REDD+ đang kỳ vọng 
sẽ là một trong những quốc gia châu Á đầu tiên nhận được khoản chi trả cho các kết quả 
của mình. Trong bối cảnh này, một quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 
799/QĐ-TTg ngày 27/06/2012) quy định về việc thành lập Quỹ REDD + thuộc Quỹ bảo vệ 
và phát triển rừng Việt Nam (VNFF) theo đó Tổng cục Lâm nghiệp (VNFOREST) đã chỉ 
đạo các cơ quan liên quan chuẩn bị đề cương thành lập quỹ để trình Chính phủ phê 
duyệt trong năm 2013. 
Báo cáo này là bước đầu tiên trong số các hoạt động mà Chương trình LEAF sẽ hỗ trợ 
chính phủ Việt Nam trong việc thiết lập Quỹ REDD+. Mục đích của báo cáo là đúc rút 
kinh nghiệm và bài học thực tiễn từ các quỹ quốc gia hoặc khu vực với mục đích tương 
tự như quỹ REDD+ của Việt Nam, trong đó bao gồm một số quỹ REDD+ mới ra đời hoặc 
quỹ về khí hậu, và cả các quỹ về bảo vệ rừng hoặc môi trường đã hoạt động trong vài 
thập kỷ. 
Báo cáo này sẽ tập trung phân tích so sánh của các khía cạnh hoạt động của quỹ 
REDD+ hoặc quỹ lâm nghiệp. Chúng tôi nhận thấy rằng các điều kiện kinh tế vĩ mô và 
các ngành là rất trọng yếu đối với quyết định của các nhà tài trợ và các tổ chức khu vực 
tư nhân để xử lý các khoản tiền trong quỹ quốc gia. Trong báo cáo, các điều kiện khu 
vực tín dụng và tài chính có ảnh hưởng đến những cuộc đàm phán xung quanh các 
khoản chi trả theo kết quả thực hiện sẽ được đề cập nhưng không đi vào chi tiết. Các 
tiêu chí có liên quan sẽ được phân tích và khuyến nghị riêng. 
Báo cáo này có cấu trúc như sau: Mục 1.2 trình bày tổng quan về vai trò và chức năng 
của các quỹ REDD+ quốc gia, trong khi Phần 2 tiến hành phân tích so sánh các quỹ, tập 
trung vào bảy khía cạnh được dự kiến sẽ là trọng tâm trong thiết kế của Quỹ REDD+ của 
Việt Nam. Trong mỗi trường hợp, báo cáo sẽ trình bày các phương pháp tiếp cận chính 
đã được áp dụng cho từng vấn đề cùng các hàm ý tương ứng, nhằm rút ra bài học cho 
việc thiết kế thành phần tương ứng của quỹ. Phần giới thiệu chi tiết về từng quỹ được 
trình bày trong Phụ lục 1. 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 2 LEAF 
1.2 Vai trò và chức năng của các quỹ REDD+ quốc gia 
Chi trả REDD+ theo kết quả thực hiện là cách tiếp cận tương đối mới theo hướng hỗ trợ 
phát triển chính thức (ODA) theo kiểu "tiền mặt khi giao hàng" và "chi trả theo kết quả" 
trong đó các khoản chi trả của nhà tài trợ được thực hiện dựa trên điều kiện đạt được 
những kết quả cụ thể. Trong trường hợp của REDD+, kết quả hội đủ điều kiện chi trả 
được đo lường theo lượng cắt giảm khí nhà kính (GHG) so với đường tham chiếu cơ sở. 
Các kết quả bổ sung khác, chẳng hạn như liên quan đến xóa đói giảm nghèo, bảo tồn tài 
nguyên nước và đa dạng sinh học cũng có thể được khen thưởng về tài chính theo cách 
này, mặc dù các phương pháp luận thường là chưa phát triển và phổ biến. 
Một trong những lợi thế của cách chi trả theo kết quả thực hiện là các nước đang phát 
triển có toàn quyền sở hữu và hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc đạt được các 
kết quả đã cam kết - và đổi lại sẽ được chi trả. Sự chuyển dịch mô hình tài chính từ theo 
chương trình sang theo kết quả giúp trao quyền cho các tổ chức quốc gia và phân cấp 
quyết định điều hành nhiều hơn cho cấp quốc gia do vậy củng cố chủ quyền của quốc 
gia trong thực hiện chương trình. Một trong những đặc thù của chi trả REDD+ theo kết 
quả thực hiện là quốc gia thụ hưởng có quyền tự chủ cao hơn trong việc sử dụng quỹ. 
Khởi điểm của việc quản lý và điều hành các khoản thanh toán quốc tế là việc tạo lập các 
quỹ REDD+ quốc gia. Các quỹ này sẽ cho phép quản lý các khoản đóng góp quốc tế một 
cách minh bạch, hiệu quả và hiệu suất. Tùy thuộc vào năng lực quốc gia, các quỹ sẽ 
được phân cấp nhiều hoặc ít hơn và tương tự như vậy với việc ra quyết định. Khả năng 
"truy cập trực tiếp" của Quỹ Thích ứng cung cấp một số bài học bổ ích về các yêu cầu 
đã được áp dụng cho các tổ chức quốc gia nhận tài trợ từ Quỹ Thích ứng và có khả năng 
được áp dụng một cách tương tự như tài trợ cho REDD+. Với Quỹ thích ứng, các quốc 
gia thành lập các Cơ quan thực thi quốc gia (NIEs). Các cơ quan này - khi được công 
nhận bởi Hội đồng quản trị Quỹ Thích ứng (AFB) - sẽ quản lý quỹ cùng với các Cơ quan 
thực thi đa phương (MIEs). Để làm như vậy NIEs phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về 
tín dụng và phải được Hội đồng quản trị Quỹ chấp thuận (xem Hộp #1). Với cách quản trị 
quỹ REDD+, các tổ chức tài trợ quốc gia có khả năng đảm nhận vai trò lớn hơn so với 
Quỹ Thích ứng. Tuy nhiên, có khả năng là các nhà tài trợ sẽ kỳ vọng rằng các tiêu chí tín 
dụng tương tự sẽ được đáp ứng cho một quỹ REDD+ quốc gia hơn là những yêu cầu để 
được AFB công nhận (xem Hộp #1). 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 3 LEAF 
Để thỏa mãn các tiêu chuẩn này, Quỹ REDD+ quốc gia cần đáp ứng được càng nhiều 
càng tốt các yêu cầu sau: (i) độc lập với chính phủ; (ii) được quản lý bởi một cơ quan / 
nhóm các nhà quản lý độc lập; (iii) áp dụng các chuẩn kế toán của quốc tế và đáp ứng 
các tiêu chuẩn tín dụng quốc tế; (iv) được quản lý một cách minh bạch. Thiết kế của các 
các quỹ REDD+ quốc gia sẽ phụ thuộc vào điều kiện cụ thể về kinh tế và pháp lý của 
quốc gia đó, các ưu tiên về chính sách đối nội, các tổ chức hiện có, và tính sẵn có của 
các nguồn lực. Tuy nhiên, một số khía cạnh liên quan đến việc các quỹ quốc gia tương 
tác như thế nào với quỹ REDD+ quốc tế cũng cần được xem xét. Giao diện giữa tài 
chính cấp quốc gia và quốc tế đòi hỏi quỹ REDD+ phải đáp ứng được các chức năng sau 
đây: 
