Tóm lại. từ việc rút ra những bài học kinh
nghiệm về xây dựng thể chế ổn định KTVM
mà các nước đã và đang sử dụng. Trong
những năm gần đây, Việt Nam đã phần nào
thành công trong việc ổn định KTVM. Nền
kinh tế đã chuyển từ trạng thái tăng trưởng
cao, lạm phát cao và bất ổn, hệ thống tài
chính dễ tổn thương bởi nợ xấu cao, sang
trạng thái tăng trưởng và lạm phát vừa phải
và sự lành mạnh của hệ thống tài chính dần
được cải thiện. Tuy nhiên, cùng với quá trình
hội nhập ngày càng sâu rộng trong khi hệ
thống thể chế quản lý và giám sát KTVM còn
yếu kém, Việt Nam đang phải đối mặt với
những rủi ro và thách thức gây bất ổn định
KTVM. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần xây
dựng và hoàn thiện cho riêng mình một hệ
thống thể chế quản lý và giám sát ổn định
KTVM một cách đầy đủ, toàn diện, có khả
năng phòng ngừa và chống chọi với các cú
sốc bên trong cũng như bên ngoài một cách
hiệu quả.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thể chế ổn định kinh tế vĩ mô và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
112
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ XÂY DỰNG THỂ CHẾ ỔN ĐỊNH
KINH TẾ VĨ MÔ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
THE INTERNATIONAL EXPERIENCES ON INSTITUTIONAL CONSTRUCTION TO
STABLE MACROECONOMIC AND THE LESSONS FOR VIETNAM
Ngày nhận bài: 23/09/2019
Ngày chấp nhận đăng: 21/10/2019
Nguyễn Dũng Anh
TÓM TẮT
Bài viết dựa trên lý thuyết và thực tiễn quốc tế về xây dựng thể chế ổn định kinh tế vĩ mô đang
được áp dụng rộng rãi trên thế giới, bao gồm: xây dựng thể chế ổn định tài chính, thể chế tài khóa,
thể chế tiền tệ, phối hợp chính sách tài khóa, tiền tệ và ổn định tài chính; từ đó rút ra một số bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam để xây dựng khung thể chế ổn định kinh tế vĩ mô.
Từ khóa: Xây dựng thể chế; Ổn định vĩ mô; kinh tế vĩ mô; Phối hợp chính sách.
ABSTRACT
The article is based on international theory and practice on building macroeconomic stability
institutions which are widely applied in the world, including: building financial stability institutions,
fiscal institutions, monetary institutions, coordinating fiscal, monetary policies and financial stability;
thereby drawing lessons for Vietnam to build an institutional framework for macroeconomic
stability.
Keywords: Institutional building; Stable macro; Macroeconomic; Coordinate policies.
1. Đặt vấn đề
Trước cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
năm 1997, các yêu cầu tuân thủ kỷ luật tài
khóa và tiền tệ để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô (KTVM) ít được đặt ra trong mô hình
nhà nước kiến tạo phát triển ở các nước Đông
Á. Chính phủ thường sử dụng các chính sách
tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ
(CSTT) để hỗ trợ cho chính sách công nghiệp
hóa hoặc định hướng xuất khẩu. Sau khi
khủng hoảng nổ ra, các CSTK và CSTT cẩn
trọng để ổn định KTVM đã trở thành một cấu
phần không thể thiếu của mô hình nhà nước
kiến tạo phát triển.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn
cầu năm 2008 – 2009, bắt nguồn từ việc
kiểm soát lỏng lẻo các khoản nợ dưới chuẩn
của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), và
cuộc khủng hoảng nợ công tại một số nước
thuộc khối Liên minh châu Âu (EU) diễn ra
năm 2010 một lần nữa dấy lên hồi chuông
cảnh báo về sự cần thiết của việc xây dựng
khung khổ chính sách KTVM toàn diện cho
các nền kinh tế. Khung khổ này có tính ràng
buộc đối với các cơ quan nhà nước, đòi hỏi
các cơ quan này phải tuân thủ các quy tắc tài
khóa, quy tắc tiền tệ, nâng cấp hệ thống giám
sát tài chính, các quy tắc phối hợp chính sách
giữa hai lĩnh vực tài khóa và tiền tệ, xây
dựng các điều kiện thoát quy trong những
trường hợp khẩn cấp. Việc xây dựng một
khung khổ chính sách KTVM có tính ràng
buộc như vậy được gọi là quá trình thể chế
hóa các chính sách KTVM.
