Nội dung thể hiện trên bản đồ địa mạo thành
lập theo nguyên tắc nguồn gốc - hình thái gồm các
yếu tố: kiểu nguồn gốc - hình thái địa hình (đối
tượng chính), dạng địa hình (phân loại theo nguồn
gốc), tuổi địa hình, một số yếu tố khác, với nền bản
đồ địa hình đã được giản lược.
Một số kinh nghiệm có thể rút ra như sau:
Cấu trúc chú giải sắp xếp thành 4 phần như đã
trình bày ở trên là tương đối hợp lý, phản ánh được
đầy đủ các thông tin và khá đơn giản.
Số lượng các đơn vị họa đồ - các “kiểu nguồn
gốc - hình thái địa hình” không nên nhiều, để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc chuyển tải dễ dàng nội
dung tới độc giả.
Để cho bản đồ dễ đọc, việc thể hiện nội dung
bản đồ không dùng quá hai lớp thông tin: lớp màu
nền và lớp các ký hiệu chồng lên. Màu nền để diễn
đạt nội dung chính - kiểu nguồn gốc - hình thái địa
hình; các ký hiệu để mô tả các dạng địa hình, tuổi
và các yếu tố khác.
Việc xác định nội dung của các “kiểu nguồn
gốc - hình thái địa hình” và phân loại chúng cần
dựa vào tổng hợp các tài liệu về địa chất, Tân kiến
tạo, địa mạo khu vực, với việc quan tâm đầy đủ tới
các nhân tố tạo địa hình nguồn gốc nội và
ngoại sinh
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 724 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm thành lập bản đồ địa mạo tỷ lệ 1:1.000.000 theo nguyên tắc nguồn gốc - Hình thái (phần đất liền Việt Nam), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
146
35(2), 146-151 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 6-2013
KINH NGHIỆM THÀNH LẬP BẢN ĐỒ ĐỊA MẠO
TỶ LỆ 1:1.000.000 THEO NGUYÊN TẮC
NGUỒN GỐC - HÌNH THÁI (PHẦN ĐẤT LIỀN VIỆT NAM)
LÊ ĐỨC AN, UÔNG ĐÌNH KHANH, VÕ THỊNH, BÙI QUANG DŨNG
E - mail: leducan10@yahoo.com.vn
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 24 - 12 - 2012
1. Mở đầu
Khác với bản đồ địa chất được thành lập theo
"nguyên tắc lịch sử" thống nhất trên toàn thế giới
từ lâu, bản đồ địa mạo do đặc điểm về nội dung đa
dạng của mình (gồm 3 thành phần chính là: hình
thái, nguồn gốc, và lịch sử phát triển) đã có nhiều
nguyên tắc thành lập khác nhau, tùy theo mục đích
sử dụng cũng như đặc điểm địa hình của vùng cần
đo vẽ, đặc biệt là đối với các bản đồ tỷ lệ nhỏ. Ở
Việt Nam, trong khoảng vài thập kỷ gần đây, các
bản đồ địa mạo tỷ lệ nhỏ (1:1.000.000 và nhỏ hơn)
được thành lập theo nguyên tắc kiến trúc hình thái
(Liên đoàn Bản đồ Địa chất [1]; trong Atlas Quốc
gia - 1996 [2]; Viện Địa lý), cũng đã có những thử
nghiệm lập bản đồ địa mạo theo nguyên tắc nguồn
gốc - hình thái Viện Địa lý) và lịch sử - nguồn gốc
(Khoa Địa lý, Trường Đại học KHTN Hà Nội [3]).
Thông thường, bản đồ được thành lập theo
nguyên tắc nào (nguồn gốc, lịch sử, nguồn gốc -
hình thái,) thì đối tượng chính của bản đồ được
phân loại theo nguyên tắc đó và được thể hiện trên
bản đồ bằng phương tiện chính của họa đồ - đó là
màu nền. Thí dụ, nếu như bản đồ được thành lập
theo nguyên tắc nguồn gốc thì toàn bộ các đơn vị
họa đồ (là các dạng địa hình hoặc tập hợp của
chúng thể hiện trên bản đồ) được phân loại trong
chú giải theo nguồn gốc (thí dụ: kiến tạo, bóc mòn
chung, dòng chảy, karst, do gió, băng hà, sinh
vật,) và chúng được thể hiện trên bản đồ bằng
màu nền được lựa chọn sao cho mỗi màu gắn với
một nguồn gốc cụ thể.