Tiêu chuẩn tín dụng cho Cơ quan thực thi quốc gia (NIE) thuộc Quỹ Thích ứng: 
Khi nhất trí lập ra Quỹ thích ứng, các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã quyết định rằng quỹ phải 
giúp "quản lý tài chính một cách hiệu quả, bao gồm cả việc sử dụng các tiêu chuẩn tín dụng quốc tế" 
(Quyết định 5/CMP.2). Tại cuộc họp thứ 7, Hội đồng quản trị Quỹ thích ứng đã thông qua các tiêu 
chuẩn tín dụng sau đây, cần được đấp ứng để trở thành một tổ chức thực thi của Quỹ: 
a) Tính toàn vẹn tài chính và quản lý tài chính 
• Lưu giữ chính xác và thường xuyên các giao dịch và số dư, được kiểm toán định kỳ bởi một công 
ty hoặc tổ chức độc lập 
• Quản lý và giải ngân quỹ một cách hiệu quả, với các biện pháp an toàn tới người nhận một cách 
kịp thời 
• Đưa ra được các kế hoạch và ngân sách có tầm nhìn hướng tới tương lai 
• Có tư cách pháp nhân để ký hợp đồng với Quỹ Thích ứng và bên thứ ba 
b) Năng lực thể chế 
• Quy trình đấu thầu mua sắm đảm bảo minh bạch, bao gồm tính cạnh tranh 
• Năng lực tiến hành giám sát và đánh giá 
• Năng lực xác định, lập và thẩm định dự án / chương trình 
• Năng lực quản lý hoặc giám sát việc thực hiện dự án / chương trình bao gồm khả năng quản lý các 
nhà thầu phụ và hỗ trợ thực hiện và giao hàng 
c) Tính minh bạch và Quyền hạn tự điều tra 
• Năng lực để đối phó với sự quản lý yếu kém về tài chính và các hình thức sơ suất khác 
Hộp #1 - Tiêu chuẩn về tín dụng của Quỹ Thích ứng 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 4 LEAF 
1. Quản lý mối quan hệ với các thực thể hoạt động theo (a) cơ chế UNFCCC REDD+; (b) 
các chương trình REDD+ quốc gia hoặc khu vực; và (c) các nguồn đa phương quốc tế và 
song phương tài trợ REDD+, bao gồm1: 
a. Yêu cầu và tiếp nhận tài trợ từ các nguồn quốc tế; 
b. Đệ trình chiến lược REDD+ quốc gia; 
c. Đệ trình báo cáo REDD+ quốc gia cùng báo cáo MRV; và 
d. Báo cáo định kỳ tại COP hoặc cơ quan cấp cao về thực hiện REDD+ 
2. Chấp thuận và thực hiện: 
a. Tài trợ quốc tế, tín dụng, và báo cáo thủ tục; 
b. Các tiêu chuẩn, phương pháp MRV, và các quy trình kỹ thuật khác; 
c. Tiêu chuẩn xã hội và môi trường, thủ tục khiếu nại. 
d. Giám sát các mối quan hệ với các thị trường carbon quốc tế. 
Năng lực của các quỹ REDD+ quốc gia sẽ xác định trách nhiệm mà các thực thể quốc tế 
sẽ phân cấp cho các tổ chức quốc gia. Số lượng và quy mô tương đối nhỏ hiện tại của 
các quỹ REDD+ độc lập vẫn là một rào cản đối với việc xây dựng các thể chế tài chính 
REDD+ dài hạn. Các chính phủ cần đóng vai trò tiên phong trong việc xây dựng thể chế 
cho các quỹ quốc gia. Với tinh thần như vậy, nghiên cứu này được đánh dấu qua việc 
tham mưu cho Chính phủ Việt Nam về việc thành lập một quỹ REDD+ quốc gia. 
2 Đánh giá kinh nghiệm và so sánh với các quỹ quốc tế 
Việc xem xét đối sánh được thực hiện với 8 quỹ với những đặc thù riêng về mục tiêu, từ 
tài trợ cho các khu bảo tồn để tiếp nhận, quản lý và giải ngân kinh phí REDD+ theo hoạt 
động. Bảng 1 cung cấp một bức tranh tổng quan của từng quỹ. Việc đối sánh được thực 
hiện thông qua rà soát nội nghiệp các tài liệu cơ bản của quỹ và sau đó là các tài liệu bổ 
sung bao gồm cả các văn bản pháp luật, biên bản ghi nhớ, tài liệu ý tưởng, quy trình vận 
hành, hướng dẫn mua sắm và các tài liệu khác hoặc các hướng dẫn khung mô tả cách 
quỹ được thiết kế, thành lập, và quản lý. Phân tích tập trung vào bảy cấu phần cụ thể có 
liên quan trọng yếu đến quản lý quỹ một cách hiệu quả và hiệu suất, nhằm làm nổi bật 
những bài học và thực tiễn tốt nhất từ kinh nghiệm hiện có đối với mỗi cấu phần. Bảy cấu 
phần bao gồm: 
(i) Cơ cấu Quỹ - bao gồm thiết kế tổng thể của quỹ, trong đó có tư cách pháp nhân và 
mối quan hệ với chính phủ, việc tạo ra nhiều cửa sổ giao dịch và dạng thức quỹ cùng các 
các nguồn kinh phí được sử dụng; 
1 Trang 23, Báo cáo về các phương án thể chế đối với REDD+. 
oar.org/links/REDD+IOA_en.pdf 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 5 LEAF 
(ii) Quản trị và quản lý quỹ - các loại hình tổ chức chịu trách nhiệm điều hành và quản lý 
quỹ cùng với các thành phần, chức năng và trách nhiệm của các tổ chức này; 
(iii) Các nguyên tắc và quy định đầu tư - phương pháp, quy định và hướng dẫn được đặt 
ra để đầu tư các nguồn lực vào quỹ; 
(iv) Tính hợp thức và các tiêu chí lựa chọn - kiểu hoạt động và các thực thể hội đủ điều 
kiện để tài trợ cũng như các tiêu chí lựa chọn người nhận / thụ hưởng; 
(v) Đánh giá và theo dõi, báo cáo, thẩm định (MRV) - các quy tắc và quy trình để theo dõi 
và đánh giá một cách hiệu quả, minh bạch (1) tình hình hoạt động tổng thể của quỹ; và 
(2) tình hình thực hiện các hoạt động tài trợ cho các cá nhân; 
(vi) Các biện pháp đảm bảo an toàn về xã hội và môi trường - các quy định và hướng 
dẫn đặt ra để đảm bảo việc sử dụng quỹ là tương thích với các mục tiêu xã hội và môi 
trường và không gây ra những hậu quả ngoài ý muốn; 
(vii) Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ - các yêu cầu được đặt ra bởi các nhà tài trợ quỹ 
như một điều kiện khi quyên tiền cho quỹ. 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 6 LEAF 
Bảng 1: Tổng quan về các đặc điểm chính của các quỹ được xem xét 
 Đối 
tượng tài 
trợ 
Quản trị / điều 
hành 
Đầu tư Tiêu chí lựa chọn MRV Các biện 
pháp an 
toàn 
Yêu cầu của 
nhà tài trợ 
GRIF REDD+ Ngân hàng Thế 
giới điều hành 
ủy thác, hướng 
dẫn bởi hội 
đồng quản trị 
hỗn hợp chính 
phủ và nhà tài 
trợ 
Vốn / danh 
mục lưu 
động và cố 
định 
Theo Chiến lược 
phát triển các-bon 
thấp của Guyana 
Theo hiệu 
quả hoạt 
động quỹ; 
kiểm toán tài 
chính hàng 
năm 
Theo chính 