Theo nghĩa rộng nhất, thể chế kinh tế vĩ
mô bao gồm những ràng buộc phi chính thức
(điều được thừa nhận hay cấm đoán theo
phong tục, tập quán, truyền thống, đạo lý),
những quy tắc chính thức (Hiến pháp, luật)
và hiệu lực thi hành chúng. Thể chế kinh tế
vĩ mô bao hàm 3 khía cạnh quan trọng nhất:
Nguyễn Dũng Anh, Học viện Chính trị khu vực III
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
113
(i) Luật chơi: những quy tắc, bao gồm cả
định tính và định lượng, chính thức và phi
chính thức, các chuẩn mực, các quy định
pháp quy,; (ii) Người chơi: các chủ thể,
bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp, người
dân; (iii) Cách chơi: mức độ tuân thủ các quy
định, mức độ phối hợp với nhau, mức độ hợp
tác với nhau.
Nhìn chung có ba trụ cột chính sách mà
Chính phủ các nước thường sử dụng để đảm
bảo ổn định KTVM, bao gồm: (1) Ổn định
tài chính – sử dụng các công cụ để giám sát
và điều tiết nhằm đảm bảo sự an toàn và ổn
định của hệ thống tài chính; (2) CSTK – hạn
định các loại thuế, chi tiêu công và vay nợ;
và (3) CSTT – lựa chọn chế độ tỷ giá, khung
lãi suất, cung tiền. Ba trụ cột nêu trên, cùng
với sự phối hợp chính sách, cung cấp một
khung thể chế ổn định kinh tế vĩ mô.
2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thể
chế ổn định kinh tế vĩ mô
2.1. Về xây dựng khung thể chế ổn định tài
chính
Trên thực tế, các công cụ của chính sách
ổn định tài chính được áp dụng từ rất sớm,
trước khi các công cụ này được gọi chung
với tên là ổn định tài chính. Ở Mỹ, kể từ năm
1913, đã có 245 trường hợp sử dụng các công
cụ của ổn định tài chính nhằm đối phó với
chu kỳ tín dụng (Elliott, Feldberg và Lehnert,
2013). Giai đoạn 1945 đến những năm 1970,
các ngân hàng ở châu Âu đã sử dụng công cụ
quản lý định lượng để định hướng tăng
trưởng tín dụng và tác động tới tính thanh
khoản của bảng cân đối ngân hàng, từ đó ổn
định thị trường tài chính. Theo Clement
(2010), đến những năm 1970, những ý tưởng
đầu tiên về ổn định tài chính mới được ra
đời. Như vậy, có thể thấy việc kết hợp sử
dụng các công cụ ổn định tài chính bên cạnh
các công cụ của CSTK và CSTT đã xuất hiện
từ khá lâu, là manh nha của khung thể chế ổn
định KTVM hiện nay.
Trước khủng hoảng kinh tế - tài chính
toàn cầu năm 2008, khi bong bóng bất động
sản của Mỹ vỡ, kéo theo sự khủng hoảng của
thị trường tài chính. Việc chấp nhận cho vay
thế chấp bất động sản dưới chuẩn khiến bảng
cân đối tài chính của các ngân hàng trở nên
rủi ro hơn. Khi giá nhà giảm khoảng 1/3
trong giai đoạn 2006-2011, tỷ lệ nợ quá hạn
của các khoản cho vay thế chấp đã tăng lên
trên mức 10%. Khi nền kinh tế có dấu hiệu đi
xuống, các chính sách KTVM truyền thống
đã được sử dụng, bao gồm CSTK và CSTT.
Cụ thể, các gói kích thích kinh tế đã được
đưa ra và FED đã cắt giảm mức lãi suất liên
bang từ 2% xuống 0%. Đồng thời, các nhà
hoạch định chính sách đã phải sử dụng đến
các công cụ của chính sách ổn định tài chính
để chống đỡ với rủi ro trên thị trường tài
chính. Hội đồng Giám sát Ổn định Tài chính
(Financial Stability Oversight Council) cũng
được thành lập vào năm 2010, chịu trách
nhiệm giám sát các rủi ro tiềm ẩn về tài
chính, từ đó đưa ra các khuyến nghị cho
FED. Nói cách khác, Hội đồng này đã đóng
vai trò như cơ quan thực hiện chính sách ổn
định tài chính trong giai đoạn khủng hoảng
của Mỹ.