Bài báo này giới thiệu kinh nghiệm thành lập
bản đồ địa mạo theo nguyên tắc nguồn gốc - hình
thái, được tiến hành tại Phòng Địa mạo và Địa
động lực, Viện Địa lý, tập trung chủ yếu vào hai
nội dung sau đây:
- Cấu trúc và nội dung của chú giải bản đồ,
cách thể hiện;
- Nội dung các đơn vị địa mạo được phân chia.
Về bản đồ nền, đã sử dụng bản đồ địa hình giản
lược, thể hiện các đỉnh núi chính và độ cao của
chúng, các đường đồng mức chọn lọc, và hệ thống
sông suối chính.
2. Cấu trúc và nội dung của chú giải bản đồ,
cách thể hiện
Nhằm mục tiêu phục vụ các nghiên cứu địa lý
tổng hợp lãnh thổ, nhất là các nghiên cứu cảnh
quan và một số nghiên cứu chuyên ngành, đối
tượng chính được thể hiện trên bản đồ là các kiểu
nguồn gốc - hình thái địa hình (do đó được gọi là
theo nguyên tắc nguồn gốc - hình thái), chú giải
bản đồ được cấu tạo gồm 4 phần: I. Kiểu nguồn
gốc - hình thái địa hình; II. Dạng địa hình; III. Tuổi
địa hình; IV. Các ký hiệu khác.
I. Kiểu nguồn gốc - hình thái địa hình:
Các kiểu nguồn gốc - hình thái địa hình (sau
đây gọi tắt là kiểu địa hình) là các đơn vị cơ bản
của bản đồ, được thể hiện bằng phương tiện rõ nhất
- màu nền. Đã chia ra 29 kiểu địa hình cho toàn bộ
lãnh thổ đất liền Việt Nam. Chúng được gộp trong
9 nhóm và 2 loạt nguồn gốc - hình thái (hình 1).
Các kiểu địa hình được thể hiện theo các bậc độ
cao (tuyệt đối) khác nhau. Căn cứ vào thực tế địa
hình lãnh thổ đã chia ra 7 bậc, trong đó đồng bằng
thấp có 2 bậc (<10, 10 - 20m), đồng bằng cao hoặc
147
đồi có 2 bậc (20 - 100, 100 - 300m), địa hình núi
gồm núi thấp (300 - 1000m), núi trung bình (1000 -
2000m) và núi cao (>2000m). Bảy bậc địa hình
được thể hiện trên bản đồ bằng chữ Ả Rập: a, b, c,
d, e, f, và g. Chúng được ghi kèm cùng với số thứ
tự của các kiểu địa hình (hình 1).
Hình 1. Chú giải bản đồ địa mạo Việt Nam (phần đất liền) (trích)
148
Các bậc của một kiểu địa hình được thể hiện
bằng sắc thái khác nhau của màu nền của chính
kiểu địa hình ấy, theo nguyên tắc càng lên cao sắc
thái càng đậm. Các kiểu địa hình núi có nhóm màu
nền nóng (đỏ, nâu,...), trong khi các kiểu địa hình
đồng bằng có nhóm màu nền lạnh (lam, lục,...).
II. Dạng địa hình:
Các dạng địa hình (thí dụ: chóp núi lửa, phễu
karst,...) được phân chia theo nguồn gốc, và được
thể hiện trên bản đồ bằng các ký hiệu ngoài tỷ lệ
chồng lên màu nền của các kiểu địa hình. Nguồn
gốc của dạng địa hình được thể hiện bằng màu sắc
và hình dạng của các ký hiệu. Theo nguồn gốc chia
ra các nhóm dạng sau:
(i) Kiến tạo và kiến trúc bóc mòn: đứt gãy thể
hiện trên địa hình, chóp núi lửa, cuesta,...
(ii) Bóc mòn chung: đường sống núi, vách bóc
mòn,...
(iii) Dòng chảy: vách xâm thực, lòng sông cổ,
thung lũng xuyên ngang, hẻm vực,...
(iv) Trọng lực: vách đổ lở, phễu sụp đổ,...
(v) Thấm đọng hòa tan: các bàu (Đông Nam
Bộ), lòng chảo kín (trên cát đỏ).
(vi) Karst: thung lũng karst, phễu, hang động,
đảo sót,...
(vii) Biển và các kiểu bờ: vách mài mòn, bar
cát chắn, đê cát ngầm,... bờ phân cắt kiến tạo kiểu
dalmat, bờ phân cắt xâm thực karst kiểu Hạ Long,
bờ tam giác châu lấn biển, bờ vũng vịnh mài
mòn,...