sách của 
Ngân hàng 
Thế giới và 
bên thực thi 
Các chỉ số về 
trao quyền kèm 
theo các chỉ số 
về thực hiện 
CBFF REDD+ AfDB điều hành 
ủy thác, hướng 
dẫn bởi hội 
đồng quản trị 
nhiều bên, hỗ 
trợ bởi thực thể 
quản lý quỹ của 
tư nhân 
Đầu tư theo 
quyết định 
của người 
ủy thác 
Theo 6 tiêu chí Kiểm toán 
tài chính 
hàng năm 
(cả quỹ và 
dự án) 
Theo chính 
sách của 
AfDB 
Sử dụng kinh 
phí quỹ để 
chống mất rừng, 
xây dựng cơ sở 
dữ liệu quốc gia 
và hệ thống 
MRV, và tăng 
cường quan hệ 
đối tác nhà nước 
- XH dân sự 
Amazon 
Fund 
REDD+ Ngân hàng 
Quốc gia điều 
hành ủy thác, 
hướng dẫn bởi 
hội đồng quản trị 
nhiều bên, hỗ 
trợ bởi Ủy ban 
kỹ thuật 
Vốn lưu 
động đầu tư 
vào quỹ đầu 
tư thu nhập 
cố định 
Các dự án cần 
trực tiếp hoặc gián 
tiếp giảm mất 
rừng, đến 20% 
dành cho các dự 
án quốc tế hoặc 
ngoài vùng 
Amazon 
Theo hiệu 
quả hoạt 
động quỹ; 
kiểm toán tài 
chính hàng 
năm 
REDD + 
SES và 
theo các 
chính sách 
của BNDES 
Không rõ 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 7 LEAF 
ICCTF 
Tất cả các 
ngành 
giảm nhẹ 
BĐKH 
Cơ cấu chính 
phủ chi phối với 
UNDP đóng vai 
trò ủy thác 
Không Các dự án do các 
bộ hỗ trợ phù hợp 
với Ch.trình hành 
động quốc gia về 
khí nhà kính 
Kiểm toán 
tài chính 
hàng năm 
Theo các 
chính sách 
của UNDP 
Không rõ 
FMM Các hoạt 
động lâm 
nghiệp đa 
dạng 
Ngân hàng quốc 
gia điều hành, 
hướng dẫn bởi 
hội đồng quản trị 
nhiều bên 
Tối đa hóa 
đầu tư dài 
hạn 
Tùy thuộc các tiểu 
chương trình 
Kiểm toán 
tổng thể của 
kiểm toán 
viên liên 
bang, ở cấp 
độ người 
nhận, tùy 
thuộc 
chương 
trình 
Không có 
dữ liệu 
Chủ yếu là trong 
nước tài trợ; 
tương lai khi 
tham gia trong 
FIP sẽ đòi hỏi 
đến áp dụng các 
thủ tục của Ngân 
hàng Thế giới 
PROFON
ANPE 
Bảo tồn 
và quản lý 
các khu 
bảo tồn 
Pháp nhân độc 
lập, hướng dẫn 
bởi hội đồng 
quản trị nhiều 
bên 
Đầu tư cố 
định do tư 
nhân quản 
lý 
Từng dự án, tùy 
theo các nhà tài 
trợ đơn lẻ 
Hội đồng 
quản trị 
giám sát tất 
cả các dự 
án, kiểm 
toán độc lập 
hàng năm 
Các chính 
sách của 
World Bank 
Tài trợ tùy thuộc 
vào Hiệp định 
FONAFIF
O 
Bảo tồn 
bởi các 
chủ rừng 
nhỏ và 
vừa 
Thực thể bán 
công, hướng 
dẫn hội đồng 
quản trị nhà 
nước - tư nhân, 
sử dụng một 
quỹ ủy thác 
quốc gia 
Không có 
thong tin 
Tùy thuộc tiểu 
chương trình; 
đánh giá theo giá 
trị sinh thái của 
đất 
Tổ chức tư 
nhân chịu 
trách nhiệm 
kiểm toán 
các báo cáo 
tham gia; 
kiểm toán 
độc lập 
hàng năm 
Các chính 
sách cá biệt 
về xã hội và 
môi trường 
áp dụng 
cho các quỹ 
trong nước; 
tiêu chuẩn 
của nhà tài 
trợ 
Một số dòng vốn 
có yêu cầu của 
nhà tài trợ cá 
nhân 
Lao EPF Các dự án 
bảo vệ 
môi 
Tổ chức tự trị, 
hướng dẫn bởi 
hội đồng quản trị 
Tài trợ vốn 
ban đầu vào 
quỹ cấp vốn 
Thẩm định theo 
trường hợp riêng 
lẻ 
Cơ quan 
quản trị thực 
hiện đánh 
Các biện 
pháp bảo 
vệ nội bộ 
Các nhà tài trợ 
cá nhân tài trợ 
cho các mảng cụ 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 8 LEAF 
trường nhiều bên giá tổng thể 
về hoạt 
động quỹ, 
thủ tục đơn 
giản hóa 
cho các dự 
án nhỏ; 
kiểm toán 
độc lập 
hàng năm 
dựa trên 
chính sách 
của Ngân 
hàng Thế 
giới 
thể có thể yêu 
cầu áp dụng các 
chính sách / tiêu 
chuẩn riêng của 
họ thay thế cho 
các chính sách 
chuẩn tắc khác 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 9 LEAF 
2.1 Cấu trúc quỹ 
Phần lớn các quỹ được khảo sát, bao gồm cả các quỹ REDD+, là các quỹ tồn tại độc 
lập, đứng riêng lẻ chứ không phải là hợp phần của các quỹ khác. Tuy nhiên, nhiều quỹ 
trong số này có một số quỹ con liên quan đến các chủ đề chuyên biệt (ví dụ như 
FONAFIFO ở Costa Rica) hoặc với các dự án cụ thể có quy mô lớn (ví dụ như 
PROFONANPE Peru). Các quỹ cũng đã vận dụng dạng thức quỹ khác nhau để đáp 
ứng các mục tiêu khác nhau. Chẳng hạn như PROFONANPE là sự kết hợp giữa các quỹ 
cung cấp vốn, chìm và hỗn hợp. Quỹ cấp vốn được sử dụng cho các dự án có giống vốn 
ban đầu tương đối lớn và đòi hỏi sự ổn định tài chính dài hạn; quỹ chìm được sử dụng 
cho các dự án đòi hỏi tính sẵn có của nguồn tài chính lưu động lớn; quỹ hỗn hợp được 
sử dụng cho các dự án đòi hỏi một sự cân bằng giữa tính ổn định lâu dài và thanh khoản 
ngắn hạn. 
Về nguồn kinh phí, quỹ được xem là thành công nhất đã xoay xở để thu hút được một 
loạt các nguồn tài trợ, giúp giảm thiểu tác động của các sự kiện chính trị hoặc kinh tế. 
Các quỹ khí hậu và quỹ REDD+ quốc gia đến nay chủ yếu dựa vào các nhà tài trợ quốc 
tế, đặc biệt là Na Uy, Đức và Vương quốc Anh, mặc dù Quỹ Amazon cũng đã thu hút 
được một số lượng nhỏ (4,2 triệu USD) từ công ty dầu khí quốc gia Petrobras. 
Mặt khác, một số quỹ lâm nghiệp có tuổi đời lâu hơn đã thu hút được nguồn tài chính 
đáng kể từ khu vực tư nhân trong nước, chủ yếu thông qua các loại thuế và khoản thu 
bắt buộc, và đối với FFM và FONAFIFO đây là những nguồn tài chính chủ yếu. Tuy nhiên 
cần lưu ý rằng cả hai quỹ này tập trung nhiều vào chi trả dịch vụ hệ sinh thái do vậy có 
mối liên hệ rõ ràng với các khoản thanh toán của khu vực tư nhân. Chi trả tự nguyện từ 
khu vực tư nhân hoạt động trong cả nước cũng đã được thu hút bởi một số quỹ, và 
thường dựa trên động cơ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trong khi trong tất cả 
các trường hợp, nguồn này chỉ cấu thành một phần nhỏ kinh phí thì nó vẫn đóng vai trò 
là 1 sự bổ sung hữu ích cho các nguồn tài chính khác. Trong trường hợp của 
FONAFIFO, đóng góp đó của khu vực tư nhân đã được tạo điều kiện thông qua việc phát 
hành chứng chỉ môi trường (ESCs) cũng được xem là bằng chứng về sự đóng góp vào 
quỹ. 
