Kinh tế học - Chính sách phát triển

Một số vấn đề tổng quan về Nhà nước Định nghĩa về Nhà nước: Nhà nước là cơ quan thống trị của một (hoặc một nhóm) giai cấp này đối với một hoặc toàn bộ các giai cấp khác trong xã hội; vừa là cơ quan quyền lực công đại diện cho lợi ích của cộng đồng xã hội, thực hiện những hoạt động nhằm duy trì và phát triển xã hội Đặc trưng của Nhà nước: Phân chia dân cư theo lãnh thổ hành chính Sự hiện diện của một bộ máy đặc biệt có chức năng quản lý xã hội Quyền tối cao trong việc quyết định các vấn đề đối nội đối ngoại Ban hành luật pháp Quy định và thu các loại thuế để tạo nguồn kinh phí cho Nhà nước hoạt động

ppt606 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế học - Chính sách phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xét thưởng (tặng) nhà. Ngoài lương đang hưởng theo ngạch, bậc, các đối tượng còn được hưởng phụ cấp đặc biệt và khen thưởng bằng tiền. Mức xét thưởng một lần bằng 50- 200 tháng lương tối thiểu. Các đối tượng còn được hưởng nhiều hình thức ưu đãi khác như ưu tiên nhập hộ khẩu, tuyển dụng vào biên chế nhà nước, mời làm chuyên gia, cố vấn, tham gia giải quyết các vấn đề của Thành phố. Với người có công trình nghiên cứu, dự án, sáng kiến có tính khả thi phù hợp với yêu cầu phát triển của Hà Nội, sẽ xét tạo điều kiện triển khai thực hiện, nguồn tài chính sẽ lấy từ quỹ khuyến khích, ưu đãi, thành lập từ ngân sách địa phương và do đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi, xuất sắc, thủ khoa, tiến sỹ dưới 35 tuổi, thạc sỹ dưới 30 tuổi ở những chuyên ngành mà Hà Nội đang thiếu được tham dự và ưu tiên trong các kỳ thi tuyển công chức, ưu tiên ký hợp động lao động, dù không có hộ khẩu ở Hà Nội. Hàng năm, trên cơ sở đăng ký nhu cầu tuyển dụng cán bộ, công chức của các ban ngành, Thành phố sẽ chọn 30- 50 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc, giới thiệu về các ban, ngành để xem xét. Sau khi được ưu tiên nhận vào các cơ quan ở Hà Nội, các sinh viên đó còn được xem xét tạo điều kiện để đi đào tạo tiếp sau đại học, kể cả đào tạo ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp cấp học bổng cho học sinh trung học, sinh viên hoặc những người có tài năng đặc biệt để theo học các trường đại học trong và ngoài nước. Các vận động viên, nghệ sỹ tài năng, đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc gia, quốc tế, kể cả người không có hộ khẩu Hà Nội, đều có thể tham dự thi tuyển công chức vào các ngành theo chuyên môn của Thành phố. Các sở ban ngành khi phát hiện người có tài năng ở các cơ quan, địa phương ngoài Thành phố, có nguyện vọng công tác ở Hà Nội, chủ động báo cáo với UBND TP và phối hợp với Ban Tổ chức Chính quyền TP xem xét, tiếp nhận về công tác tại sở, ngành, đơn vị mình. Có chế độ học bổng, chế độ phụ cấp với một số em có năng khiếu nghệ thuật, thể dục thể thao từ lúc nhỏ tuổi được lựa chọn để cử đi đào tạo trong và ngoài nước. Với công chức, cán bộ đang làm việc trong các cơ quan của Thành phố, có chính sách để học tập nâng cao trình độ. Đối tượng cử đi học là những người công tác ít nhất 5 năm trong ngành, cán bộ giỏi, có khả năng phát triển. Họ được nhận trợ cấp kinh phí bảo vệ luận văn, luận án. Đồng thời sẽ có chế độ khen thưởng thích đáng đối với những người học tập đạt loại khá, giỏi xuất sắc. Hàng năm, Thành phố sẽ tuyển chọn và cử đi đào tạo, bồi dưỡng sau đại học ở nước ngoài 150 cán bộ, công chức. Trong đó đào tạo 75 thạc sỹ, 20 tiến sỹ và 55 thực tập sinh nâng cao trình độ. Họ sẽ được gửi đi đào tạo tại các nước có trình độ phát triển khoa học công nghệ cao như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Trung Quốc, Nga. TP Hồ Chí Minh- Rõ ràng và khoáng đạt (Dự thảo): Đảm bảo thu nhập của người có trình độ cao không thấp hơn 3.500.000 đ/ tháng. Người được ưu tiên đề bạt vào các chức vụ quan trọng trong đơn vị doanh nghiệp từ cấp trưởng phòng ban trở lên, kể cả đề nghị bổ nhiệm các chức danh viên chức quản lý doanh nghiệp. Họ còn được bố trí phương tiện đi lại thuận lợi, được tự chọn trường cho con học, không bắt buộc phải nhập hộ khẩu, phải học theo tuyến, được miễn đóng học phí. Nếu phải nuôi dưỡng cha mẹ đẻ già yếu, hàng tháng họ còn được trợ cấp 150.000 đ/suất.Không phân biệt quốc tịch, thành phần, tôn giáo, nơi cư trú, độ tuổi, giới tính miễn là có đủ sức khoẻ và trình độ đáp ứng yêu cầu công việc. Ưu tiên giải quyết mua nhà ở tại các khu chung cư hoặc đất làm nhà trong các khu quy hoạch khu dân cư, có chính sách cụ thể về giảm thuế mua đất, thuế mua nhà ở. Những trường hợp thật sự khó khăn, không có khả năng tự mua nhà hoặc đất để làm nhà, những người tình nguyện hoặc được điều chuyển đến làm việc ở các vùng ngoại thành, xa thành phố, được bố trí luôn nơi ở mà không phải trả tiền thuê nhà. Những người đến từ các tỉnh, thành phố khác và có quốc tịch Việt Nam, sau 2 năm làm việc, đóng góp hiệu quả, có ý kiến đề nghị của doanh nghiệp, sẽ được xem xét nhập hộ khẩu vào Thành phố. Những lý do khácĐể có việc làm, thí dụ, khu vực tư cần tiêu thụ sản phẩm, dịch vụĐể báo cáo cấp trên, HĐND theo yêu cầuĐể làm đề tài nghiên cứu khoa họcĐể có bài đăng báoĐể tự bảo vệ quyền lợi của nhóm lợi íchĐể tranh cửCâu 3 Hãy cho biết hoạt động phân tích chính sách phải thực hiện những nhiệm vụ nào?P.134Xây dựng kế hoạch phân tích Tổ chức công tác phân tích chính sách Kiểm tra đôn đốc quá trình phân tích .Chương trình xây dựng luật 2004: QH làm Luật để đón đầu WTO!08:31' 08/11/2003 (GMT+7) (VietNamNet) - Trong phiên thảo luận tổ chiều qua (7/11), nhiều ĐB  đề xuất: "Các bộ phận chức năng của QH nên tóm lược những nội dung chính, quan trọng của các bộ luật để đưa ra cho các ĐB thảo luận tại hội trường chứ không cần đọc lại toàn bộ văn bản luật. Cũng chiều qua, lần đầu tiên thấy các ĐBQH "sốt ruột" khi nhắc tới mấy chữ WTO: "Phải thông qua và sửa đổi ngay trong năm 2004 những luật nào liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế...".Bộ kêu "quá tải", ĐB than "oải quá rồi"Hiện nay chúng ta mới có 200 luật, trong khi nhu cầu phải có khoảng 800 luật mới đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống, đòi hỏi QH phải tăng "tốc", tăng số luật thông qua trong mỗi năm. Nhưng làm thế nào để việc thông qua luật được nhanh hơn mà vẫn đảm bảo được chất lượng? Trong buổi thảo luận tổ chiều hôm qua tại các tổ, nhiều ĐB than phiền: "chúng ta đang chạy theo số lượng", người khác lại bảo: "tốc độ làm luật chậm quá, nước người ta làm ào ào ấy chứ". ĐB Hà Nội Nguyễn Văn Nghinh kêu: "Về chương trình xây dựng luật năm tới, tôi nghĩ một Bộ, ngành chỉ nên làm 1 luật/năm. Chứ cứ tình trạng làm tới 2 luật, 1 pháp lệnh trong một năm như Bộ Công an thì sẽ quá tải". ĐB Hoàng Văn Nghiên, Chủ tịch UBND TP.Hà Nội cũng có ý kiến tương tự: "Luật chưa hoàn chỉnh vì Quốc hội phải làm quá nhiều việc, mà công việc soạn thảo luật thì rất công phu, mất nhiều thời gian. Nếu năm 2004 chương trình làm việc của chúng ta như vậy thì nhiều quá, chỉ nên làm vừa phải thôi. Mỗi năm một bộ, ngành làm một luật đã là vĩ đại rồi, chứ đánh tới 2-3 luật thì sợ không đảm bảo". ĐB Nguyễn Thị Vân Lan (TP. Đà Nẵng) nói ngắn gọn: "Chúng ta thấy Quốc hội đang chạy theo số lượng...".