(viii) Gió và biển: giồng cát, cồn cát, trũng
giữa các cồn,...
(ix) Sinh vật: cồn sò điệp, bãi sú vẹt,...
(x) Nhân sinh: đê, mương máng, đập nước,...
III. Tuổi địa hình
Tuổi địa hình được thể hiện bằng ký hiệu chữ
và con số theo quy định trong địa chất học, được
đặt chồng lên các kiểu địa hình để nói lên tuổi của
chúng. Thông thường, đó là bề mặt các cao
nguyên, bình sơn, đồi và đồng bằng; đôi khi các bề
mặt sườn cũng được thể hiện tuổi một cách khái
quát. Tuổi địa hình được xác định bao gồm các
khoảng tuổi chính: Neogen (N), Miocen (N1),
Pliocen (N2), Đệ Tứ (Q), Pleistocen (Q1),
Pleistocen sớm (Q11), Holocen (Q2),...
IV. Các ký hiệu khác
Các ký hiệu khác được dùng để chỉ các yếu tố
không thuộc về các dạng địa hình, bao gồm:
1. Yếu tố kiến tạo và cấu trúc: vùng nâng, vùng
hạ, nếp lồi bào trơ,...
2. Yếu tố địa hình dạng vòng: cấu trúc vòng thể
hiện trên địa hình.
3. Thành phần đất đá bở rời: sét bột, cát,
cuội sỏi.
4. Ranh giới: ranh giới các kiểu địa hình.
3. Nội dung các đơn vị địa mạo được phân chia
3.1. Một số khái niệm
Kiểu nguồn gốc - hình thái địa hình (kiểu địa
hình), được hiểu là một tập hợp các dạng địa hình,
đặc trưng bởi hình thái, cấu trúc, nguồn gốc, thành
phần vật chất, và lặp lại có quy luật trong không gian.
Nhóm nguồn gốc - hình thái là tập hợp một số
kiểu địa hình có chung đặc điểm về cấu trúc và
nguồn gốc.
Còn loạt nguồn gốc - hình thái được chia ra
dựa vào đặc điểm chuyển động nâng và hạ Tân
kiến tạo, theo đó, địa hình toàn lãnh thổ được chia
thành 2 loạt là: (i) Núi tái sinh trên đới nâng Tân
kiến tạo, và (ii) Đồng bằng và đồi phát triển trên
đới chuyển tiếp và hạ Tân kiến tạo.
Các cụm từ ghép kiến tạo - bóc mòn, cấu trúc -
bóc mòn, bóc mòn - thạch học, bóc mòn - xâm
thực,... là để nói lên vai trò tổng hợp, cùng tham
gia của các nhân tố tạo địa hình đó, trong đó nhân
tố để trước có vai trò trội hơn.
3.2. Nội dung các kiểu địa hình
Như trên đã trình bày, toàn bộ lãnh thổ đất liền
Việt Nam bao gồm 29 kiểu địa hình. Thật ra người
ta có thể phân chia một số lượng lớn hơn các kiểu
địa hình như đã thể hiện trên nhiều tờ bản đồ địa
mạo tỷ lệ khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi theo
phương châm đơn giản hóa để dễ dàng sử dụng
bản đồ hơn mà vẫn không làm giảm hoặc bỏ qua
những đặc điểm quan trọng nhất của địa hình đất
nước. Các kiểu địa hình được phân chia với những
nội dung sau đây (giới thiệu theo Nhóm nguồn gốc
- hình thái) (hình 1, hình 2):
149
Hình 2. Trích dẫn một góc bản đồ địa mạo Việt Nam thu nhỏ từ tỷ lệ 1:1.000.000
Núi kiến trúc - bóc mòn và cấu trúc - bóc mòn:
Nhóm bao gồm 3 kiểu địa hình (số thứ tự 1, 2, 3) là
các dãy núi và khối núi, được phân biệt với nhau
bằng thành phần đá tạo ra chúng: đá biến chất (kiểu
1-k.1), đá phun trào và trầm tích phun trào (k.2), và
đá xâm nhập (k.3). Phân bố chủ yếu ở Tây Bắc Bộ
và Nam Trung Bộ.
Núi bóc mòn - thạch học: Nhóm này chỉ có 1
kiểu địa hình (k.4), đó là các khối núi và núi sót tạo
bởi đá carbonat. Phân bố ở Cao Bằng, Lạng Sơn,
Thái Nguyên, Bắc Kạn, và một số nơi khác.