Các điểm chính: 
• Phần lớn là quỹ độc lập, đứng riêng lẻ, mặc dù một số lớn bao gồm một vài quỹ 
nhỏ hoặc cấu phần theo chủ đề 
• Các quỹ thành công nhất đã kêu gọi được nhiều dòng vốn 
• Đa dạng hóa các nguồn tài trợ và huy động sự tham gia của khu vực tư nhân 
thông qua các khoản chi trả bắt buộc hoặc tự nguyện có thể giúp tăng vốn và 
hạn chế tác động bởi các biến động chính trị hoặc kinh tế 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 10 LEAF 
2.2 Quản trị và quản lý quỹ 
Phần lớn các quỹ được tìm hiểu tồn tại như thực thể tự trị hoặc bán tự trị với những mức 
độ độc lập đáng kể đối với chính phủ. Trong hầu hết các trường hợp, đây là các quỹ 
có tư cách pháp nhân độc lập, có thể như là tổ chức tư nhân phi lợi nhuận, ủy thác, hoặc 
một tổ chức phân cấp hoặc thực thể bán công. Hình thức pháp lý chính xác tùy thuộc vào 
bối cảnh luật pháp quốc gia. Tuy nhiên, mức độ độc lập với chính phủ liên quan chặt chẽ 
với tính hiệu quả của quỹ và đặc biệt là khả năng thu hút nhà tài trợ. Kinh nghiệm với 
PROFONANPE cũng cho thấy rằng việc duy trì quỹ một cách hợp pháp tách rời với chính 
phủ cũng có thể giúp đảm bảo rằng các chủ nợ của nhà nước không thể truy cập nguồn 
lực của quỹ khi đất nước có biến cố (vỡ nợ, chủ quyền). 
Trong khi các quỹ có sự khác nhau về một số khía cạnh liên quan đến cơ cấu quản trị nội 
bộ, thì trong mọi trường hợp có hai thể chế cơ bản tồn tại: một ban điều hành hay hội 
đồng quản trị (như ban chỉ đạo, ban giám đốc) và cơ quan quản lý (ví dụ như văn phòng 
quỹ). Hội đồng quản trị thường được giao chức năng chỉ đạo tổng thể và giám sát quỹ, 
chẳng hạn như xây dựng quy trình vận hành và đầu tư, trong khi cơ quan quản lý chịu 
trách nhiệm quản lý các hoạt động thường nhật của quỹ và trong nhiều trường hợp có 
trách nhiệm ở mức độ nhất định về tín dụng. Một số quỹ, chẳng hạn như Grif và ICCTF 
thì trong cơ cấu tổ chức tổng thể có giao một số vai trò và trách nhiệm cụ thể cho bên 
thực hiện dự án. 
Các điểm chính: 
• Đảm bảo tính độc lập của quỹ đối với Chính phủ là một yếu tố quan trọng trong 
việc thu hút các nhà tài trợ 
• Tất cả các quỹ đều có hình thức ban điều hành và ban quản lý, trong khi một số 
quỹ dựa vào các thực thể ủy thác, ủy ban kỹ thuật hoặc các tổ chức nghiệp vụ 
khu vực tư nhân để tăng hiệu quả. Cơ quan chính phủ có thể hỗ trợ nhưng 
không đóng vai trò trung tâm 
• Bảo đảm sự cân bằng giữa đại diện của chính phủ, xã hội dân sự và khu vực tư 
nhân trong thành phần hội đồng quản trị và bảo đảm quyền biểu quyết ngang 
bằng của các bên sẽ làm tăng tăng tính hợp pháp và hiệu quả của quỹ 
• Hạn chế chi phí giao dịch sẽ giúp tăng tính hấp dẫn của quỹ với các nhà tài trợ. 
Trong khi chi phí hành chính của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn là từ 10-20%, 
thì với khu vực tư nhân và các ngân hàng quốc gia tỷ lệ này có thể chỉ là 3% 
• Đảm bảo trách nhiệm tín dụng phù hợp là chìa khóa của thành công. Các nghĩa 
vụ tín dụng sẽ áp dụng tối thiểu là với các ủy viên quản trị (người nhận ủy thác), 
nhưng trong nhiều trường hợp cũng với các cơ quan quản lý hoặc những người 
quản lý hoặc giải ngân kinh phí 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 11 LEAF 
Trong hầu hết trường hợp, thành viên của hội đồng quản trị bao gồm đại diện cấp cao 
từ khu vực công (thường từ nhiều Bộ / ngành), khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Trong 
một số quỹ REDD+, như Grif và ICCTF, đại diện của xã hội dân sự và khu vực tư nhân 
chỉ được trao vai trò quan sát viên, tuy nhiên cơ cấu này đã chịu sự chỉ trích đáng kể và 
được cho là yếu tố cản trở khả năng thu hút nhiều nhà tài trợ đến với Quỹ. Tương tự như 
vậy, đánh giá của Quỹ môi trường toàn cầu toàn cầu về hiệu quả hoạt động của 
PROFONANPE cho thấy rằng sự chi phối của chính phủ trong Hội đồng quản trị đã cản 
trở sự đa dạng hóa (các nguồn vốn) và ảnh hưởng xấu đến hoạt động của quỹ, vấn đề 
này sau đó đã được giải quyết. Những kết luận này là phù hợp với nghiên cứu khác về 
các quỹ bảo tồn quốc tế, trong đó cũng nêu bật tầm quan trọng của việc tránh sự chi phối 
của chính phủ trong các cơ quan điều hành quỹ, trong khi vẫn cần duy trì ít nhất một đại 
diện của chính quyền cấp cao, như là chìa khóa cho sự thành công của các quỹ.2 
Quyết định về cơ cấu và quyền bỏ phiếu của các thực thể khác nhau trong hội đồng quản 
trị có sự khác biệt lớn giữa các quỹ. Một số quỹ sử dụng quyết định đồng thuận trong khi 
những quỹ khác chọn quyết định thông qua bỏ phiếu đa số. Tương tự như vậy, một số 
quỹ cho mỗi thành viên của hội đồng quản trị một phiếu đơn duy nhất, trong khi Quỹ 
Amazon lại cho mỗi nhóm bên liên quan (chính quyền trung ương, địa phương, các tổ 
chức xã hội dân sự) một phiếu khối đơn duy nhất. 
Trách nhiệm của hội đồng quản trị thường bao gồm các vấn đề điển hình như thông 
qua các chính sách và chiến lược tài trợ, theo dõi và giám sát tình hình hoạt động của 
Quỹ, đề ra các chủ trương đầu tư và thiết lập các quy tắc và điều kiện cho vay / viện trợ. 
Trong một số trường hợp, hội đồng quản trị cũng có trách nhiệm phê duyệt ngân sách 
hoặc đề cương tài trợ, đặc biệt đối với các dự án lớn. Tuy nhiên, kinh nghiệm với CBFF 
cho thấy rằng khi có số lượng lớn các yêu cầu cấp vốn thì việc hạn chế sự tham gia của 
các cơ quan quản trị trong quy trình ra quyết định ở một ngưỡng nhất định sẽ làm tăng 
đáng kể hiệu quả điều hành. 