Ở khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone),
trước khủng hoảng, CSTT mở rộng với việc
duy trì một môi trường lãi suất thấp khiến rủi
ro của ngân hàng tăng lên; cùng với việc
giảm các rào cản thị trường tài chính giữa các
quốc gia và mức độ tập trung của các ngân
hàng ở khu vực này khá lớn, rủi ro từ một
ngân hàng có thể lan tỏa ra thị trường tài
chính không chỉ của một quốc gia mà đe dọa
hệ thống của cả khu vực. Do đó, rủi ro trên
thị trường tài chính nói chung và thị trường
ngân hàng nói riêng sẽ gây ảnh hưởng tiêu
cực đến cả nền kinh tế khu vực. Việc xác
định sự mất cân đối tài chính, từ đó cảnh báo
các nguy cơ khủng hoảng tài chính đã được
xây dựng trong chiến lược CSTT của Ngân
hàng Trung ương (NHTƯ) châu Âu (ECB).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
114
Khi khủng hoảng tài chính xảy ra, các công
cụ truyền thống của CSTT như thay đổi lãi
suất đã không thể đủ sức chống đỡ. Bắt đầu
từ tháng 9 năm 2008, Eurozone phải đối mặt
với bất ổn kinh tế và suy giảm cho vay đối
với khu vực hộ gia đình và doanh nghiệp. Lãi
suất giảm đáng kể khiến ECB phải tăng
cường hỗ trợ tín dụng, cung cấp vốn cho
ngân hàng để đảm bảo giá trị của tài sản thế
chấp cũng như mở rộng danh sách tài sản thế
chấp được chấp nhận. Vào tháng 5/2010, khi
khủng hoảng nợ diễn ra, ECB tiếp tục cứu thị
trường thứ cấp bằng cách bơm tiền mua lại
nợ công của các nước thành viên thông qua
chương trình Giao dịch tiền tệ thông thường
(Outrihgt Monetary Transaction). Việc áp
dụng CSTT nới lỏng giúp Eurozone tạm thời
chống đỡ về bất ổn kinh tế, nhưng đồng thời
làm thổi phồng lên nguy cơ bong bóng của
thị trường tài chính. Do đó, song song với
CSTT, ECB cũng thực hiện chính sách ổn
định tài chính. Năm 2010, cộng đồng châu
Âu thành lập một cơ quan với tên gọi Hội
đồng Kiểm soát Rủi ro Hệ thống châu Âu
(European Systemic Risk Board – ESRB) với
mục tiêu xác định các rủi ro trên thị trường
tài chính, từ đó đưa ra các khuyến nghị về
việc ban hành quy chế, pháp luật cho các
Chính phủ ở các nước thành viên. Từ năm
2013, thông qua Cơ chế Giám sát Độc lập
(Single Supervisory Machnism – SSM), ECB
đã đưa ra các hướng dẫn và quy định về vốn
đối với các định chế tài chính nhằm tăng
cường sự ổn định của thị trường tài chính
châu Âu và cho từng nước thành viên.
Ở Hong Kong, các khoản vay thế chấp
nhà ở luôn là một trong những mối đe dọa
chính của thị trường tài chính khi thị trường
nhà ở đóng vai trò rất quan trọng đối với
GDP cũng như CPI của Hong Kong. Từ đầu
năm 2009, giá nhà đất tăng lên khá nhanh, lãi
suất cho vay thế chấp duy trì ở mức thấp
trong khi cung về nhà ở giảm khiến Hong
Kong phải đối mặt với nguy cơ bong bóng
giá nhà đất, kéo theo sự bất ổn của thị trường
tài chính. Do vậy, ổn định tài chính trở thành
một trong những mục tiêu quan trọng của Cơ
quan tiền tệ Hong Kong, Cơ quan này đã
phối hợp CSTK với chính sách ổn định tài
chính nhằm đối phó với nguy cơ bong bóng
giá. Năm 2010, quy định về thuế chuyển
nhượng (special stamp duty) được đưa ra,
theo đó các tài sản được mua và bán lại trong
vòng hai năm chịu mức thuế 15% nhằm giảm
hoạt động đầu cơ. Đến tháng 10/2012 thuế
này được tăng lên mức 20% áp dụng đối với
các tài sản mua đi và bán lại trong vòng ba
năm. Các chính sách ổn định tài chính cũng
được đưa ra, với hai công cụ là tỷ lệ giá trị
khoản vay trên giá trị thế chấp (loan to value
– LTV) cũng như nghĩa vụ trả nợ (debt
service ratio – DSR); từ năm 2009, Cơ quan
tiền tệ Hong Kong liên tục thắt chặt hai tỷ lệ
này, đặc biệt là LTV, nhằm giúp các ngân
hàng quản lý rủi ro tín dụng thận trọng hơn,
cũng như đảm bảo quyền lợi khách hàng
trước sự biến động bất thường của giá bất
động sản. Các chính sách này giúp làm giảm
biên độ của chu kỳ biến động giá bất động
sản cũng như ngăn chặn các thiệt hại từ tài
sản thế chấp.
Như vậy, với một số dẫn chứng thực tiễn
ở trên, có thể thấy rõ sự kết hợp giữa CSTK,
CSTT và chính sách ổn định tài chính vĩ mô,
đặc biệt là hai chính sách cuối đã diễn ra
ngày càng tăng trên thế giới. Theo IMF và
WB (2011), chính sách ổn định vĩ mô có thể
bổ sung cho CSTT trong việc theo đuổi mục
tiêu tái ổn định nền kinh tế sau các cú sốc.