Núi bóc mòn - xâm thực: Nhóm có 3 kiểu địa
hình (số 5, 6, 7), gồm các núi tạo bởi trầm tích lục
nguyên (k.5), núi tạo bởi đá trầm tích và phun trào
(k.6), và các khối núi sót tạo bởi các đá khác nhau
(k.7). Phân bố khá rộng rãi, ở Đông Bắc Bộ và ở
nhiều nơi khác.
Bình sơn (cao nguyên) kiến tạo - bóc mòn, bóc
mòn: Gồm 3 kiểu địa hình (số 8 , 9, 10), trong đó
có kiểu bình sơn tạo bởi các đá carbonat xen trầm
tích lục nguyên (k.8), phân bố ở Tây Bắc Bộ; kiểu
bình sơn tạo bởi đá carbonat (k.9), phân bố ở Hà
Giang; và kiểu bình sơn hình thành trên đá biến
chất, trầm tích lục nguyên (k.10), phân bố rộng rãi
ở Nam Trung Bộ, nhất là ở Lâm Đồng.
150
Cao nguyên kiến tạo - xâm thực - rửa trôi: Đó là
các cao nguyên thành tạo trên đá basalt cổ (Neogen
- Đệ Tứ) (k.11), và cao nguyên thành tạo trên đá
basalt trẻ (Đệ Tứ) (k.12), phân bố rộng rãi ở Nam
Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
Thung lũng và trũng giữa núi kiến tạo - xâm
thực, xâm thực - tích tụ: Nhóm này được chia thành
5 kiểu khác nhau: kiểu tạo bởi đá trước KZ cùng
các dải trầm tích N-Q (k.13); kiểu tạo bởi trầm tích
N-Q (k.14); kiểu phát triển trên đá trước KZ (k.15);
kiểu hình thành trong các vùng karst (k.16); và
kiểu tạo bởi đá gốc các loại với rải rác aluvi (k.17).
Chúng phân bố rộng rãi ở các vùng núi.
Đồi bóc mòn, xâm thực - rửa trôi: Nhóm gồm 2
kiểu (số 18, 19), là các đồi dạng bát úp (k.18) phát
triển chủ yếu ở Bắc Bộ và vùng ven biển Bắc
Trung Bộ; kiểu dãy đồi lượn sóng thoải (k.19) phát
triển chủ yếu ở Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
Đồng bằng - đồi, đồng bằng bóc mòn, xâm thực
- tích tụ: Nhóm gồm có 5 kiểu địa hình khác nhau
(số 20, 21, 22, 23, 24), gồm: đồng bằng bóc mòn
(k.20) phân bố điển hình ở vùng Ea Sup phía tây
Tây Nguyên và ở một số nơi khác; đồng bằng xâm
thực - tích tụ (k.21), phân bố chủ yếu ở Đông Nam
Bộ (thường gọi là đồng bằng aluvi cổ); đồng bằng
xâm thực - tích tụ lượn sóng (k.22), phân bố ở rìa
châu thổ và các thung lũng sông lớn ở Bắc Bộ và
Trung Bộ; đồng bằng mài mòn - xâm thực - tích tụ
đa nguồn gốc (k.23), phân bố khá rộng dọc theo dải
ven biển; đồng bằng xâm thực - tích tụ biển (24),
phân bố chủ yếu ở Ninh thuận, Bình Thuận.
Đồng bằng tích tụ: Nhóm có 5 kiểu địa hình (số
25, 26, 27, 28, 29): đồng bằng tích tụ gió - biển
(k.25) phân bố dọc theo bờ biển, tập trung từ
Quảng Bình đến Bình Thuận; đồng bằng tích tụ
sông - biển (k.26) phân bố tại các đồng bằng châu
thổ Bắc Bộ, Nam Bộ và ở các vùng gần cửa sông
lớn Trung Bộ; đồng bằng tích tụ sông - biển - đầm
lầy (k.27), phân bố hạn chế hơn, tại các vùng trũng
của châu thổ; đồng bằng biển - sinh vật (k.28) phân
bố ở rìa đồng bằng ven biển; đồng bằng bồi tích
sông (k.29) phân bố dọc theo dòng chảy của các
sông lớn từ Bắc đến Nam.