Cơ quan quản lý thường bao gồm một đội ngũ cán bộ chuyên trách, được điều hành bởi 
một Giám đốc. Chức năng của cơ quan này thường bao gồm quản lý tài chính và vận 
hành quỹ, soạn thảo chiến lược và kế hoạch trình hội đồng quản trị, sàng lọc hoặc phê 
duyệt sơ bộ các đề cương tài trợ và như trong trường hợp của Lào EPF là trợ giúp cho 
bên nhận tài trợ trong việc chuẩn bị đề xuất dự án. 
Cơ quan quản lý thường được hỗ trợ bởi các cơ quan chính phủ hay tổ chức quốc tế. 
Ví dụ như PROFONANPE được hỗ trợ trong việc giám sát tài chính và kỹ thuật của nhiều 
chương trình và dự án bởi 2 cơ quan là Sở Tài chính và Hành chính và Sở Phát triển và 
Giám sát. Trong khi đó với GRIF, các đối tác như Ngân hàng thế giới và UNDP hỗ trợ 
2 Barry Spergel và Philippe Taïeb, Đánh giá nhanh về các quỹ ủy thác về bảo tồn, Nhóm công tác tài chính 
về bảo tồn với các quỹ môi trường (Xuất bản lần thứ 2, 5/2008), trang 27-29. 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 12 LEAF 
các đơn vị thực hiện dự án để lập tài liệu ý tưởng và đề cương dự án và chịu trách nhiệm 
theo dõi và giám sát. 
Ngoài các thực thể liệt kê ở trên, nhiều quỹ cũng sử dụng dịch vụ ủy thác để quản lý 
quỹ. Trong trường hợp của các quỹ khí hậu và quỹ REDD+ quốc gia, dịch vụ này thường 
xuyên được cung cấp bởi một tổ chức quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Phi (đối 
với trường hợp CBFF) hoặc UNDP (với ICCTF). Với hầu hết các quỹ lâm nghiệp quốc 
gia, cũng như Quỹ Amazon, có một ngân hàng quốc gia thực hiện vai trò quản lý ủy thác. 
Người được ủy thác thông thường chịu trách nhiệm về quản lý tín dụng và đầu tư các 
nguồn kinh phí theo chính sách hoặc chỉ đạo của các cơ quan quản lý. Người ủy thác là 
không thay đổi đối với những trách nhiệm tín dụng ủy thác. Trong nhiều trường hợp, 
một số khía cạnh của trách nhiệm tín dụng uỷ thác cũng được trao cho các cơ quan khác 
– ví dụ như thành viên của hội đồng quản trị thường phải giải quyết những xung đột về 
quy định lãi suất, như các giám đốc điều hành, trong khi nhân viên phải tuân thủ bộ quy 
tắc ứng xử. Trong trường hợp của ICCTF, cơ quan thực hiện cũng phải chịu trách nhiệm 
tín dụng ủy thác. 
Trong một số ít trường hợp, các thực thể khu vực tư nhân đã được lồng ghép trong cơ 
cấu quản trị. Trong trường hợp của CBFF, một hãng quản lý tư nhân (liên doanh giữa 
SNV và Công ty PricewaterhouseCoopers) được mời giám sát các dự án nhỏ trong khi 
với FONAFIFO một “nhiếp chính” của khu vực tư nhân đã được sử dụng để giám sát 
hoạt động của một số lượng lớn người nhận tài trợ. Trong các trường hợp trên, việc sử 
dụng các thực thể này cho thấy là đã tạo điều kiện nâng cao rõ rệt hiệu quả hoạt động, 
mặc dù kinh nghiệm với FONAFIFO cũng cho thấy sự cần thiết kiểm tra thường xuyên và 
toàn diện với các thực thể này để đảm bảo giải quyết những xung đột lợi ích. 
Bằng chứng từ các quỹ khí hậu và quỹ REDD+ quốc gia cho thấy rằng tổ chức tư nhân 
hoặc ngân hàng nhà nước có khả năng quản lý quỹ hiệu quả hơn các tổ chức quốc tế 
lớn như UNDP hoặc Ngân hàng Thế giới. Trong trường hợp của ICTFF, chi phí hành 
chính của UNDP là khoảng 12%, trong khi Ngân hàng Thế giới thường có mức chi từ 10-
15% cho quản lý quỹ.3 Ngược lại dịch vụ ủy thác của Quỹ Amazon là một ngân hàng 
quốc gia mà chi phí hành chính chỉ có 3%. 
Kinh nghiệm với Quỹ rừng lưu vực sông Congo cho thấy rằng việc sử dụng một đại lý 
quản lý quỹ FMA (một liên doanh giữa PricewaterhouseCoopers và SNV) đã giúp tăng 
hiệu quả phân tán dự án với chi phí thấp hơn nhiều so với Ban thư ký do Ngân hàng 
Phát triển châu Phi (AfDB) lập ra. FMA được lập năm 2011 và trong năm này trị giá của 
các đề cương dự án được phê duyệt tăng 923%. Hiện nay, FMA giám sát gần 80% số 
dự án đã phê duyệt trong khi chi phí ngân sách 2011-2014 là thấp hơn so với chi phí 
hành chính của AfDB cho riêng năm 2010 khoảng 35%. 
3  trang 11 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 13 LEAF 
Quỹ Amazon và ICCTF cũng đã kết hợp các ủy ban kỹ thuật trong cơ cấu quản lý quỹ 
của mình, mặc dù 2 quỹ này có chức năng khác biệt rõ rệt. Với Quỹ Amazon ủy ban kỹ 
thuật mang tính độc quyền chịu trách nhiệm phát triển các phương pháp để phát hiện sự 
thay đổi lượng trữ carbon rừng và ước tính lượng giảm phát thải cho các thanh khoản. 
Trong khi đó ủy ban kỹ thuật của ICCTF được tạo ra để thực hiện đánh giá kỹ thuật các 
đề xuất dự án và khuyến nghị phê duyệt tài trợ theo các chỉ tiêu kỹ thuật. 
2.3 Đầu tư tiền quỹ 
Tất cả các quỹ được xem xét, ngoại trừ ICCTF, đều đã tìm cách đầu tư ít nhất là một 
phần quỹ của họ theo cách này hay cách khác. Trong hầu hết các trường hợp trách 
nhiệm về đầu tư vốn này được thực hiện bởi người được ủy thác theo như chính sách 
hoặc hướng dẫn được quy định bởi cơ quan điều hành quỹ, mặc dù các cố vấn đầu tư 
cũng có thể được mời để cung cấp những tư vấn mang tính chiến lược. Những chính 
sách này thường hướng tới các chiến lược đầu tư cố hữu liên quan đến tài các sản thu 
nhập cố định để đảm bảo an ninh và khả năng dự báo trong khi vẫn cho phép truy cập 
các thanh khoản để cung cấp kinh phí cho các dự án sau khi phê duyệt. Mặc dù với bản 
chất cố hữu như vậy, một số quỹ vẫn thành công trong việc thu về khoản lợi nhuận đáng 
kể: Quỹ Amazon đã thu được 5-20% lợi nhuận trong vài năm bằng cách tạo ra một quỹ 
riêng được quản lý bởi một công ty đầu tư tư nhân. 