2.2. Về xây dựng thể chế tài khóa
Việc xây dựng và vận hành các quy tắc về
tài khóa đã có những bước đổi mới rõ rệt trên
thế giới, nhất là từ khi khủng hoảng kinh tế -
tài chính toàn cầu năm 2008 nổ ra. Có nhiều
nền tảng pháp lý khác nhau tùy loại quy tắc
và tùy từng nước. Các quy tắc về chi tiêu, nợ
và cán cân ngân sách thường được quy định
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
115
trong luật. Các quy tắc về thu ngân sách
thường được thể hiện dưới dạng kết hợp cam
kết chính trị, hiệp định hay luật. Phần lớn các
nước ràng buộc các quy tắc tài khóa bằng
luật (Argentina, Brazil, Bulgaria, Cộng hòa
Séc, Ấn Độ, New Zealand) hoặc thông qua
các Hiệp ước quốc tế (các thành viên EU). Ở
các nước châu Âu, các thành viên cam kết
nghĩa vụ theo hướng dẫn chung của Cộng
đồng chung châu Âu. Ngoài ra, từng nước có
thể quy định quy tắc của riêng mình trong
khuôn khổ quy tắc chung. Ở các nước Bắc
Âu như: Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch
quy tắc tài khóa chủ yếu được ràng buộc
thông qua các cam kết chính trị như mục tiêu
của Chính phủ. Ở một số nước, các quy tắc
tài khóa còn được thể hiện trong Hiến pháp
như: Đức, Ba Lan, Thụy Sĩ, Brazil. Sự khác
nhau về cấp độ luật pháp của các quy tắc tài
khóa phản ánh sự cần thiết của các điều kiện
cụ thể riêng biệt ở mỗi quốc gia. Quy định ở
cấp luật pháp cao sẽ giúp các quy tắc tồn tại
ổn định lâu dài, nhưng đôi khi điều đó cũng
tạo nên sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt của
CSTK.
Việc thiết kế hỗ trợ pháp lý phụ thuộc vào
điều kiện của từng nước, do có sự khác nhau
giữa các nước phát triển, mới nổi và nước thu
nhập thấp. Ở các nước phát triển, sự hỗ trợ
pháp lý cho các quy tắc tài khóa đa dạng hơn;
các quy tắc có xu hướng gần như tích hợp
vào khuôn khổ chi tiêu trung hạn, trong một
số trường hợp là một phần của các hiệp định.
Ở các nước mới nổi và thu nhập thấp, các
quy tắc chi tiêu thường được thiết lập dưới
dạng luật. Do hạn chế về năng lực lập kế
hoạch trung hạn, các quy tắc ở các nước đang
phát triển được phản ánh dưới dạng thức luật
đơn giản hơn, ví dụ, tăng trưởng chi tiêu
không được vượt quá tăng trưởng GDP.
Các quy tắc tài khóa được đảm bảo bởi
các cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo tính tuân
thủ chặt chẽ, nhưng cũng được đi kèm với
các điều khoản thoát khỏi quy tắc (thoát quy)
nhằm đảm bảo tính linh hoạt khi cần thiết.
Mục đích của các điều khoản thoát quy là
nhằm tạo thêm sự linh hoạt cho các quy tắc
trong những trường hợp đặc biệt. Những điều
khoản thoát quy có thể bao gồm: (1) giới hạn
và xác định rõ những yếu tố, những trường
hợp được phép thoát quy; (2) có chỉ dẫn rõ
ràng về việc lý giải và xác định các trường
hợp được phép thoát quy; (3) xác định lộ
trình quay trở lại quy tắc và xử lý việc lệch
khỏi quy định (Debrun và Kumar, 2007).
Cơ quan chịu trách nhiệm giám sát các
quy định tài khóa không giống nhau ở các
quốc gia khác nhau. Ở Vương quốc Anh các
quy định tài chính công được giám sát bởi cơ
quan kiểm toán quốc gia; cơ quan này có
trách nhiệm báo cáo với Quốc hội và dân
chúng, trong khi trách nhiệm xét xử vẫn
thuộc Tòa án. Ở Peru chức năng giám sát
được trao cho NHTƯ nhằm mục đích tăng
cường tính độc lập và năng lực kỹ thuật trong
quá trình giám sát. Các nước thuộc EU và
Chile thành lập ra các cơ quan chuyên biệt có
trách nhiệm giám sát việc thực thi các quy
định tài khóa. Ở Mỹ giao trách nhiệm giám
sát ngân sách cho một cơ quan chuyên trách
thuộc quốc hội. Nhiều nền kinh tế mới nổi sử
dụng các cơ quan độc lập (Ủy ban, Hội đồng
tài khóa) để tăng cường hơn sự tin cậy của
các quy tắc tài khóa. Hội đồng tài khóa độc
lập với nhiệm vụ cụ thể là đánh giá và theo
dõi việc thực hiện và tác động của CSTK,
được thành lập kể cả ở một số nước không có
quy định quy tắc tài khóa như Bỉ và Canada.