ĐB Mai Quốc Bình, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM  chỉ ra mẫu thuẫn là ở chỗ, số luật phải thông qua thì nhiều nhưng ĐB kiêm nhiệm quá ít thời gian, như vậy rất khó đạt được chất lượng như mong muốn. "Họp mỗi năm hai kỳ, mỗi kỳ một tháng, công việc vẫn phải hoàn thành, họp QH cũng không thể bỏ buổi nào. ''Nếu phải kéo thêm thời gian họp nữa thì thấy oải quá", ông nói. Hoà thượng Thích Thanh Tứ thành thật: "Đúng là Quốc hội làm việc mệt rồi! Tôi ngồi cả sáng nay bấm nút mà cũng thấy mệt". ĐB Hà Nội Nguyễn Mạnh Cường đụng đến vấn đề... tế nhị, đó là cần tăng kinh phí cho việc làm luật: "Chúng ta cứ chạy theo số lượng, nhưng con người, vật chất chỉ có đến vậy thì có nên đặt số lượng lên hàng đầu? Hiện nay cả Quốc hội mỗi năm chỉ được 200 tỷ đồng. Trong khi đó, có con đường được đầu tư tới 1.200 tỷ đồng. Chúng ta có thể đầu tư cho một con đường như vậy thì cũng nên đầu tư thêm cho hoạt động chính sách. Một chính sách đúng trong một giờ có thể tạo được cho nhân dân nhiều tỷ đồng".Nên để dân "giúp" ĐBVẫn ĐB Hà Nội Nguyễn Văn Nghinh thắc mắc: "Tôi có một số đề xuất sửa đổi nhưng không được ghi nhận. Thế mà chả anh nào có ý kiến về việc này cả, cũng chẳng có ai giải thích vì sao không ghi nhận". ĐB Hằng Nga (TP.HCM) cũng băn khoăn: "Thời gian thảo luận ít quá, tôi thấy nhiều ĐB muốn có thời gian phát biểu nữa để hoàn thiện hơn những điều khoản trong những bộ luật nhưng không có thời gian. Tôi thấy chất lượng làm luật chưa đạt hiệu quả như mong muốn của chúng ta". ĐB Nghiêm Vũ Khải (tỉnh Hà Giang) cho rằng: "Kỳ họp này chưa thực hiện nghiêm túc việc lắng nghe, tiếp thu, tổng hợp ý kiến của các ĐB". ĐB Mai Quốc Bình (TP.HCM) hài hước: "Có lúc tôi thấy thảo luận mà cứ như bàn chơi vậy đó, ĐB bàn cứ bàn. Điều đáng nói là họp nhiều mà tác động của ĐB đến việc làm luật không nhiều...".Việc phải chờ quá nhiều văn bản dưới luật thì luật mới được thực hiện khiến cho tiến trình làm luật chậm lại khiến nhiều ĐB băn khoăn. ĐB Hà Nội Nguyễn Tiến Thắng đề nghị: "Làm thế nào để khi luật ra là phải thực hiện được ngay, chứ chúng ta cứ phụ thuộc nhiều vào các văn bản hướng dẫn quá! Phải giảm bớt văn bản dưới luật đi!". ĐB Hà Nội, Nguyễn Thị Anh Nhân than phiền: "Tôi đọc luật thấy nhiều chỗ quy định cái này giao cho Chính phủ". Đọc xong gấp lại mà cứ thấy chưa thoả mãn. Thường thì luật nào vừa được thông qua cũng phải chờ có văn bản hướng dẫn mới thực hiện được, nhưng cũng chính đó lại là những vấn đề rất quan trọng nên nên rất phiền cho các cơ quan thực thi pháp luật".Để rút ngắn thời gian thông qua luật của ĐB QH mà vẫn đảm bảo chất lượng, ĐB Nguyễn Tiến Thắng "nhắn nhủ": "Quốc hội phải bảo UBTVQH làm công tác chuẩn bị sớm hơn, vì muốn làm luật thì phải đưa ra lấy ý kiến. Mà lấy ý kiến thì mất thời gian lắm!".Sáng kiến của ĐB Mai Quốc Bình được các ĐB ở đoàn TP.HCM đồng thuận hơn cả: "Theo tôi, các Uỷ ban của QH chỉ cần tóm lược những nội dung quan trọng, cần thiết đưa ra cho các ĐB  thảo luận (chứ không cần đọc lại cả bộ luật vì các ĐB đã được phát văn bản đến tận tay rồi) Và cũng nên đưa những nội dung này lên inrtenet, báo chí để nhân dân đóng góp ý kiến, xây dựng. Trung Quốc họ làm theo cách như vậy nên mỗi kỳ chỉ cần họp nửa tháng nhưng mỗi năm lại thông qua được rất nhiều bộ luật".Làm luật cho "WTO"Một trong yêu cầu cấp bách của việc làm luật là sự đòi hỏi của đời sống. Và vì thế, định liệu thứ tự trước, sau như thế nào, việc đầu tiên là phải xét đến đòi hỏi cấp bách của đời sống xã hội chứ không phải "xếp hàng" theo kiểu "luật nào soạn thảo trước thì thông qua trước... Đó là ý kiến của nhiều ĐB. ĐB Huỳnh Thành Lập (TP.HCM) phân tích: "Chúng ta nên thống nhất, tập trung thông qua hoàn thành một số luật đang có yêu cầu cấp bách của đời sống xã hội. Riêng trong năm 2004 nên ưu tiên: Luật khiếu nại tố cáo, Luật thuế sử dụng đất (song hành với Luật đất đai sửa đổi), Luật giáo dục sửa đổi... Làm luật không nên xếp hàng mà nên tính đến yêu cầu cấp bách của đời sống". ĐB Mai Quốc Bình đề nghị QH nên cân nhắc để có kế hoạch thông qua trong cùng một thời gian các luật có nội dung gần nhau và có tác động lẫn nhau để dễ thực hiện khi ban hành và cũng để các ĐB "thuộc bài" hơn trong thảo luận. Ông phân tích: "Năm 2004, tại sao không thông qua một lèo những luật có liên quan chặt chẽ với nhau như Luật thuế sử dụng đất, Luật kinh doanh bất động sản... sau khi thông qua Luật đất đai kỳ này. Và năm 2006 là gia nhập WTO rồi, các luật liên quan đến hội nhập kinh tế như Luật thương mại, Luật phá sản... nên thông qua trước trong năm 2004 để có bước chuẩn bị.". Hình như đây là lần đầu tiên, các ĐB bắt đầu quan tâm đề cập đến việc "làm luật'' để "đón" WTO. ĐB Nguyễn Lân Dũng (Đăk Lăk): "Năm 2005 chúng ta sẽ gia nhập WTO. Do đó, năm 2004, khi lên chương trình xây dựng pháp luật phải lưu ý làm kịp những luật, pháp lệnh cần thiết nhất để kịp thời điều chỉnh lĩnh vực này. Nếu chúng ta không làm kịp sẽ không đáp ứng được điều kiện gia nhập WTO, điều này đồng nghĩa với việc không họ được chấp nhận. Ta nên cử người sang Trung Quốc để tìm hiểu họ đã làm thế nào mà học tập".Kim Thoa đề nghị cụ thể: "2004, cần thông qua Luật thương mại sửa đổi  vào ngay kỳ họp thứ 5 để đáp ứng được yêu cầu của hoạt động thương mại khi gia nhập WTO".Câu 4 Trình bày những yêu cầu cơ bản đối với phân tích chính sách. Liên hệ thực tế nước ta.P. 116Yêu cầu toàn diện Yêu cầu thường xuyên Yêu cầu sát thực Yêu cầu đồng bộ Yêu cầu lôgicMột thí dụ về yêu cầu toàn diệnVấn đề chính sách: Việt Nam có nên xoá bỏ án tử hình I. LÝ LUẬN CỦA NGƯỜI MUỐN BÃI BỎ ÁN TỬ HÌNH Án tử hình là trái đạo lý; điều đó là kinh tởm đối với xả hội hiện đại. Các nước tân tiến như Anh Quốc gần như đã bãi bỏ án tử hình (ngoại trừ cho tội phản quốc). Lên đến 5% những người bị kết án thật sự lại là vô tội; họ bị kết án vì bị nhận dạng lộn, những chứng cớ gián tiếp, bồi thẩm đoàn có thành kiến, hay lời buộc tội cách áp đảo của các luật sư. Án tử hình làm xã hội thành hung ác bằng cách coi nhẹ sự sống. Án tử hình không thể bảo vệ được trên phương diện đạo đức; án đó không thể ngăn người ta phạm tội giết người. Án tử hình khiến cho việc cải hóa tội nhân không thể thực hiện được. Những người tán thành án tử hình bị bêu xấu là vô tâm, có tinh thần trả thù và thiếu lòng thương xót. II. LÝ LUẬN CỦA NGƯỜI ỦNG HỘ ÁN TỬ HÌNH Chính quyền phải quan tâm đến việc bảo vệ xã hội, không phải chỉ bảo vệ quyền lợi của tội nhân. Công lý phải được duy trì và điều này sẽ làm thấm nhuần các tiêu chuẩn phải trái trong dân sự.