Các chính sách và hướng dẫn có thể phân biệt giữa một vài hạng mục của quỹ hoặc 
giữa các quỹ / tài khoản con, thường nhằm đảm bảo khung thời gian phù hợp cho các 
khoản đầu tư. Ví dụ Quỹ cấp vốn thường được đặt trong các khoản đầu tư dài hạn và 
thường đem lại lợi nhuận cao hơn, có thể duy trì ổn định trong khi vẫn là một nguồn thu 
nhập đối với hoạt động quỹ. Ngược lại, quỹ chìm nếu có thì thường được đặt trong các 
khoản đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao. Tầm quan trọng của vấn đề này đã 
Các điểm chính: 
• Đầu tư vào tài sản cố hữu trong đó cung cấp truy cập vào vốn lưu động để giữ 
nguồn kinh phí sẵn có cho giải ngân là cách thức được ưa thích bởi hầu hết 
các quỹ 
• Quỹ phải có đủ lượng vốn để có thể đảm bảo tính bền vững lâu dài thông qua 
việc tạo ra các quỹ cấp vốn mang lại lợi ích hàng năm đủ để tài trợ một phần 
hoạt động của quỹ 
• Kinh nghiệm với Quỹ Amazon cho thấy rằng quỹ có thể kiếm được khoản lợi 
nhuận đáng kể từ đầu tư bằng cách sử dụng đội ngũ quản lý chuyên nghiệp 
• Một thực tiễn chuẩn mực cần thông qua các chủ trương, hướng dẫn đầu tư 
trong đó bao gồm các biện pháp an toàn để ngăn chặn đầu tư vào các hoạt 
động phá hoại môi trường 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 14 LEAF 
được nhấn mạnh trong kết quả kiểm toán của FFM trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng 
của việc đánh giá một cách cẩn trọng lượng vốn khả dụng quỹ cần để giữ đảm bảo tính 
sẵn có trong khi vẫn đảm bảo rằng lượng vốn không cần thiết trong một thời gian nhất 
định được đầu tư vượt ngoài khoảng thời gian đó để có được lợi nhuận lớn hơn. 
Mặc dù nghiên cứu hiện tại không đánh giá các tiêu chí xã hội và môi trường áp dụng 
cho các khoản đầu tư, nhưng một đánh giá riêng biệt với các quỹ bảo tồn cho thấy rằng 
hầu hết các quỹ bảo tồn hiện đang áp dụng các biện pháp sàng lọc về môi trường đối với 
các khoản đầu tư của họ, kể cả việc phối hợp với các công ty để cải thiện thực tiễn môi 
trường. Tuy nhiên, sàng lọc về yếu tố trách nhiệm xã hội là ít phổ biến hơn vì tiêu tốn 
nhiều thời gian và kinh phí hơn.4 
2.4 Tính hợp thức và các tiêu chí lựa chọn 
Tình hợp thức và các tiêu chí lựa chọn thường được đặt ra bởi cơ quan điều hành quỹ 
để phản ánh các mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ của các quỹ. Các quỹ REDD+ được 
xem xét qua nghiên cứu này đã cho thấy có một loạt các phương pháp để xác định các 
hoạt động hội đủ điều kiện tài trợ. Ví dụ như GRIF hiện tập trung vào mục tiêu xây 
dựng năng lực và phát triển nền kinh tế các-bon thấp hơn là các dự án cắt giảm khí thải 
bởi vì rừng Guyana không phải là nguồn phát thải khí nhà kính lớn. Trong khi đó CBFF 
lại có xu hướng chỉ tài trợ cho các dự án trực tiếp giúp giảm phát thải, còn Quỹ Amazon 
dành kinh phí của mình cho cả các dự án trực tiếp giúp giảm mất rừng và những hoạt 
động xây dựng năng lực. Một số quỹ có các hợp phần riêng biệt, dòng vốn hoặc các quỹ 
con cho các loại hình hoạt động khác nhau. 
4 Barry Spergel và Philippe Taïeb, Đánh giá nhanh về các quỹ ủy thác về bảo tồn, Nhóm công tác tài chính 
về bảo tồn với các quỹ môi trường (Xuất bản lần thứ 2, 5/2008), trang 58-59. 
Các điểm chính: 
• Cho phép một loạt các đối tượng đa dạng nhận tài trợ từ quỹ, bao gồm chính 
phủ, khu vực tư nhân, phi chính phủ, các tổ chức giáo dục; có thể mở rộng diện 
bao phủ của quỹ cũng như cải thiện hiệu suất và tính năng động quỹ 
• Trong xác định các quy trình sử dụng quỹ điều quan trọng là hướng tới sự cân 
bằng giữa việc đảm bảo các mục tiêu sử dụng được xem xét một cách kỹ 
lưỡng, chặt chẽ và những hạn chế về năng lực của ứng viên, chẳng hạn như 
thông qua việc áp dụng các quy trình khác nhau với những quy mô tài trợ khác 
nhau và hỗ trợ ứng viên trong quá trình xin tài trợ 
• Các tổ chức quốc tế có thể được sử dụng như các đối tác để hỗ trợ thực hiện 
dự án 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 15 LEAF 
Tính hợp thức của các thực thể nhận tài trợ có liên quan chặt chẽ với mục tiêu và 
phạm vi tổng thể của quỹ. Với các quỹ nhằm bảo tồn các vùng do chính phủ quản lý, 
chẳng hạn như PROFONANPE, nguồn tài trợ sẽ chủ yếu dành cho các đơn vị nhà nước 
như ban quản lý khu bảo tồn. Với những quỹ nhằm bảo tồn rừng do tư nhân quản lý như 
FONAFIFO, FFM hay Lào EPF thì sẽ ưu tiên tài trợ các chủ rừng tư nhân hoặc cộng 
đồng. Một số quỹ REDD+ đã tìm cách tiếp cận tới những khu rừng do tư nhân, cộng 
đồng và nhà nước quản lý thông qua một bộ công cụ kết hợp. Với Quỹ Amazon chẳng 
hạn, 48% kinh phí quỹ dành cho các dự án phân tán đã được giao cho tư nhân hoặc tổ 
chức phi chính phủ, trong khi 45% kinh phí được phân bổ cho các dự án do chính phủ 
thực hiện và phần còn lại dành cho các trường đại học. Quỹ GRIF cho phép các thực thể 
tư nhân tham gia, nhưng đòi hỏi phải có một tổ chức đối tác được chấp thuận trước 
(Ngân hàng Thế giới, IDB hoặc UNDP) được bao gồm để giám sát quá trình lập và thực 
hiện dự án. Quỹ ICCTF, ngược lại, đòi hỏi tất cả các dự án đều có sự chỉ đạo của các bộ 
ngành hoặc cơ quan chính phủ cấp trung ương hoặc địa phương, một yếu tố được xem 
là đã góp phần khiến chỉ có ba dự án đã được phê duyệt tính cho đến nay. 
Các yêu cầu về thủ tục thường xuyên thay đổi tùy theo loại hình và quy mô dự án. Với 
quỹ Lào EDF, các dự án nhỏ (đến 60.000 USD) cần điền mẫu đơn 5-6 trang và nộp tại 
Lào, trong khi các dự án lớn đòi hỏi phải có đề xuất dự án chi tiết được viết bằng tiếng 
Anh. Có hỗ trợ lập đề xuất cho cả các dự án nhỏ và lớn. Với hệ thống PES, cần xuất 
trình quyền sử dụng, mặc dù yêu cầu này đã bị chỉ trích là quá độc quyền, rườm rà, và 
trong một số trường hợp đã được nới lỏng cho một số đối tượng (ví dụ như các cộng 
đồng bản địa trong trường hợp quỹ FONAFIFO). Đối với chương trình cho vay, chủ quỹ 
thường đòi hỏi bằng chứng về tín dụng và tài sản thế chấp. Một số quỹ quốc gia về 
REDD+ và khí hậu như CBFF, Amazon, và ICCTF sử dụng các biểu mẫu cho các loại 
đơn và đề xuất, trong khi các quỹ khác ít cứng nhắc hơ khi chỉ đòi hỏi tài liệu ý tưởng của 
dự án để xem xét tài trợ. 