Trong thời kỳ khủng hoảng, nhiều nước
đã tạm thời không áp dụng quy tắc tài khóa
hoặc được điều chỉnh bằng cách nới lỏng
theo hướng linh hoạt, ví như, ở Bulgaria,
Luật Chi tiêu công (chi tiêu có thể chiếm
40% GDP) được dừng lại vào năm 2010 và
2011 sau khi bị vi phạm vào năm 2009, ngân
sách chuyển từ tình trạng thặng dư giai đoạn
2006 – 2008 sang thâm hụt kể từ năm 2009;
từ năm 2012, giới hạn thâm hụt là 2% GDP.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
116
Nhiều quốc gia khác đã thành lập những quy
tắc mới hoặc sửa đổi khung pháp lý hiện tại,
động cơ của những quyết định này là trấn an
thị trường về sự bền vững của CSTK và tài
chính công, cam kết nỗ lực điều chỉnh, cũng
như hướng đến sự kỳ vọng về ngân sách
trung hạn. Nhiều nước EU đã cải cách các
quy tắc tài khóa sau những ảnh hưởng nặng
nề từ cuộc khủng hoảng năm 2010, một số
nước sửa đổi luật về ngân sách, như Bồ Đào
Nha (5/2011), Áo (2/2013),
Tóm lại, việc luật hóa các quy tắc tài khóa
và thành lập các Ủy ban, Hội đồng tài khóa
độc lập ngày càng trở nên phổ biến. Trong và
sau khủng hoảng ngân hàng, nợ công gần
đây, nhiều quy tắc đã được cải cách, sửa đổi,
thậm chí trong hiến pháp và luật liên quan
đến ngân sách để hình thành nên “thế hệ kế
tiếp” của quy tắc tài khóa.
2.3. Về xây dựng thể chế tiền tệ
Từ năm 1990, có nhiều nước, bao gồm
các nước phát triển (New Zealand, Canada,
Anh, Thụy Điển, Israel, Australia, Thụy Sỹ),
các nước mới nổi (Chile, Brazil, Hàn Quốc,
Thái Lan, Nam Phi) và các nước chuyển đổi
(Cộng hòa Séc, Ba Lan, Hungary) thực hiện
khung khổ CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu
– Quy tắc mục tiêu lạm phát (inflation
targating – IT). Số lượng NHTƯ thực hiện
quy tắc mục tiêu lạm phát (IT) đang ngày
càng tăng và rất hài lòng với lựa chọn của họ.
Theo Walsh (2009), chỉ ra rằng kết quả
KTVM ở các nền kinh tế phát triển dù có
thực hiện lạm phát mục tiêu hay không đều
tương tự nhau, nhưng tại các nước đang phát
triển có thực hiện lạm phát mục tiêu thì kết
quả KTVM được cải thiện hơn so với các
nước không thực hiện. Có thể thấy IT đang
được áp dụng khá phổ biến và góp phần tích
cực cho những nước áp dụng cơ chế này về
mặt ổn định lạm phát, tăng trưởng, giúp hoàn
thiện hiệu quả cách thức quản lý nhà nước về
tiền tệ của NHTƯ. Chính vì vậy, các nước
tham gia IT chưa thấy nước nào từ bỏ cơ chế
này hay phàn nàn về việc thực thi. Điều này
là minh chứng cho thấy các NHTƯ đều nhận
thức được thực hiện CSTT lấy lạm phát làm
mục tiêu có nhiều lợi ích và nói chung, lạm
phát mục tiêu là khả thi và hợp lý đối với
nhiều quốc gia từ phát triển đến đang phát
triển, các nước chuyển đổi hay mới nổi, nước
giàu hay nghèo.
Quy tắc Taylor (ngoài việc theo đuổi mục
tiêu lạm phát, NHTƯ còn có thể đồng thời
theo đuổi mục tiêu đối với tỷ lệ thất nghiệp
hoặc GDP thực) được sử dụng khá rộng rãi ở
các nước phát triển lẫn đang phát triển, và
đặc biệt trong thời gian dài ở Mỹ, Anh,
Australia, Thụy Sĩ; trường hợp Malaysia,
CSTT dựa trên quy tắc Taylor đã cải thiện
kết quả tổng thể của nền kinh tế nước này
thông qua việc làm giảm đáng kể mức độ
biến động sản lượng. Sử dụng CSTT kiểu
quy tắc Taylor đang có rất nhiều triển vọng
tại các nước đang phát triển, kể cả các nước
có những thể chế yếu kém cũng được khuyến
nghị nên sử dụng trong điều hành CSTT vì
công cụ này dễ thực hiện và nó làm tăng độ
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
công tác điều hành CSTT.