Các kiểu địa hình được thể hiện trên bản đồ
đồng thời bằng hai phương thức để hỗ trợ cho
nhau: màu nền và chữ số; khi đó giá trị của con số
phù hợp với số thứ tự của kiểu địa hình trong bảng
chú giải. Thí dụ, 21c, là chỉ về kiểu địa hình “21.
Đồng bằng nghiêng thoải xâm thực - tích tụ, bị
biển đổi mạnh bởi quá trình rửa trôi bề mặt và đá
ong hóa”, và phân bố ở bậc độ cao 20-100m (c).
Chữ số được ghi chồng lên màu nền trong khoanh
vi của mỗi một đơn vị địa mạo (kiểu địa hình).
4. Kết luận
Nội dung thể hiện trên bản đồ địa mạo thành
lập theo nguyên tắc nguồn gốc - hình thái gồm các
yếu tố: kiểu nguồn gốc - hình thái địa hình (đối
tượng chính), dạng địa hình (phân loại theo nguồn
gốc), tuổi địa hình, một số yếu tố khác, với nền bản
đồ địa hình đã được giản lược.
Một số kinh nghiệm có thể rút ra như sau:
Cấu trúc chú giải sắp xếp thành 4 phần như đã
trình bày ở trên là tương đối hợp lý, phản ánh được
đầy đủ các thông tin và khá đơn giản.
Số lượng các đơn vị họa đồ - các “kiểu nguồn
gốc - hình thái địa hình” không nên nhiều, để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc chuyển tải dễ dàng nội
dung tới độc giả.
Để cho bản đồ dễ đọc, việc thể hiện nội dung
bản đồ không dùng quá hai lớp thông tin: lớp màu
nền và lớp các ký hiệu chồng lên. Màu nền để diễn
đạt nội dung chính - kiểu nguồn gốc - hình thái địa
hình; các ký hiệu để mô tả các dạng địa hình, tuổi
và các yếu tố khác.
Việc xác định nội dung của các “kiểu nguồn
gốc - hình thái địa hình” và phân loại chúng cần
dựa vào tổng hợp các tài liệu về địa chất, Tân kiến
tạo, địa mạo khu vực, với việc quan tâm đầy đủ tới
các nhân tố tạo địa hình nguồn gốc nội và
ngoại sinh.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Lê Đức An, 1974: Dự án chú giải bản đồ
địa mạo miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:1.000.000. Bản
đồ Địa chất, 18, 26-35, Liên đoàn BĐĐC, Hà Nội.
[2] Lê Đức An (chủ biên), Tritragov V.P.,
1996: Bản đồ địa mạo Việt Nam tỷ lệ 1:2.500.000.
Trong: Việt Nam - Atlas quốc gia, Tổng cục Địa
chính, Hà Nội.
[3] Nguyễn Quang Mỹ, 1991: Thành lập bản
đồ địa mạo theo nguyên tắc lịch sử nguồn gốc ở
Việt Nam. Tc. Khoa học Địa lý - Địa chính, 3, 55-
59, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
151
SUMMARY
Experience of compiling of geomorphological map scale 1:1.000.000
by morphogenetic principle (for continental part of Vietnam)
This type of map is compiled with the aim of serving the integrated geographical studies and other field. The main
contents of the map are the morphogenetic types of relief. The map legend composes of 4 parts: I. The morphogenetic
types of relief; II. Landforms; III. The age of relief; IV. The other symbols.
The morphogenetic types of relief being the main contents are showed on the map by the color background. They
consist of 29 units, and gather in 9 groups, 2 series. The layering of relief is reflected on the map by letters: a, b, c, d,
e, f, g.
Landforms classified according to their genesis are showed on the map by the non-scale symbols, superimposing on
the color background of types of relief. There are 10 genetic groups of landform: tectonic and denudation-structure,
general denudation, fluvial, gravity, dissolve-absorption, karst, marine, wind, biological, anthropogenic. The age of relief
showed by letters and figures as in geology is superimposed on the types of relief, and composes of: Neogene (N),
Miocene (N1), Pliocene (N2), Quaternary (Q), Pleistocene (Q1), Early Pleistocene (Q11), Holocene (Q2),... Other symbols
indicate the elements out of landforms, such as lithology, boundary,... The topographical basis is simplified.
This map fairly well expresses the morphology of relief, as well as all factors of landform-formation of territory, will
be the good basis for landscape, pedology, soil erosion, environment conservation,... studies, and other works of
territorial planning for different purposes (forestry, agriculture, communication,...).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3660_12491_1_pb_7467_2107960.pdf