Về khung thời gian của dự án, các quỹ REDD+ thường tập trung vào các dự án từ 
ngắn hạn đến trung bình. Quỹ CBFF tài trợ các dự án với thời gian tối đa là 3 năm, trong 
khi quỹ Amazon chủ yếu tài trợ các dự án 2-4 năm. Quỹ PROFONANPE với mục tiêu tập 
trung vào các khu bảo tồn quốc gia lại thường tài trợ các dự án dài hạn, mặc dù trong 
chu trình dự án thường xuyên rà soát để đảm bảo mục tiêu dự án có thể được điều chỉnh 
khi cần thiết. 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 16 LEAF 
2.5 Công tác đánh giá và “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV) 
2.5.1 Đánh giá tình hình hoạt động tổng thể của quỹ 
Trong hầu hết các trường hợp, việc đánh giá tổng thể về tình hình hoạt động của quỹ 
được thực hiện bởi hội đồng quản trị thông qua các kỳ đánh giá hàng năm hoặc nửa 
năm. Báo cáo thường được cơ quan quản lý chuẩn bị, và bao gồm các chi tiết về hoạt 
động và tài chính trong đó có một phần tổng quan về các dự án và tình hình thực hiện. 
Báo cáo sau khi được hội đồng quản trị chấp thuận thì thường được công bố công khai 
hoặc như trong trường hợp của Quỹ Lào EPF thì được đệ trình cho Chính phủ - một thực 
tiễn được các nhà tài trợ đánh giá là tốt nhất. 
Tất cả các quỹ đều mời kiểm toán độc lập để rà soát và đánh giá các báo cáo, hồ sơ tài 
chính hàng năm của Quỹ. Một số quỹ như GRIF, cũng phải thực hiện kiểm toán độc lập 
về giảm phát thải và các chỉ số khác về hoạt động, được thực hiện bởi bên thứ ba (công 
ty kiểm toán tư nhân hoặc phi chính phủ) đã được sự thống nhất giữa Guyana và Na-Uy. 
Kết quả kiểm toán thường được yêu cầu đăng tải trên mạng, bằng tiếng Anh. Trong 
trường hợp cần có thêm đợt kiểm toán đặc biệt thì đối với quỹ CBFF Hội đồng quản trị sẽ 
thông qua còn trong đối với quỹ GRIF thì do nhà tài trợ phê duyệt. 
Các điểm chính: 
• Thông thường, hội đồng quản trị tiến hành đánh giá tổng thể tình hình thực 
hiện quỹ hàng năm hoặc nửa năm và điều chỉnh các chính sách và chiến lược 
cho phù hợp 
• Một thực tiễn chuẩn là các quỹ mời bên thứ ba tham gia kiểm toán tài chính 
hàng năm theo quy chuẩn của quốc tế, trong khi một số quỹ cũng cung cấp 
cho kiểm toán số liệu về giảm phát thải hoặc các yếu tố khác 
• Cách tốt nhất là cần công khai và cung cấp miễn phí các tài liệu báo cáo đánh 
giá hoạt động của quỹ 
• Một số các nhà tài trợ có thể yêu cầu tiến hành các đánh giá bất thường, 
thường là với chi phí của nhà tài trợ 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 17 LEAF 
2.5.2 “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV) các hoạt động do cá nhân tài trợ 
Dạng thức MRV được sử dụng ở mức độ dự án nói chung phụ thuộc vào loại hình và 
quy mô của dự án. Quỹ PROFONANPE, bao gồm các dự án lớn do các cơ quan nhà 
nước thực hiện, đòi hỏi phải có báo cáo hàng quý, nửa năm và hàng năm (ở mức độ chi 
tiết khác nhau) về kết quả thực hiện, ngân sách và các vấn đề phát sinh cần được trình 
lên Ban chỉ đạo, trong khi việc phê duyệt ngân sách hàng năm được thực hiện tùy thuộc 
vào các chỉ số hoàn thành chỉ tiêu của năm trước. 
Đối với các dự án nhỏ hơn do khu vực tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ thực hiện, 
việc giám sát thường được thực hiện thông qua các báo cáo hàng năm với cơ quan điều 
hành hoặc như trong trường hợp của quỹ GRIF là các đơn vị đối tác. Với các quỹ 
REDD+ các kế hoạch MRV chi tiết, bao gồm cả chỉ số hoạt động và lịch trình giám sát, 
thường được lập trên cơ sở cụ thể của dự án, trong khi hầu hết các dự án phải kiểm toán 
tài chính hàng năm. 
Khi có một số lượng lớn bên nhận tài trợ, chẳng hạn như với quỹ PES, việc thuê tư vấn 
tiến hành MRV có thể giúp giảm chi phí. Với quỹ FONAFIFO, các doanh nghiệp tư nhân 
thực hiện giám sát các đối tượng tham gia PES, và chính là những người chi trả MRV. 
Tuy nhiên, thực tiễn này tạo ra nguy cơ xung đột lợi ích, khiến cần phải thường xuyên 
thanh kiểm tra các doanh nghiệp MRV. 
Cuối cùng, khi bên nhận tài trợ có năng lực thấp, việc đơn giản hóa công tác báo cáo 
có thể làm giảm gánh nặng cho bên tham gia. Với quỹ Lào EDF chẳng hạn thì bên nhận 
khoản tài trợ nhỏ (ở mức nào đó) chỉ cần báo cáo miệng tại một số cuộc họp tập thể, bởi 
vì nhiều người trong số này có rất ít khả năng viết báo cáo chi tiết. 
Các điểm chính: 
• Các yêu cầu MRV thường liên quan đến các loại hình và quy mô của các dự 
án và bên nhận tài trợ 
• Với hầu hết các quỹ REDD+ cơ chế MRV thường được nhất trí theo từng dự 
án cụ thể 
• Sử dụng các thực thể khu vực tư nhân để thực hiện MRV có thể giúp giảm chi 
phí, nhưng lại làm tăng nguy cơ xung đột lợi ích 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 18 LEAF 
2.5.3 “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV) đối với các khoản chi trả theo hoạt động 
Các quỹ nhận được các khoản chi trả theo kết quả hoạt động REDD+ (GRIF và Amazon) 
không bị cản trở bởi thực tế là đường cơ sở (RL) mạnh hoặc các hệ thống MRV carbon 
rừng vẫn chưa được thiết lập trong nước, mà thay vào đó là sử dụng các ước tính và số 
liệu đại diện về mất rừng của phương pháp tiếp cận tạm thời. Chẳng hạn như Quỹ 
Amazon sử dụng một tham số 100tCO2e/ha để ước tính lượng phát thải carbon từ diện 
tích rừng và áp dụng một chuỗi số liệu lịch sử mà không thể được điều chỉnh theo mô 
hình. Trong trường hợp của Guyana, Chính phủ đã đồng ý cho phép các sử dụng các 
chỉ số cho phếp tiếp nhận các khoản chi trả tiếp theo trong đó bao gồm việc tạo lập một 
đường cơ sở và hệ thống MRV để báo cáo tại UNFCCC cấp độ 3. Đồng thời, mức chi trả 
theo mỗi tCO2e sẽ bị khấu trừ nếu tỷ lệ mất rừng vượt quá một mức tối đa đã nhất trí 
trước đó. 
2.6 Các biện pháp bảo đảm an toàn về xã hội và môi trường 
Đối với các quỹ REDD+, việc có một hệ thống mạnh mẽ để thực hiện các biện pháp an 
toàn về xã hội và môi trường được coi là tối quan trọng để thu hút các nguồn tài trợ. 