Quy tắc mục tiêu cung tiền (Monetary
targeting) được áp dụng ở các nước Đức,
Thụy Sĩ là phương pháp truyền tải chiến lược
CSTT tập trung vào những vấn đề dài hạn và
kiểm soát lạm phát. Mục tiêu cung tiền được
thực hiện một cách khá linh hoạt bởi vì mối
quan hệ giữa tổng phương tiện thanh toán và
các biến mục tiêu như lạm phát và thu nhập
danh nghĩa là không chặt chẽ và kém tin cậy
ở Đức và Thụy Sĩ.
2.4. Về phối hợp chính sách tài khóa, tiền tệ
và ổn định tài chính
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu
thiếu vắng cơ chế phối hợp thỏa đáng giữa
CSTK và CSTT thì có thể dẫn tới những kết
quả không mong muốn, mà điển hình nhất là
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
117
áp lực lạm phát do thâm hụt ngân sách cao.
Theo Sehovic (2013), cơ chế phối hợp CSTK
và CSTT phụ thuộc vào ba yếu tố, bao gồm:
(1) mức độ phát triển của thị trường tài
chính, (2) tính độc lập của NHTƯ, và (3) tính
minh bạch của CSTT. Laurens và Piedra
(1998) khuyến nghị thực hiện một số thỏa
thuận thể chế nhằm củng cố hiệu lực phối
hợp giữa CSTK và CSTT sau đây:
Một là, thỏa thuận về tính độc lập của
NHTƯ. Độc lập ở đây không có nghĩa là độc
lập một cách hoàn toàn, mà thường được
xem xét ở khía cạnh mức độ độc lập của
NHTƯ trong việc quản lý KTVM trước
những tác động của quyền lực chính trị đến
chức năng của NHTƯ. Tuy nhiên, sự độc lập
của NHTƯ không đồng nghĩa với việc không
cần đến sự phối hợp với CSTK, mà nhằm
giúp cho CSTT trở nên “miễn dịch” với mọi
áp lực có thể dẫn tới việc không đạt được
mục tiêu chung cuối cùng của chính sách
kinh tế.
Hai là, thỏa thuận về ngăn ngừa và giải
quyết mâu thuẫn giữa CSTT và CSTK.
Trong trường hợp NHTƯ không có quyền tự
chủ với mục tiêu ổn định giá, rủi ro cao là
CSTT sẽ chịu áp lực về mặt chính trị buộc
phải lựa chọn một chính sách ngắn hạn thay
vì dài hạn; khi đó, CSTT sẽ mâu thuẫn với
CSTK, mâu thuẫn này có thể được giải quyết
hoặc được hạn chế nếu có các thỏa thuận
nhằm ngăn ngừa sự không tương thích giữa
hai chính sách.
Ba là, thỏa thuận về việc hạn chế NHTƯ
cấp tín dụng trực tiếp cho Chính phủ. Đây là
thỏa thuận liên quan trực tiếp tới tính độc lập
của NHTƯ, bởi khi thị trường tài chính, nhất
là thị trường chứng khoán chưa phát triển, tín
dụng của NHTƯ là nguồn tài trợ chính cho
Chính phủ, cấp tín dụng cho Chính phủ quá
lớn có thể tạo mầm mống cho bất ổn KTVM.
Bốn là, thỏa thuận về ngân sách cân bằng
hoặc giới hạn thâm hụt ngân sách. Tính độc
lập NHTƯ có ý nghĩa quan trọng trong việc
thiết kế và thực hiện thành công các mục tiêu
của CSTT. Tuy nhiên, trong trường hợp
NHTƯ thiếu sự độc lập cần thiết, CSTT có
thể trở nên bị động và có thể phải lựa chọn
một chính sách ngắn hạn có mục tiêu tăng
trưởng hơn là kiểm soát giá cả. Vì vậy, CSTT
cùng với thỏa thuận về cân bằng ngân sách
và mức độ thâm hụt ngân sách là nhằm ngăn
ngừa các biến động lớn có thể xảy ra đối với
các biến KTVM.
Năm là, thỏa thuận về hội đồng tiền tệ
(currency board arrangement). Các thỏa
thuận này luôn có đặc điểm của chế độ tiền tệ
với các cam kết về việc chuyển đổi đồng nội
tệ sang một đồng ngoại tệ tại một tỷ giá cố
định. Các thỏa thuận về hội đồng tiền tệ
không cho phép cơ quan điều hành tiền tệ
thực hiện các chính sách tùy nghi, nên thâm
hụt ngân sách không thể được tiền tệ hóa tùy
ý, mà phải tương thích với khả năng tài trợ
sẵn có của thị trường.
