Để biết được mức độ hữu hiệu của HHCC phụ thuộc vào phân phối thu nhập như
thế nào, hãy giả sử rằng chính phủ chuyển 1 đô la thu nhập của Crusoe cho Friday.
Việc chuyển đó sẽ làm cho đường cầu HHCC của Crusoe dịch xuống, và đường
cầu của Friday sẽ dịch lên. Nói chung, không lý do giải thích tại sao những thay
đổi này phải vuông góc một cách chính xác với nhau để mức tổng cầu thay đổi một
cách bình thường. Với cách phân phối thu nhập mới này, sẽ có mức HHCC hữu
hiệu mới. Nhưng hiệu quả vẫn có đặc điểm là tổng tỉ lệ thay thế cận biên bằng tỷ lẹ
chuyển đổi cận biên. Nói cách khác, mỗi điểm trên đường năng lực sử dụng có thể
được đặc trưng bởi HHCC khác nhau, nhưng tại mỗi điểm thì tổng tỉ lệ thay thế
cận biên bằng tỷ lệ chuyển đổi cận biên.
36 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế học - Chương 5: Hàng hóa công cộng và hàng hóa tư nhân do công cộng cung cấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo trình kinh tế học - Joseph E. Stiglitz
Chương 5: Hàng hóa công cộng và hàng hóa
tư nhân do công cộng cung cấp
Định nghĩa hàng hóa công cộng
Những hàng hóa không thể phân biệt theo khẩu phần
Hàng hóa công cộng thuần túy là có hai đặc tính quan trọng. Thứ nhất là nó
không thể phân bổ thoe khẩu phần để sử dụng. Thứ hai là người ta không sử
dụng nó theo khẩu phần.
Ví dụ rõ ràng nhất về hàng hóa không thể phân theo khẩu phần là quốc
phòng. Ví dụ, nếu quốc phòng của chúng ta đạt được mục đích của nó bằng
cách ngăn cản sự tấn công của Liên Xô, mọi cư dân của Hoa Kỳ đều được
hưởng, không có cách gì để loại trừ bất kể ai không được hưởng lợi ích của
các chương trình sức khỏe quốc gia, chẳng hạn tiêm chủng chống bại liệt.
Trong một số trường hợp có thể loại trừ ai đó song rất tốn kém. Ví dụ, sẽ rất
tốn kém nếu loại trừ các cá nhân ra khỏi việc sử dụng những công viên nhỏ
ở địa phương, để làm việc đó có thể làm mất cảnh quan của công viên và
phải có những người luôn luôn đứng trực để thu vé vào cổng.
Việc không thể thực hiện phân khẩu phần bằng hệ thống giá cả có nghĩa
rằng thị trường cạnh tranh không tạo ra lượng hàng hóa có hiệu quả Pareto.
Giả định rằng mọi người đều thấy quốc phòng là có giá trị, nhưng chính phủ
lại không cung cấp, thì liệu các hãng tư nhân có cung cấp được không? Để
làm việc đó, hãng tư nhân phải thu tiền cung cấp dịch vụ. Nhưng vì mỗi
người cho rằng mình sẽ được hưởng dịch vụ bất kể có đóng góp gì hay
không, nên anh ta sẽ không tự nguyện trả tiền cho dịch vụ đó. Chính vì thế,
mọi người cần phải hỗ trợ hàng hóa này thông qua nộp thuế. Việc cá nhân
do dự đóng góp tự nguyện vào HHCC gọi là vấn đề ăn không.
Hai ví dụ khác có thể giúp minh họa bản chất của vấn đề ăn không. Một
trong những phương pháp giảm lây bệnh truyền nhiễm là nhờ tiêm chủng.
Những người được tiêm chủng cũng chịu chi phí (như sự khó chịu, thời gian,
tiền bạc, hay có thể bị phản ứng vì vắc xin). Họ nhận được lợi ích là giảm
nguy cơ bị mắc bệnh, nhưng phần lợi lớn của HHCC là giảm khả năng mắc
bệnh cho cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, chi phí cá nhân lớn hơn lợi
ích cá nhân, nhưng lợi ích của xã hội, kể cả giảm đi khả năng mắc bệnh, lại
cao hơn chi phí rất nhiều. Vì vấn đề ăn không mà nhiều khi chính phủ yêu
cầu các cá nhân tiêm chủng.