Án tử hình là một vấn đề của pháp lý được thành lập cho lợi ích chung của xả hội.Sát nhứt miêu cứu vạn thử- Đến cuối năm 2004, trên thế giới còn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ đang áp dụng hình phạt tử hình, trong đó có nhiều nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Liên bang Nga, Indonesia v.v... - 61 quốc gia đã loại bỏ hoàn toàn án tử hình. - 14 quốc gia như Canada, Tây Ban Nha, Nam Phi loại bỏ án tử hình cho các tội phạm hình sự thường nhưng vẫn áp dụng án tử hình cho các tội đặc biệt nguy hiểm. - Một số nước như Philippines trước đây đã bãi bỏ án tử hình nhưng nay khôi phục lại ở một số trọng tội.- Năm 2003, thế giới có 2.756 người bị kết án tử hình và 1.146 bị thi hành án tử hình, trong đó riêng Trung Quốc có 726 người bị thi hành án tử hình. Con số này ở Iran là 108, tại Arập Xêút là 50. Việt Nam năm 2004 tuyên 97 án tử hình Việt Nam sẽ giảm dần án tử hình Ngày 24/11, Bộ Ngoại giao phối hợp với Liên minh châu Âu (EU) tổ chức cuộc hội thảo về án tử hình. Qua tranh luận, các đại biểu trong và ngoài nước đã hiểu sâu hơn vì sao ở Việt Nam vẫn cần phải thực hiện hình phạt này, đồng thời cũng ghi nhận xu hướng xóa bỏ án tử hình với một số loại tội phạm.Theo một số đại biểu đến từ các nước thuộc EU, mặc dù hiện nay án tử hình còn được thực hiện ở nhiều quốc gia nhưng xu hướng chung là giảm bớt và đi tới xóa bỏ án tử hình. Ông Gerban de Jong - Đại sứ Vương quốc Hà Lan tại Việt Nam cho biết EU đặt mục tiêu là góp phần xóa án tử hình trên toàn cầu, trước mắt là kêu gọi hạn chế áp dụng mức án này và nếu có áp dụng thì nên theo "các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định". Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm - Phó chánh Văn phòng thường trực phòng chống ma túy, Bộ Công an, hiện nay do nhận định về sự cần thiết của hình phạt này, nên vẫn còn 90 nước áp dụng án tử hình, trong đó có cả nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản... Một số nước tuy đã bãi bỏ án tử hình nhưng do thấy không ổn lại khôi phục đối với một số trọng tội như buôn bán ma túy, giết người... Năm 2003, có khoảng 2.756 người bị kết án tử hình ở 63 quốc gia. Hình thức thực hiện án tử hình cũng rất khác nhau: chém, tiêm thuốc độc, ghế điện và cả treo cổ... Một số nước theo đạo Hồi tử hình phạm nhân bằng cách ném đá đến chết hoặc thiêu sống... Việt Nam: Giảm dần án tử hình Quan điểm của đại biểu từ Bộ Ngoại giao, từ các cơ quan tư pháp của Việt Nam khá thống nhất về án tử hình. Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng nói: "Đối với Việt Nam, việc vẫn duy trì án tử hình là cần thiết nhằm đảm bảo cuộc sống bình yên cho người dân và vì lợi ích chung của cộng đồng và toàn xã hội". Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) của Việt Nam năm 1999 đã giảm hình phạt tử hình từ 44 tội danh xuống còn 29 tội danh. Tiến sĩ Vũ Ngọc Anh - Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an nói: "Việc áp dụng hình phạt tử hình thời gian qua thực sự có tác dụng trấn áp và răn đe kẻ phạm tội. Trong nhiều trường hợp, thủ phạm đã phải thú nhận là chính mối lo sợ bị kết án tử hình đã ngăn chúng không tiếp tục phạm tội ở mức nguy hiểm hơn". Thực tế cho thấy, trong một số nhóm tội phạm nghiêm trọng về ma túy, giết người... bọn tội phạm luôn có xu hướng đối phó với việc nếu bị bắt, bị truy tố sẽ bị tử hình bằng cách che giấu hoặc lẩn tránh những tình tiết khiến phải chịu hình phạt cao nhất. Một điểm "đặc thù" của Việt Nam là hằng năm các phạm nhân được xét ân xá, đặc xá... Do đó, giới tội phạm cho rằng: "Chỉ có hình phạt tử hình là thực sự đáng sợ". Tiến sĩ Vũ Ngọc Anh kết luận: "Duy trì án tử hình hiện nay là phù hợp". Tuy nhiên, để phù hợp với xu thế chung của thế giới, sẽ thu hẹp dần phạm vi áp dụng hình phạt tử hình. Một số đại biểu cũng nhất trí với các ý kiến trên nhưng cho rằng, bên cạnh đó cũng phải nâng cao năng lực của đội ngũ thẩm phán, luật sư để giảm tối đa các trường hợp bị xét xử oan, sai dẫn đến có thể có những án tử hình oan uổng hoặc là không được chú ý xem xét các tình tiết, bằng chứng có thể giảm nhẹ tội giúp họ có thể thoát khỏi án tử hình.  (Thanh Niên)Thiếu tướng Lê Văn Cương - Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học công an cho biết, từ khi áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), mỗi năm, tòa án nhân dân các cấp tuyên phạt tử hình khoảng 70-80 bị cáo (chiếm 0,25% tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử). Trong đó, 95% án tử hình áp dụng cho các tội: tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy; giết người, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham ô... Trong một năm tước quyền được sống của 70-80 người để đảm bảo quyền được sống bình yên cho 80-85 triệu người khác tại Việt Nam... là việc làm cần thiết, hợp đạo lý, hợp lòng dânPhương thức hành hình tử tội trên thế giớiThi hành án tử hình phổ biến ở các nước là treo cổ và xử bắn. Một số quốc gia đã áp dụng hình thức “nhẹ nhàng” hơn, đó là tiêm thuốc độc. Ở Việt Nam, việc hành hình các tử tội đang được nghiên cứu để hoàn thiện hơn.Trung QuốcTrung Quốc áp dụng hình thức xử bắn đối với các tội phạm nguy hiểm như tham nhũng nghiêm trọng, giết người, ma túy, tội phạm có tổ chức Thường thường, nhiều tử tội được đưa ra pháp trường cùng một lúc và bị xử bắn tập thể trước sự chứng kiến của hàng vạn người dân. Điều này có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa tội phạm rất lớn.Còn các tử tội khác được đưa vào buồng giam và tiêm thuốc độc gây chết người. Ở một số nước Hồi giáo, việc tử hình được thực hiện bằng ném đá đến chết hoặc thiêu sống. Phụ nữ theo đạo Hồi nếu ngoại tình hoặc hành nghề mại dâm sẽ phải chịu hình phạt này trong khi đó đàn ông theo đạo Hồi có quyền lấy tới... 4 vợ. Xưa kia ở một số nước châu Âu, tử hình được thực hiện bằng chém. Bị án được đưa lên máy chém để thực hiện hình phạt. Các hình thức cẩu đầu trảm, long đầu trảm rất phổ biến trong lịch sử Trung Quốc cổ đại.Ngoài ra, trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam còn có các biện pháp cho voi giày, tùng xẻo hoặc ném bị án vào vạc dầu sôi.