3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Từ thực tiễn thế giới có thể rút ra bài học
kinh nghiệm về bốn nhóm thể chế ổn định
KTVM mà Việt Nam cần xây dựng và hoàn
thiện, bao gồm: (1) thể chế tài khóa; (2) thể
chế tiền tệ, (3) thể chế giám sát tài chính, (4)
thế chế phối hợp giữa các chính sách. Mỗi
nhóm thể chế này có thể có những mục tiêu
và công cụ riêng, nhưng nhìn chung chúng
phải hướng tới mục tiêu cuối cùng là đảm
bảo sự ổn định và tăng trưởng kinh tế trong
dài hạn, đồng thời có khả năng ứng phó với
những cú sốc trong ngắn hạn từ bên trong
cũng như từ bên ngoài nền kinh tế.
Thứ nhất, về thể chế tài khóa là cần
chuẩn hóa cách hạch toán và hợp nhất các
quy tắc tài khóa theo thông lệ quốc tế. CSTK
nên được thiết kế theo hướng nghịch thay vì
thuận chu kỳ như hiện nay. Tức là, trong thời
kỳ tăng trưởng tốt, ngân sách cần được thiết
kế theo hướng có thặng dư, hoặc ít nhất là
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
118
phải giảm thâm hụt. Đặc biệt, các quy tắc này
phải được đặt trong một khung thể chế có
hiệu lực thực thi nghiêm ngặt; nếu xảy ra vi
phạm cần đặt ra giới hạn thời gian cụ thể cho
việc điều chỉnh về ngưỡng cho phép. Tuy
nhiên, các thể chế này cũng cần phải có độ
linh hoạt cần thiết để phản ứng trước những
cú sốc kinh tế, tài chính từ bên trong và bên
ngoài như trong trường hợp có khủng hoảng
kinh tế, tài chính hay thiên tai trầm trọng.
Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường năng lực
và hiệu quả giám sát từ bên ngoài (Quốc hội)
và bên trong (Bộ Tài chính); các báo cáo về
tình hình ngân sách và nợ công cần phải
được thường xuyên cập nhật gửi tới các ủy
ban chuyên trách của Quốc hội.
Thứ hai, về thể chế tiền tệ, CSTT phải
lấy việc duy trì và ổn định lạm phát ở mức
vừa phải là mục tiêu cuối cùng. Để làm được
điều này, tính độc lập của Ngân hàng Nhà
nước với Chính phủ phải có sự cải thiện;
ngoài việc được toàn quyền chủ động trong
việc lựa chọn công cụ và liều lượng can thiệp
của CSTT, Ngân hàng Nhà nước cần phải có
được sự độc lập với các hoạt động vay nợ và
ngân sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, lãi
suất nên được làm công cụ chính sách để đạt
được mục tiêu; tuy nhiên, quy tắc điều hành
lãi suất hay quy trình ra chính sách phải minh
bạch và có khả năng dự đoán. Ngoài ra, Việt
Nam cần có những quy định cụ thể nâng cao
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của
Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hiệu
quả chính sách, quản trị nhà nước ngành
ngân hàng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Minh bạch hóa CSTT không chỉ dừng ở công
khai mục tiêu mà còn ở việc lựa chọn công
cụ chính sách, cơ sở ra quyết định chính sách
và cách thức ra quyết định chính sách.
Thứ ba, về thoát quy, các quy tắc của
CSTK và các quy tắc CSTT phải được công
bố đi kèm điều khoản thoát quy. Trong một
số trường hợp cần thiết, lạm phát thực tế có
thể được lệch ra khỏi giới hạn cho phép và
CSTT có thể lệch khỏi các quy tắc đã công
bố. Bên cạnh đó, chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý bắt đầu với việc điều chỉnh tỷ giá
trung tâm theo tín hiệu thị trường, sau đó tiến
dần tới việc bỏ công bố về tỷ giá trung tâm
cần được triển khai sớm nhằm thích ứng tốt
hơn trong quá trình hội nhập quốc tế và
chống chọi tốt hơn với các cú sốc từ bên
ngoài. Ngân hàng Nhà nước có thể dùng các
biện pháp can thiệp như mua bán ngoại tệ
trên thị trường liên ngân hàng và các biện
pháp kiểm soát nguồn vốn ra vào Việt Nam
để làm mềm dao động của tỷ giá.