Các điểm chính: 
• Với các quỹ REDD+ không cần thiết phải có đường cơ sở (mức tham chiếu) ở 
quy mô toàn diện và các hệ thống MRV sẵn có để nhận được khoản chi trả 
theo kết quả hoạt động; tuy nhiên, các chỉ số cố hữu được áp dụng để thay 
thế 
• Với một số quỹ, việc đáp ứng các chỉ số về quản trị, trong đó bao gồm cả 
đường cơ sở RL và các hệ thống MRV được xem như một yêu cầu để nhận 
được các khoản chi trả tiếp theo 
Các điểm chính: 
• Đối với các quỹ REDD+, các hệ thống mạnh mẽ để đảm bảo an toàn là rất quan 
trọng để thu hút các nguồn tài trợ 
• Trong trường hợp kinh phí nhận được từ nhiều nhà tài trợ, các biện pháp đảm bảo 
an toàn quỹ cần phải có mức độ nghiêm ngặt tối thiểu như quy định chung của từng 
nhà tài trợ để tránh việc phải áp dụng các biện pháp an toàn của từng nhà tài trợ cụ 
thể cho từng nguồn tài trợ cụ thể 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 19 LEAF 
Đối với các quỹ môi trường hoặc quỹ lâm nghiệp quốc gia, tính chất quan trọng này vẫn 
được duy trì, dù mức độ có thể thấp hơn. Đa số các nhà tài trợ quốc tế công đòi hỏi phải 
áp dụng các tiêu chuẩn an toàn của mình cho các dự án hoặc chương trình mà họ tài trợ 
hoặc các biện pháp an toàn có mức độ nghiêm ngặt ngang bằng bằng hoặc cao hơn. 
Thông thường, khi nguồn vốn của quỹ được cung cấp bởi nhiều nhà tài trợ thì có 2 
phương thức chính được sử dụng để đảm bảo các yêu cầu về an toàn. Thứ nhất là áp 
dụng biện pháp an toàn của nhà tài trợ theo dự án mà họ tài trợ. Chẳng hạn như với 
FONAFIFO, là quỹ mà chỉ có một phần nhỏ do các nhà tài trợ quốc tế cung cấp, và được 
sử dụng để tài trợ các dự án cụ thể. Đối với những quỹ mà nguồn kinh phí của nhà tài trợ 
được dùng để tài trợ cho các hoạt động / dự án đạng hơn hoặc khi các dòng tài trợ được 
gộp vào trong một tài khoản chung thì thường sẽ phải áp dụng biện pháp an toàn nghiêm 
ngặt có khả năng đáp ứng yêu cầu của hầu hết các nhà tài trợ. Như quỹ PROFONANPE 
(được thành lập với nguồn vốn giống ban đầu của GEF) áp dụng các biện pháp an toàn 
của Ngân hàng Thế giới, trong khi Quỹ Amazon sử dụng cả hai tiêu chuẩn REDD+ SES 
và BNDES trong đó bao gồm tiêu chuẩn về miễn phí thông báo và chấp thuận trước 
(FPIC). Trong khi đó, quỹ EPF Lào đã xây dựng khung an toàn xã hội và môi trường 
(ESSF) riêng của mình phù hợp với các biện pháp của Ngân hàng Thế giới. 
Ngoài các thực tiễn trên, một số quỹ được quản lý theo ủy thác của các tổ chức quốc tế 
và được yêu cầu phải áp dụng các chính sách an toàn của các tổ chức này. Như trong 
trường hợp quỹ CBFF áp dụng chính sách an toàn của AfDB và ICCTF áp dụng các biện 
pháp của UNDP. 
2.7 Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ 
Các nhà tài trợ khi xem xét tài trợ cho một quỹ sẽ tìm kiếm sự đảm bảo rằng những 
khoản đóng góp đó sẽ được quản lý một cách đúng đắn và phù hợp với những chính 
sách tài trợ và mục tiêu chiến lược của họ. Điều này thường bao gồm các yêu cầu 
như thẩm định kỹ lưỡng, lập kế hoạch chu đáo, quản lý tài chính minh bạch, giám sát 
chặt chẽ và báo cáo hiệu quả. Một số nhà tài trợ (như Ngân hàng Thế giới) cũng sẽ tìm 
kiếm vai trò trong việc phê duyệt các kế hoạch và chính sách. Ngoài ra, nhiều nhà tài trợ 
Các điểm chính: 
• Các yêu cầu của nhà tài trợ thường sẽ phản ánh bối cảnh điều hành và các khía 
cạnh khác của nước sở tại cũng như các mục tiêu chiến lược và lợi ích quốc gia của 
nhà tài trợ 
• Thông thường, các quỹ đáp ứng những yêu cầu của nhà tài trợ bằng cách áp dụng 
chúng với từng dự án cụ thể hoặc áp dụng các quy tắc và thủ tục nghiêm ngặt đối 
với tất cả các khâu quản lý quỹ 
Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam 
CA No. AID-486-A-11-00005 20 LEAF 
quốc tế công sẽ áp dụng một số điều khoản và yêu cầu chung, trong đó thường bao gồm 
các biện pháp an toàn về xã hội / môi trường và các quy định về quản lý tài chính. 
Như đã thảo luận trong phần 2.6 về các biện pháp đảm bảo an toàn, các quỹ thường đáp 
ứng các yêu cầu này bằng cách áp dụng với từng dự án cụ thể, hoặc áp dụng các biện 
pháp nghiêm ngặt đủ để đáp ứng hầu hết các nhà tài trợ chính. 
Trong trường hợp của các quỹ REDD+ chi trả theo hoạt động, các nhà tài trợ có sự linh 
hoạt trong một số lĩnh vực, điều này phản ánh cách tiếp cận theo giai đoạn đối với 
REDD+ cũng như mức độ 'sẵn sàng' khác nhau của từng quốc gia. Ví dụ như với các 
quỹ Amazon và GRIF, các nhà tài trợ cho phép thực hiện chi trả khi chưa có Đường cơ 
sở (RL) hoàn chỉnh cũng như hệ thống MRV chưa vận hành, thay vào đó là cho phép các 
hệ thống này được phát triển và vận động theo thời gian. Mặc dù có sự linh hoạt chung 
về chi trả theo kết quả như vậy nhưng các nhà tài trợ thường vẫn chỉ đạo về cách thức 
sử dụng quỹ (như thông qua thẩm định một số chương trình hoặc hoạt động tài trợ nào 
đó). 
Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ cũng có thể phản ánh bối cảnh của quốc gia sở tại. Ở 
Guyana, tình hình quản trị điều hành yếu kém và nguy cơ tham nhũng cao khiến các nhà 
tài trợ luôn đưa cải cách quản trị điều hành như là một điều kiện để chi trả theo kết quả 
thực hiện. 
Cuối cùng, trong một số trường hợp các nhà tài trợ có thể áp đặt một số điều kiện nhằm 
thúc đẩy các lợi ích quốc gia của mình, như quảng bá cho các doanh nghiệp của họ 
chẳng hạn. Như trong trường hợp quỹ FONAFIFO, có một khoản trợ cấp từ Đức với yêu 
cầu là không quân Đức hoặc các công ty vận tải biển có vị thế bình đẳng với các công ty 
Costa Rica trong việc cung cấp các dịch vụ vận tải được quỹ tài trợ. 
Các yêu cầu cụ thể do các nhà tài trợ cá nhân đặt ra sẽ tiếp tục được xem xét trong giai 
đoạn tiếp theo khi Chương trình LEAF hỗ trợ thành lập Quỹ REDD+ Việt Nam. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 kinh_nghiem_quoc_te_ve_redd_va_cac_quy_lam_nghiep_quoc_gia_v.pdf kinh_nghiem_quoc_te_ve_redd_va_cac_quy_lam_nghiep_quoc_gia_v.pdf