Ở Việt Nam, Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự nước ta năm 2003 quy định “Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn”.Bộ Công an được giao chủ trì tổ chức thi hành hình phạt tử hình. Từ năm 1974, Bộ Công an đã có chỉ thị “Về việc thi hành án tử hình” trong đó quy định tiến hành thống nhất thi hành án tử hình. Trong một số tập của bộ phim Cảnh sát hình sự cũng đã quay cảnh các vụ thi hành án tử hình. Tại pháp trường, đội thi hành án gồm 5 chiến sĩ công an bắn giỏi được lựa chọn, sẽ bắn một loạt súng trường thẳng vào tim phạm nhân. Để kết thúc việc thi hành án tử hình, cán bộ chỉ huy đội bắn thêm một phát súng ngắn vào thái dương của phạm nhân gọi là viên đạn ân huệ. Sau khi đã thi hành án tử hình, Cơ quan Công an có trách nhiệm làm giấy báo cho thân nhân, gia đình phạm nhân biết. Thực tiễn cho thấy, việc thi hành hình phạt tử hình bằng xử bắn có tác dụng răn đe tội phạm, tuyên truyền phòng ngừa tội phạm cao. Tuy nhiên, biện pháp này làm cho thi thể tử tội không nguyên vẹn và có ảnh hưởng nhiều tới tâm lý, tư tưởng cán bộ chiến sĩ thi hành án nhất là số cán bộ công an đã tham gia xử bắn nhiều hoặc xử bắn các tử tội là nữ, hoặc trực tiếp được giao trói, bịt mắt tử tội và được giao bắn viên đạn ân huệ vào thái dương phạm nhân. Rất ít cán bộ trẻ xung phong vào các đội công tác này.Trong quá trình thi hành hình phạt tử hình cũng đã xuất hiện nhiều vướng mắc như kiểm tra căn cước, xác định vân tay của tử tù, hoãn thi hành án, gia đình xin nhận xác bị án về mai táng. Đã có nhiều vụ án phải hoãn thi hành án, điển hình là các tử tù Siêng Phênh và Nguyễn Khánh Lộc đã đề nghị hoãn thi hành án để khai ra một số kẻ đồng phạm đang còn giấu mặt ngoài xã hội. Bên cạnh đó có nhiều trường hợp gia đình tự ý đào lấy xác người thân về mai táng sau khi hình phạt tử hình đã được thi hành. Về pháp trường thi hành án tử hình, các địa phương rất khó tìm địa điểm để làm, nhất là các tỉnh đồng bằng. Có tỉnh như Nghệ An phải đi xe 140km mới có địa điểm thi hành án tử hình. Vì vậy, cần xây dựng những pháp trường cố định để thi hành án tử hình. Pháp trường cần được xây dựng ở các nơi dễ đi lại, có điều kiện cho nhân dân xem, có tường chắn đạn, gần nơi chôn cất bị án. Để góp phần hoàn thiện công tác thi hành án tử hình, Nhà nước cần nghiên cứu, áp dụng 2 phương thức: xử bắn hoặc tiêm thuốc độc. Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn đối với những kẻ phạm tội là chủ mưu nguy hiểm cầm đầu các băng nhóm tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Các trường hợp tử hình khác nên thi hành bằng tiêm thuốc độc tại buồng giam như một số nước. --------------------------------- - Đến cuối năm 2004, trên thế giới còn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ đang áp dụng hình phạt tử hình, trong đó có nhiều nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Liên bang Nga, Indonesia v.v... - 61 quốc gia đã loại bỏ hoàn toàn án tử hình. - 14 quốc gia như Canada, Tây Ban Nha, Nam Phi loại bỏ án tử hình cho các tội phạm hình sự thường nhưng vẫn áp dụng án tử hình cho các tội đặc biệt nguy hiểm. - Một số nước như Philippines trước đây đã bãi bỏ án tử hình nhưng nay khôi phục lại ở một số trọng tội. - Năm 2003, thế giới có 2.756 người bị kết án tử hình và 1.146 bị thi hành án tử hình, trong đó riêng Trung Quốc có 726 người bị thi hành án tử hình. Con số này ở Iran là 108, tại Arập Xêút là 50. Theo CAND Kết luận:Yêu cầu toàn diện khi phân tích CSC (trang 138) POLICY ANALYSIS AS ART AND CRAFT Understanding public policy is both an art and a craft. It is an art because it requires insight, creativity, and imagination in identifying societal problems and describing them, in devising public policies that might alleviate them, and then in finding out whether these policies end up making things better or worse. It is a craft because these tasks usually require some knowledge of economics, political science, public administration, sociology, law, and statistics. Policy analysis is really an applied sub- field of all of these traditional academic disciplines Câu 5 Trình bày các nguyên tắc phân tích chính sách. Hãy cho biết nguyên tắc nào là cơ bản nhất?P. 122Nguyên tắc mục tiêu Nguyên tắc hợp lýNguyên tắc thích ứng Nguyên tắc phối hợpNguyên tắc hiệu quả Nguyên tắc chính trịChú ý quan điểm chính trị trong phân tích chính sách công - Một thí dụXem 6.6 . Nguyên tắc chính trị trong phân tích chính sách p. 153Chính sách kinh tế mới của LêninNew Economic Policy (NEP)Xem p. 19 GT “phương sách kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc Nhà nước kiểm soát lợi ích đóSau đây là nhìn nhận của phương Tây về chính sách kinh tế mới của Lênin: “đó là một chính sách cho phép khôi phục một phần quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”Lenin instituted the New Economic Policy, which allowed for a modest (vua phai) resumption (su tai tuc) of capitalist relationsNguyên tắc phối hợp Yêu cầu phối hợp giữa cơ quan nhà nước các cấp, các ngành (p.152)Tài liệu đọc thêm của DunnWilliam N. Dunn, Public policy analysis- An introduction, Prentice Hall, 1994) một môn khoa học xã hội ứng dụng (an applied social science discipline)sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu (that employs multiple methods of inquiry -xiv)mục đích chính của phân tích chính sách công là để cải thiện quá trình và sản phẩm của hoạch định chính sách (a major goal of public policy analysis - to improve the process and products of policy making -[Dunn, xv])phương pháp phân tích chính sách bao gồm các kỹ thuật thống kê và toán kinh tếparticular methods of policy analysis, especially statistical or econometric techniques (xiv)Phương pháp luận phân tích chính sách bao gồm nhiều ngành học như khoa học chính trị, xã hội học, tâm lý học, kinh tế học, triết học.The methodology of policy analysis draws from and intergrates elements of multiple disciplines: political science, sociology, psychology, economics, philosophy (p.2)Nhà phân tích chính sách phải biết:Không chỉ tìm ra giải pháp phân tích chính sách thích hợpMà còn phải biết trình bày kết quả nghiên cứu (phân tích ) của mình dưới dạng các báo cáo đánh giá phân tích chính sách they must not only obtain an appropriate analystic solutionbut also translate and communicate this solution in the form of a policy issue paper, policy memorandum, or