Thứ tư, về thể chế giám sát tài chính,
nhiệm vụ này có thể giao cho Ngân hàng Nhà
nước hoặc Ủy ban giám sát tài chính tiền tệ
quốc gia. Để ngăn ngừa rủi ro cho hệ thống
tài chính, các công cụ giám sát có tính chất
phản chu kỳ tài chính nên được sử dụng. Các
quy định về tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ thanh
khoản, tỷ lệ ký quỹ, cần được áp dụng theo
hướng có thể ngăn chặn được các hiện tượng
bong bóng giá tài sản hay hành vi chấp nhận
rủi ro quá cao trên thị trường tài chính. Việt
Nam cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu
đảm bảo an toàn ổn định tài chính; các chỉ
tiêu này phải đủ chặt chẽ hướng tới đáp ứng
tiêu chuẩn quốc tế được sử dụng phổ biến
(CAMELS1, Basel) và đặc thù nước ta, mặt
khác, các chỉ tiêu này cũng cần đủ linh hoạt
để không bóp nghẹt tính năng động, sáng tạo
của thị trường tài chính. Đặc biệt, các chỉ tiêu
này phải được xây dựng theo hướng linh
hoạt, tương ứng với các biến động chu kỳ của
thị trường tài chính nhằm ngăn ngừa khủng
hoảng xảy ra.
Thứ năm, về phối hợp CSTK, CSTT và
chính sách giám sát tài chính; trong điều
1 CAMELS dựa trên 6 tiêu chí cơ bản: (1) mức độ an
toàn vốn (Capital Adequacy), (2) chất lượng tài sản có
(Asset Quality), (3) quản lý (Management), (4) lợi
nhuận (Earnings), (5) thanh khoản (Liquidity), (6) mức
độ nhạy cảm với các rủi ro thị trường (Sensitivity to
Market Risks)
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
119
kiện bình thường, CSTK và CSTT nên được
thực hiện theo chiều hướng ngược nhau nhằm
đảm bảo sự ổn định của tổng cầu. CSTT và
CSTK nên tập trung vào việc điều tiết tổng
cầu, để từ đó đạt được mục tiêu lạm phát và
tăng trưởng, còn nhiệm vụ ổn định hệ thống
tài chính nhằm tránh khủng hoảng xảy ra
trong hệ thống nên được giao cho các chính
sách giám sát tài chính. Việc kết hợp này sẽ
giúp cho các chính sách đồng thời đạt được
các mục tiêu riêng của mình và mục tiêu
chung cuối cùng với chi phí nhỏ nhất. Đồng
thời, cần có sự độc lập tương đối của Ngân
hàng Nhà nước trong điều hành chính sách là
rất quan trọng đối với hiệu quả của sự phối
hợp chính sách để đạt mục tiêu cuối cùng.
Tóm lại. từ việc rút ra những bài học kinh
nghiệm về xây dựng thể chế ổn định KTVM
mà các nước đã và đang sử dụng. Trong
những năm gần đây, Việt Nam đã phần nào
thành công trong việc ổn định KTVM. Nền
kinh tế đã chuyển từ trạng thái tăng trưởng
cao, lạm phát cao và bất ổn, hệ thống tài
chính dễ tổn thương bởi nợ xấu cao, sang
trạng thái tăng trưởng và lạm phát vừa phải
và sự lành mạnh của hệ thống tài chính dần
được cải thiện. Tuy nhiên, cùng với quá trình
hội nhập ngày càng sâu rộng trong khi hệ
thống thể chế quản lý và giám sát KTVM còn
yếu kém, Việt Nam đang phải đối mặt với
những rủi ro và thách thức gây bất ổn định
KTVM. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần xây
dựng và hoàn thiện cho riêng mình một hệ
thống thể chế quản lý và giám sát ổn định
KTVM một cách đầy đủ, toàn diện, có khả
năng phòng ngừa và chống chọi với các cú
sốc bên trong cũng như bên ngoài một cách
hiệu quả..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Clement, P, 2010. “The Tern “Macroprudential”: Origins and Evolution”. BIS Quarterly
Review, March, pp.59-67.
Đinh Tuấn Minh và Phạm Thế Anh (chủ biên), Từ Nhà nước điều hành sang Nhà nước kiến
tạo phát triển, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 2017.
Elliott, D. J., G. Feldberg, và A. Lehnert. “The history of cyclial macroprudential policy in
the United States”, Finance and Economics Discussion Series, No 2013-29, Board of
Governors of the Federal Reserve System, 2013.
Kopits, G và S. Symansky, 1998. “Fiscal Policy Rules”, IMF Occasional Paper No. 162,
Washington, International Monetary Fund.
Laurens, P. và E.G. Piedra, 1998. “Coordination of Monetary and Fiscal Policies”, IMF
Working Paper, WP98/25, 1998.
Mankiw, N. G, 2012. Macroeconomics, 8th edition. Worth Publishers.
Sehovic, D, 2013. “General Aspects of Monetary and Fiscal Policy Coordination”. Journal
of Central Banking Theory and Practice, 2013, 3, pp.5-27.
Walsh, C.E, 2009. “Inflation Targeting: What Have We Learned?”. International Finance,
12(2), pp.195-233.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_nghiem_quoc_te_ve_xay_dung_the_che_on_dinh_kinh_te_vi_m.pdf