oral briefing (xiv)Nhà phân tích chính sách không thể thiếu :một phần mềm thống kê chuyên nghiệpthí dụ SPSS (Statistic package for social study)hay là MYSTAT (xv):chúng dùng để phân tích và giải thích các thông tin có liên quan đến chính sách (policy-relevant information may be analysed and interpreted)Có thể dùng chúng để làm nhiều phép phân tích thống kê (many useful statistical routines) như:standard descriptive staisticsbar charthistogramsstem-and-leaf displaysscatterplotstime-series analysis with transformations of nonlinear dataanalysis of tabular data with nonparametric statisticsmultiple regression analysisCác bạn đang/sẽ là các nhà thực hành về phân tích chính sách côngpractitioners of policy analysis (xv)Theo kinh nghiệm qua 10 năm nghiên cứu và thực hiện phát triển chính sách công của William N. Dunn (trong quyển Public policy analysis- An introduction, Prentice Hall, 1994):Quá trình xác định vấn đề chính sách chính là tâm điểm của toàn bộ việc phân tích chính sách (the process of problem definition lies at the heart of real-world policy analysis.xv)Cho nên ông có quan điểm xem phân tích chính sách hướng về vấn đề (problem-centered policy analysis)Có hai câu châm ngôn hơi trái ngược nhau:“Không có giải pháp thì không có vấn đề” (“No solution, no problem”)“Nếu vấn đề đã được xác định đúng, tức là nó đã được giải quyết một nửa”(“A problem well formulated is a problem half solved”)Ông Dunn còn nhấn mạnh đến việc thông tin, tranh luận và bàn cãi công về một vấn đề chính sách công.communication, argumentation and public debateÔng muốn rằng, qua tranh luận, bàn cãi, nhà phân tích chính sách công không chỉ phục vụ cho các quan chức của cơ quan công quyền mà phải phục vụ công chúng nói chungpolicy analysts should serve the public (not merely officials) by contributing to processes of argumentation and debate (xv)Môn học này cung cấp phương pháp luận cho phân tích chính sách This books provides a methodology for policy analysis (p.2)phương pháp luận, nghĩa là một hệ thống các tiêu chuẩn, quy luật, thủ tục để tạo ra, đánh giá một cách có phê phán và thông tin về các tri thức có liên quan đến chính sách .Methodology is a system of standards, rules, and procedures for creating, critically assessing and communicating policy-relevant knowledge.Phân tích chính sách không chỉ để tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả của các chính sách công đang có.Nó còn cung cấp lý lẽ cho sự lựa chọn một trong những giá trị cạnh tranh nhau như: sức khoẻ, sự thịnh vượng, sự an toàn, hoà bình, công bằng, tự do. Việc chọn cái này bỏ cái kia, hoặc ưu tiên nhiều hơn cho cái này so với các cái khác đâu phải chỉ là vấn đề kỹ thuật ra quyết định (tính toán hiệu quả quy thành tiền chẳng hạn) mà còn phải đưa ra các lý lẽ thuộc về đạo đức. Vì vậy có thể nói, phân tích chính sách cũng là một thứ “đạo đức học ứng dụng” (applied ethics). liên hệ chính sách cho phá thai p.4p.4Khi đã có một sự lựa chọn trong số các giá trị cạnh tranh nhau (competing values), phân tích chính sách lại giúp tìm kiếm tri thức để cải tiến, nâng cao hiệu quả của sự lựa chọn đó, thí dụ:chăm sóc sức khoẻ (cho trẻ em dưới 6 tuổi chẳng hạn)phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư (để giúp người nghèo tồn tại)hạn chế phân biệt chủng tộc, giới tính trong tuyển dụng nhân sựtạo điều kiện cho cạnh tranh kinh tế quốc tếbảo đảm an ninh quốc phòng,Câu hỏi ôn tập Chương VNội dung phân tích chính sáchCâu hỏi ôn tập Chương VCâu 1. Khi tìm kiếm vấn đề chính sách , người ta dựa vào những đặc trưng nào?Câu 2. Tại sao khi phân tích hoạch định chính sách lại phải quan tâm đến thời cơ ban hành chính sách .Câu 3. Hãy cho biết nội dung phân tích diễn biến chính sách Câu 4. Khi phân tích tính hệ thống của chính sách cần tập trung vào những nội dung nào?Câu 5. Để duy trì chính sách cần có những điều kiện chủ yếu nào? Phân tích các điều kiện đó. Liên hệ với thực tế nước ta.Câu 1. Khi tìm kiếm vấn đề chính sách , người ta dựa vào những đặc trưng nào?P. 140/152Vấn đề chính sách có mối quan hệ biện chứng với môi trường tồn tại. Vấn đề chính sách mang cả tính hiện thực và tương lai.Vấn đề chính sách kém linh động so với các vấn đề chung. ĐB Hà Nội Nguyễn Tài Lương đề nghị: "Chúng ta nên bắt đầu từ nhu cầu của cuộc sống, sau đó các cơ quan địa phương tổng hợp đưa lên trình Chính phủ. Chính phủ gửi ý kiến đó đến UBTVQH và các Uỷ ban của Quốc hội sẽ trực tiếp soạn thảo văn bản". ĐB Huỳnh Thành Lập (TP.HCM) phân tích: "Chúng ta nên thống nhất, tập trung thông qua hoàn thành một số luật đang có yêu cầu cấp bách của đời sống xã hội. Riêng trong năm 2004 nên ưu tiên: Luật khiếu nại tố cáo, Luật thuế sử dụng đất (song hành với Luật đất đai sửa đổi), Luật giáo dục sửa đổi... Làm luật không nên xếp hàng mà nên tính đến yêu cầu cấp bách của đời sống". Theo số liệu thống kê, từ năm 1993-2002 có gần 16 nghìn trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, trong đó tỷ lệ lấy chồng Đài Loan chiếm 81%. Thời gian chung sống dưới ba tháng của những cặp vợ chồng chiếm đến 67%.  Tham dự các phiên tòa ly hôn có yếu tố nước ngoài mới biết có hàng nghìn lý do để các cô gái Việt Nam lấy “chồng ngoại”. Người vì tình, kẻ vì tiền. Nhưng cũng có nhiều người có những lý do đôi khi chẳng giống ai. Kim Tuyết, 24 tuổi quyết định lấy chồng Đài Loan để “được đi máy bay”. Thùy Anh, 22 tuổi thì mơ mộng đến ngớ ngẩn “lấy chồng Trung Quốc sẽ được sang đó ở, được nhìn thấy tuyết hàng ngày”. Nhất Lan, đang là sinh viên cũng quyết định lấy chồng người Đức chỉ vì “có mấy đứa bạn ở bên Đức, mình muốn qua đó cho vui” Ở Cần Thơ, trung bình một năm, tòa án tỉnh thụ lý gần 100 vụ án xin ly hôn với người nước ngoài, trong đó trường hợp lấy chồng Đài Loan chiếm đa số. Tuy nhiên, hiện tượng những cô gái trẻ nông thôn đồng bằng sông Cửu Long lấy chồng Đài Loan vẫn tiếp tục bùng phát. Năm 2000, chỉ riêng tỉnh Cần Thơ có 1.800 cô gái lấy chồng ngoại. Có những xã như Tân Lộc (Thốt Nốt, Cần Thơ), Hưng Thành và Hưng Hội (Vĩnh Lợi, Bạc Liêu), việc “kiếm” chồng nước ngoài rộ lên thành phong trào.   Bị hành hạ là chuyện thường ngày.Trong một cuộc phỏng vấn, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Đài Loan cho biết, ở Đài Loan mặc dù chính quyền các cấp kiểm tra giấy tờ rất nghiêm khắc song vẫn “lọt lưới” một số trường hợp người có vợ hoặc mắc bệnh tâm thần vẫn xin được giấy chứng nhận độc thân, sức khỏe bình thường để lấy vợ Việt Nam. Đa số người Đài Loan lấy vợ ngoài lãnh thổ là do hoàn cảnh đặc biệt, bị dị tật, tuổi cao. Ông Thứ trưởng  cho rằng con số 15-20% cô dâu Việt Nam sống không hòa thuận với gia đình chồng như Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan công bố là hơi thấp. Thực tế, tỷ lệ này cao hơn vì sau hôn nhân nảy sinh hàng loạt vấn đề phức tạp, khiến nhiều cô dâu nước ngoài thất vọng.  Nếu biết phải trả giá quá đắt không hiểu các cô gái và gia đình họ có dám bước vào “con đường chồng ngoại”? Nhưng có vẻ như những “tấm gương bất hạnh” tuy nhiều song lại hiện ra khá mờ nhạt trong mắt mọi người. Hình ảnh những căn nhà vách đất được “lên đời” sau khi gia đình có con lấy chồng ngoại lại gây ấn tượng mạnh mẽ với người dân nông thôn hơn. Hơn nữa, do số phụ nữ bị bạc đãi từ quê chồng trở về thường bỏ đi làm ăn xa hoặc không muốn nói lên sự thật. Mộng Thảo, đã ly hôn với người chồng Đài Loan tâm sự: “Em còn mặt mũi nào mà về quê. Biết hoàn cảnh em như thế này, chắc cha mẹ cũng chẳng vui vẻ gì khi sống trong căn nhà được sửa lại khang trang bằng số tiền em đem về khi mới lấy chồng Đài Loan”. Hiện nay, M.T đang làm tiếp viên nhà hàng ở thành phố. Một số cô sau khi về nước lại làm môi giới cho những bạn gái khác kiếm chồng ngoại để kiếm hoa hồng. Trong một phiên tòa ly hôn mới đây, Ngọc Hiền, người đứng đơn ly hôn tâm sự: “Trước đây người ta nói nhiều chuyện tiêu cực về việc lấy chồng Tây rồi, nhưng em không tin. Vậy là em lấy ông chồng Nhật để có 20.000 USD. Ba năm ở bên đó em bị đối xử còn tệ hơn đứa ở. Bị đánh nhiều đến nỗi không biết đau nữa. Mà tiền chồng hứa cho gia đình em trả nợ cũng chẳng thấy đâu Em không dám có con vì sợ sau này con mình giốngcha nó”. Nói xong, cô cười khoe tòa án đã quyết định cho cô ly hôn sau năm lần bảy lượt hầu tòa. Hầu hết, những người phụ nữ đứng đơn ly hôn đều cho biết sẽ “quyết tâm” ly hôn cho bằng được, cũng như quyết tâm lấy chồng ngoại ban đầu. Kết hôn với người Đài LoanTheo Sở Tư pháp, từ khi Nghị định 68 của Chính phủ có hiệu lực thi hành đến nay (2-1-2003 đến cuối tháng 9-2004), TP.Cần Thơ đã có 3.260 trường hợp đăng ký kết hôn với người nước ngoài, trong đó kết hôn với người Đài Loan là 2.871 trường hợp (chiếm 88% tổng số). Nghĩa là bình quân mỗi tháng phải giải quyết cho đăng ký khoảng 150 trường hợp, với nhiều thủ tục giấy tờ của người nước ngoài cần phải thẩm định xem xét thận trọng.Mặc dù Nghị định 68 thể hiện sự thông thoáng hơn so với Nghị định 184/CP trước đây, như quy định tăng thời hạn sử dụng các loại giấy tờ của người nước ngoài, bãi bỏ phần sử dụng giấy khai sinh, thủ tục xác minh của công an (chỉ xác minh những trường hợp cần thiết), nhưng thực tế cũng còn nhiều vướng mắc: Cán bộ hộ tịch không có trình độ ngoại ngữ (tiếng Hoa) để phỏng vấn đương sự mà phải mời phiên dịch (trường hợp kết hôn với người Đài Loan), chi phí phát sinh này chưa được quy định trong Nghị định 68; Việc xác định mục đích kết hôn không trong sáng để từ chối cho phép đăng ký kết hôn còn quy định chung chung và khó xác định chính xác; Luật Hôn nhân - Gia đình cũng không quy định độ tuổi chênh lệch giữa nam và nữ là bao nhiêu thì bị coi là trái thuần phong mỹ tục và không đảm bảo hạnh phúc gia đình nên rất khó xử lý những trường hợp chênh lệch tuổi quá lớn...Câu 2. Tại sao khi phân tích hoạch định chính sách lại phải quan tâm đến thời cơ ban hành chính sách?p. 142/155Thời cơ ban hành chính sách được hiểu là thời điểm mà tại đó chính sách được ban hành có thể có những cơ hội thực hiện(tồn tại và phát triển) mục tiêu đề ra. Nếu có cơ hội thực hiện gọi là đúng thời cơ, còn ít cơ hội, nhiều nguy cơ trong quá trình thực hiện gọi là không đúng thời cơ. Liên hệ cho thấy, việc chọn thời cơ ban hành chính sách có giá trị thực tiễn rất cao, làm cho hiệu lực hiệu quả chính sách được tăng cường.Phạm Văn Đồng và khoán sản phẩm trong NN Có lần vào năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với đồng chí làm thế nào để có thể bỏ thuế nông nghiệp cho nông dân nhưng ngân sách eo hẹp của nước ta lúc bấy giờ không cho phép làm được việc này.Đồng chí luôn băn khoăn về vấn đề phân phối của hợp tác xã, suy nghĩ cách cải tiến để tăng thêm thu nhập cho nông dân. Lúc biết Ở Vĩnh Phú đã làm thử việc khoán hộ, đồng chí đã về thăm nhiều lần, trao đổi ý kiến với đồng chí Bí thư Kim Ngọc và ủng hộ cách làm này. Nhưng tiếc rằng bấy giờ sáng kiến đó chưa đủ sức thuyết phục nhiều người để có thể thay đổi chính sáeh. Mãi đến sau này lúc Hải Phòng và một số nơi khác lặp lại việc "khoán chui" thì đồng chí tích cực ủng hộ sáng kiến này, có tác dụng mở đầu cho công cuộc đổi mới ở nước ta. [Đào Thế Tuấn, Viện trưởng Viện khoa học Nông nghiệp, 417]Phạm Văn Đồng và khoán sản phẩm trong nông nghiệp (1)[Thái Duy, 450]Cuối tháng 10-1980, tôi và anh Lê Điền, Tổng biên tập báo Đại đoàn kết về Hải Phòng tìm hiểu cách làm ăn mới ở nông thôn ngoại thành đang gây rất nhiều tranh cãi. Trên cả nước mới chỉ có Hải Phòng dám loại bỏ khoán việc mà mọi xã viên nông nghiệp trên cả nước ngán sợ đã lâu và chuyển sáu huyện ngoại thành sang khoán sản phẩm, nông dân quen gọi là khoán lúa. Nông thôn Hải Phòng khoán mầu rồi khoán lúa đã được hơn bốn tháng, đã họp sơ kết nhưng chưa được báo chí ủng hộ, nhắc đến. Báo chí vẫn chỉ tuyên truyền cho khoán việc. Hải Phòng đứng mũi chịu sào, những địa phương, những cơ quan ở Trung ương vẫn kiên trì bảo vệ khoán việc đã lên án gay gắt lãnh đạo Hải Phòng đưa nông thôn hợp tác hoá trở lại làm ăn tư hữu, cá thể, phân hoá giàu nghèo, làm xói mòn chủ nghĩa xã hội. Những người đồng tình với cách làm ăn mới của Hải Phòng đều hồi hộp, lo lắng, Hải Phòng rất có thể lại như Vĩnh Phúc với khoán hộ.Gặp anh Mạnh, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng phụ trách nông nghiệp tôi hỏi anh về áp lực của một số đoàn do cơ quan ở Trung ương cử về ra sức thuyết phục lãnh đạo Hải Phòng quay về với khoán việc và ý kiến của mấy đồng chí lãnh đạo Đảng đã về tìm hiểu khoán lúa ở Hải Phòng. Anh Mạnh trả lời: - Số người đến Hải Phòng góp ý kiến loại bỏ khoán sản phẩm không đông nhưng hầu hết lại là cán bộ có chứe có quyền ở nhiều cơ quan. Có đồng chí về Hải Phòng gặp các học trò cũ là lãnh đạo huyện hoặc lãnh đạo cơ quan trên thành phố, tỏ ra rất buồn phiền vì học trò lại tham gia khoán lúa, đi ngược đường lối của Đảng trong cải tạo nông nghiệp. Có đồng chí thành kiến với khoán lúa đến mức đến đâu có khoán lúa đều gán cho trọng tội ! "Khoán lúa, nếu vậy thì đốt hết sách Mác - Lênin à". Lãnh đạo của ehúng tôi căn dặn, khoán lúa trúng lắm rồi, nhưng khoán lúa còn mới mẻ, rất mong các đồng chí ở xa đến vạch cho thấy những lệch lạc để tiếp tục hoàn thiện. Còn đối với ý kiến muốn Hải Phòng trở về với khoán việc, chúng tôi đều nói rõ đáng lẽ phải loại bỏ khoán việc từ hàng chục năm trước, đến nay mới loại bỏ là đã quá muộn, còn muốn bắt nông dân chịu cực khổ đến bao giờ nữa. Một số đồng chí Trung ương về Hải Phòng động viên, khuyến khích chúng tôi tiếp tục giương cao ngọn cờ khoán lúa. Đặc biệt, ngày 12-lO-1980 đồng chí Phạm Văn Đồng về Hải Phòng thăm huyện Đồ Sơn. Tôi, đồng chí Đài, Chủ tịch huyện, đồng chí Thu, Trưởng phòng nông nghiệp huyện báo cáo với Thủ tướng những việc nông thôn ngoại thành đang làm, chăm sóc lúa mùa và làm vụ đông. Thủ tướng hoan nghênh nông thôn Hải Phòng đang đổi mới. Thủ tướng bác bỏ mọi lời buộc tội Hải Phòng đang phá hoại phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, đồng chí giải thích rất kỹ, cái mới bao giờ cũng dễ va vấp, người lội nước đi trước dễ sa hố, sa hầm, có sai thì sửa, không có sai mới lạThủ tướng căn dặn chúng tôi cố gắng làm ra nhiều lương thực, thựe phẩm, đây là thước đo hiệu quả của một cơ chế quản lý, càng làm ra nhiều lúa, nhiều lợn, càng đúng hướng, và được lòng dân. Khoán việc kéo dài bao nhiêu năm, các hợp tác xã thiếu ăn triền miên, còn tiếc rẻ, cố giữ làm gì nữa. Lời căn dặn của Thủ tướng đã củng cố lý lẽ eủa chúng tôi trong suốt mấy tháng qua luôn luôn phải đối phó với những lời gièm pha, truy chụp. Một số đồng chí về Hải Phòng phê phán chúng tôi chỉ ham lợi trước mắt, thấy khoán lúa năng suất, sản lượng cao hơn đã vội bỏ khoán việc. Làm theo khoán việc nhiều nơi còn thiếu ăn, thà tạm thời chịu đói còn hơn mất lập trường, bỏ khoán việc, bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Lý lẽ của chúng tôi là năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi tăng, dân no ấm, đóng góp cho tập thể và Nhà nước đầy đủ, như vậy là khoán lúa ưu thế áp đảo, hơn hẳn khoán việc Giữa tháng 10-1980,ở Hải Phòng có rất nhiều đoàn đi "chui" (những địa phương lãnh đạo cấm khoán lúa, nhưng hợp tác xã nông nghiệp ở đó đã lặng lẽ chuyển sang khoán lúa "chui" và cử cán bộ về Hải Phòng học tập kinh nghiệm khoán lúa, những cán bộ này khi đi phải rất kín đáo để lãnh đạo bên trên không biết, do vậy gọi là đi "chui". Có tỉnh tìm mọi cáeh ngăn chặn khoán lúa nhưng hầu như huyện nào trong tỉnh cũng có đoàn đi "chui” đến Hải Phòng, có huyện lãnh đạo đưa các Chủ nhiệm hoặc Bí thư Đảng uỷ xã về Hải Phòng tìm hiểu tại chỗ chuyển sang khoán lúa công tác quản lý khác với thời còn làm theo khoán việc như thế nào? Anh Mạnh kể lại, anh đã tranh thủ truyền đạt ý kiến của đồng chí Phạm Văn Đồng về khoán lúa và khoán việc cho nhiều đoàn đi “chui" biết, lúc này truyền miệng rất quan trọng vì báo chí chưa tuyên truyền cho khoán lúa. . Một số đoàn và cá nhân về Hải Phòng rất phấn chấn được biết đồng chí Phạm Văn Đồng đã về Hải Phòng và khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát khoán lúa ở Hải Phòng là hoàn toàn đúng. Đồng chí Phạm Văn Đồng theo dõi rất sát vụ lúa mùa đầu tiên làm theo khoán sản phẩm ở sáu huyện ngoại thành Hải Phòng. Hôm tiếp tôi, anh Mạnh đã nói: Mới hôm qua, đồng chí Phạm Văn Đồng gọi tôi đến báo cáo về triển vọng vụ lúa mùa. Đồng chí căn dặn nếu thu hoạch chỉ bằng hoặc kém thời khoán việc thì tiếp tục mở rộng khoán lúa sẽ rất khó khăn. Thủ tướng nhắc nhở thắng lợi của vụ mùa này ở hợp tác xã nông nghiệp Hải Phòng có tầm quan trọng hết sức đặc biệt với cục diện chung cả nước vì chỉ Hải Phòng mới có diện tích vụ mùa lớn nhất nước làm theo khoán lúa. Thắng lợi vụ mùa này sẽ là bằng chứng cụ thể để lãnh đạo yên tâm chuyển các hợp tác xã nông nghiệp trên cả nước sang khoán lúa. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời ngày 13-1-1981, công nhận khoán lúa, khoán chui hợp pháp, khoán việc không còn độc quyền. Thắng lợi của khoán lúa mới chỉ là bước đầu, cuộc đấu tranh giữa hai hình thức khoán vẫn gay gắt, trước hết bắt nguồn từ cách đánh giá khoán lúa của lãnh đạo còn những điểm khác nhau. Có đồng chí tán thành khoán lúa nhưng chủ trương chỉ khoán đến nhóm vì e ngại khoán đến người lao động tức là từng gia đình làm dễ biến tướng thành khoán hộ như Vĩnh Phú thì rất nguy hiểm. Khoán đến nhóm, nông dân không muốn làm, lại "cha chung không ai khóc", khoán đến nhóm là một thứ khoán việe trá hình.Có đồng chí vẫn rất phân vân, tính toán, đúng là khoán việc đầy rẫy tiêu cực, nông dân không chịu nổi nhưng chuyển sang khoán sản phẩm có phải "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa". Khoán lúa đã được công nhận hợp pháp nhưng nông dân vẫn hồi hộp, chờ đợi chưa rõ số phận của khoán lúa như thế nào? Cuối tháng 8-1981, Chính phủ đã triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Hà Nam Ninh sơ kết tám tháng thực hiện khoán sản phẩm sau khi có Chỉ thị 100. Tại Hội nghị, đồng chí Võ Chí Công, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng phụ trách nông nghiệp và là Trưởng Ban cải tạo nông nghiệp đã trình bày một báo cáo quan trọng eủa Chính phủ, đầu đề: Mở rộng mạnh mẽ khoán sản phẩm trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệpTừ thực tế sản xuất ở cơ sở, bản báo cáo đưa ra những bằng chứng cụ thể để chứng minh khoán sản phẩm là một bước tiến, một hình thức khoán tiến bộ phù hợp với quy luật kinh tế khách quan trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với nguyện vọng của nông dân.Thế giới đều khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động, công nghiệp và nông nghiệp đều khoán. Khoán sản phẩm chỉ mới với ta thôi, với thế giới là cũ rồi. Chỉ có nơi nào khoán sản phẩm mới thấy những xã viên chọn từng hạt thóc giống, không để hạt thóc xấu hoặc khác giống lẫn vào, bó mạ ra bó mạ, bờ ra bờ, các tập quán canh tác đều được phục hồi. Sức mạnh của cá nhân được phát huy triệt để kết hợp với sức mạnh tập thể. Về khoán đến nhóm hay đến người lao động, đồng chí Võ Chí Công nhắc lại tinh thần Chỉ thị 100 là "tuỳ ý muốn của xã viên, mọi cán bộ, đảng viên không được can thiệp". Bản báo cáo nêu một số hợp tác xã nông nghiệp, có địa chỉ cụ thể ở miền Bắc và miền Trung đã khoán lúa nhưng chỉ khoán đến nhóm và một số hợp tác xã khoán đến người lao động, có kết quả thu hoạch vụ đông xuân 1981, nơi khoán đến người lao động sản lượng gấp đôi có nơi gấp ba nơi khoán đến nhóm. Hợp tác xã Vũ Thắng, lá cờ đầu chuyển sang khoán lúa chỉ khoán đến nhóm, tăng hai tạ một hécta so với thời làm theo khoán việc, còn hợp tác xã tiên tiến Nguyên Xá (cũng ở Thái Bình) khoán đến người lao động tăng 3,3 tạ một hécta. Đồng chí Võ Chí Công báo tin vui với hội nghị, tới vụ mùa 1981 hầu như không còn nơi nào khoán đến nhóm. Khoán sản phẩm, khoán lúa là ngày hội của quần chúng. Ngày hội của hàng chục triệu hộ nông dân xã viên bước đầu được làm chủ, sợi dây trói quá chặt vì khoán việc đã được nới lỏng và chỉ mới như thế thôi đã thấy bắt đầu một cuộc đổi đời. Khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã mở đột phá khẩu vào thành trì quan liêu bao cấp. Nhắc tới vai trò lịch sử của khoán sản phẩm, khoán lúa đã mở đường cho công cuộc đổi mới tiến đến chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể không nhắc đến sự chỉ đạo kiên quyết, dứt khoát, có tính chất quyết định, dựa hẳn vào sáng kiến của quần chúng nông dân của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và người cộng sự đắc lực của ông, Phó Thủ tướng Võ Chí Công Trường ChinhSố là lúc ấy, sau khi cải tạo nhà đất, đại bộ phận nhà ở đều thuộc diện Nhà nước quản lý và phân phối cho mọi người thuê với giá rẻ. Hàng năm Nhà nước - phải sửa chữa, quét vôi cho người thuê nhà. Tính ra tiền thuê nhà không đủ tiền sửa chữa, Nhà nước bù lỗ rất lớn, mà việc tu sửa vẫn không kịp, dân chúng vẫn kêu ca. Ý nguyện của nhân dân và cán bộ mong muốn được Nhà nước giao hẳn căn hộ cho mình để tự tu sửa thì tốt hơn. Vậy có nên bán nhà cho cán bộ, công nhân viên để thu lại một số tiền đem xây tiếp nhà ở. Ngân sách Nhà nước cũng eo hẹp không có nhiều vốn để đầu tư xây nhà ở tiếp, mà phải dành vốn đầu tư cho sản xuất, cho các công trình lợi ích công cộng khác. Trường ChinhNhưng bán cho ai? Bán như thế nào? Thành phố quy định: Bán cho cán bộ, công nhân viên Nhà nước theo chế độ và danh sách do các cơ quan xem xét trước.Bán dài hạn, thu trước lần đầu, sau trả dần hàng năm, khoảng 10 - 15 năm thì thu đủ vốn xây dựngNhưng có ý kiến báo cáo lên Quốe hội không đồng ý. Cho là chủ nghĩa xã hội không có nhà riêng. Việc đến đồng chí Trường Chinh. Đồng chí cho là bán cho cán bộ và giá rẻ kéo dài thời gian là có thể được. Nhưng nên xem xét cho công bằng. Nhưng vì không khí chung lúc ấy, việc thi hành bán nhà phải tạm dừng. [ N. Văn Trân, nguyên Bí thư Thành uỷ Hà Nội, 280]Câu 3. Hãy cho biết nội dung phân tích diễn biến chính sách P. 173/160Phân tích kế hoạch triển khaiPhân tích các hoạt động triển khaiPopulation Policy Propaganda posters were widely employed in the 'one child'-campaign, which started in 1979 in an attempt to deal with the staggering increase of the population in the 1960s and 1970s and to curb the projected problematic growth in the future. This campaign went much further than the "late, spaced and few"-campaign that had been started in the early 1970s. Reflecting the traditional educational purposes of the posters, special materials were produced that paid attention to aspects of reproduction, sexuality and conception. The responsible departments for these educational materials could range from ministries to local population policy centers.Birth control is good, 1975Vĩnh Long: UBND xã chỉ làm việc buổi sáng21/01/2007, 04:43 (GMT+7) TT - Vĩnh Long UBND xã Hòa Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long chỉ làm việc vào buổi sáng, còn buổi chiều phòng tiếp dân, phòng chủ tịch, phó chủ tịch, công an... tất cả đều khóa cửa im lìm! Việc này tồn tại cả năm nay. UBND xã Hòa Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long Người dân xã than: chính quyền chỉ làm việc một buổi, báo hại người dân có việc ký giấy tờ, làm thủ tục gì gấp phải chạy vòng vòng tới nhà gặp từng cán bộ... năn nỉ ký, nếu không phải chờ hôm sau (!). Việc chứng giấy tờ (việc công) được thực hiện ở nhà riêng liệu có đúng?Ông Đinh Duy Phong, trưởng công an xã, xác nhận: “Xã chỉ làm việc buổi sáng, còn buổi chiều cán bộ bận xuống cơ sở vận động dân, kiểm tra các hoạt động phong trào”.  Tin, ảnh: MINH TÂMCâu nói khiến người nghe “lo lắng” nhất: Đó là câu nói của ông Võ Văn Thảo - cán bộ địa chính xã Đạ Đờn (Lâm Đồng). Khi có người dân chậm hiểu “luật... đầu tiên”, ông đã “phán quyết” một câu... xanh dờn rằng: “Mày mua đất mà không... biết điều, thì... 20 năm nữa mới cấp sổ đỏ cho mày!Câu nói nặng “đô” nhất: Là câu nói của ông Nguyễn Ngọc Chiến - chủ tịch UBND thị trấn Vĩnh An (Vĩnh Cửu, Đồng Nai). Trong một cuộc nhậu, ông đã “phán” với chiến hữu rằng: “Nếu mày cụng ly và uống hết 100% với tao, tao sẽ cấp cho mày 2 lô...”. Chỉ một ly rượu (bia) mà có giá đến... 2 lô... đất! Câu nói “ngang như cua” nhất: Không biết có phải do công việc đền bù quá... “căng thẳng” (?), mà ông chủ tịch UBND phường Quảng An (quận Tây Hồ, Hà Nội) - NGUYỄN DUY BÌNH đã “lỡ lời” với mọi người rằng: “Tao làm sai đấy, mày thích mà đi kiện?!”. Câu nói “sòng phẳng” nhất: Đó là câu nói được thốt ra từ một cán bộ xã Sơn Diệm (Hà Tĩnh), khi làm thủ tục chế độ chính sách cho thương binh, ông đã thẳng thừng: “Thời buổi này không ai làm không cho ai!Chính sách đối với nghề vận tải hành khách bằng xe mô tô, xe gắn máy 2 bánh vận tải hành khách bằng xe mô tô, xe gắn máy 2 bánh Xe ômXe thồXe lôi đạpXe lôi máyQuyết định số 2463/1998/QĐ-Uỷ ban nhân dân ngày 19/10/1998 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu V/v ban hành quy định tạm thời về tổ chức, quản lý và cấp giấy phép hành nghề vận tải hành khách bằng xe mô tô, xe gắn máy 2 bánh trên địa bàn tỉnh BRVTCăn cứ công văn số 3997/PCVT ngày 27/12/1997 của Bộ Giao thông VT V/V Quản lý vận tải hành khách bằng xe mô tô 2 bánh Phạm vi hoạt động: nội tỉnh, và các huyện liền kề không đựơc đến tỉnh thứ baMô hình tổ chức của phương tiện MTGM2B là tổ chức Liên đội VTKHBPTMTGM2B tự quản. Ban chỉ huy Liên đội do tập thể bầu, quyền lợi do tập thể tự điều tiết.Dưới Liên đội có Đội. Đội trưởng, đội phó.Dưới Đội có Tổ cho phù hợp địa bàn, bến đậu. Tổ trưởng, tổ phó.UBND phường, xã quản lý trực tiếp Liên đội. Cấp thẻ tênUBND huyện, thị ra Quyết định thành lập.UBND huyện chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép hành nghề (căn cứ Hộ khẩu thường trú).Sở GTVT biên soạn mẫu Giấy phép hành nghề, thẻ tên thống nhất toàn tỉnh.Phương tiện: phải được đăng kú.40 triệu Đ (miền Bắc và duyên hải miền Trung) ; >50 triệu Đ (khác)Phải đạt chỉ tiêu tối thiểu về quy mô các yếu tố sản xuất cơ bản đối với từng nhóm cây trồng, vật nuội (lượng hoá tương ứng từng vùng như trên). 2 Ha cây hàng năm/ 3 Ha Năm 2000: cả nước có 55.852 trang trại2001: 60.7582004: 86.141Các địa phương có tiêu chí riêngThí dụ: huyện Lục Ngạn 2003 có 178 TT theo tiêu chí chung và 446 TT theo tiêu chí riêng.tiêu chí bằng cấp, học vị, học hàm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pptcspt_2484.ppt
Tài liệu liên quan