Trong nhiều cộng đồng, các cơ quan chống hỏa hoạn hoạt động một cách tự
nguyện. Một số cá nhân trong cộng đồng từ chối đóng góp vào công việc
chống hỏa hoạn. Nhưng ở những nơi nhà ở sít nhau, cơ quan cứu hỏa đã
luôn phải dập cháy ở nhà của người không có đóng góp, vì sợ rằng hỏa hoạn
có thể lan sang nhà có đóng góp. Nhưng cũng có những trường hợp khi có
cháy ở nhà không có đóng góp nằm riêng biệt, cơ quan cứu hỏa đã không
cứu. Cơ quan này bị phê phán rất mạnh. Đây là ví dụ mà việc loại trừ có thể
thực hiện được, cơ quan cứu hỏa có thể không phục vụ cho những người
không có đóng góp vào công việc hỗ trợ. Cơ quan cứu hỏa cho rằng nếu
không phạt như vậy thì mọi người đều sẽ là những người ăn không.Tại sao
lại phải trả, nếu như họ có thể nhận được dịch vụ mà không mất gì? Để tránh
việc xảy ra hỏa hoạn mà cơ quan cứu hỏa không cứu chữa, cho nên hầu hết
các cộng đồng đều muốn cung cấp dịch vụ cho mọi người: nhưng để tránh
vấn đề ăn không thì đòi hỏi tất cả mọi người phải đóng góp qua thuế.
Trong một số trường hợp, tư nhân không có cung cấp HHCC, nhưng vì vấn
đề ăn không này nên việc cung cấp đó đã không thích hợp. Ở chương 3,
chúng tôi đã lưu ý một chủ tàu lớn có thể rằng ông ta đáng xây dựng trạm
ngay cả khi không cần thu lệ phí của những tàu khác nhau, nhưng cân nhắc
xem sẽ cung cấp bao nhiêu đèn thì ông ta chỉ nhìn vào lợi ích mà mình sẽ
nhận được, chứ không phải toàn bộ lợi ích mà mọi người nhận được.
Tương tự, người hàng xóm đối diện với tôi có thể được hưởng ngắm nhìn
vườn hoa tôi trồng như tôi, và ngược lại. Hoa là HHCC; nhưng tôi vẫn trồng
hoa (ngay cả khi hàng xóm không đóng góp gì), bởi vì những thú vị mà tôi
nhận được. Tất nhiên, sẽ có sự thiếu hoa cung cấp. Khi tôi quyết định bỏ ra
bao công sức để làm vườn của mình, tôi sẽ phải cân nhắc giữa thú vị mà tôi
sẽ được hưởng với chi phí mà tôi phải bỏ ra, chứ không tính đến thú vị mà
tôi sẽ được hưởng với chi phí mà tôi bỏ ra, chứ không tính đến thú vị mà
hàng xóm của tôi được hưởng.
Hầu hết hàng hóa được cung cấp trong phạm vi gia đình thường được thực
hiện tương tự như cung cấp HHCC trong xã hội: nhiều người thường không
phải trả gì khi nhận đồ ăn ở nhà như khi mua ở ngoài nhà hàng, cũng như
không nhận được gì khi thực hiện công việc nhà. Việc loại trừ rất tốn kém,
nếu không phải là không thể, giống như HHCC vậy. Chi phí quản lý hệ
thống giá trong gia đình là không thể thực hiện – hãy tưởng tượng rằng bắt
các thành viên trong gia đình trả tiền cho mỗi miếng thức ăn hay mỗi khi sử
dụng phòng ở. Do đó, các gia đình thường gặp phải vấn đề người ăn không
giống như là xã hội gặp phải. Nhưng trong khi các biện pháp trừng phạt của
xã hội (cũng giống như lời quở trách của cha mẹ) đã nhẹ tay đối với vấn đề
ăn không trong phạm vi gia đình, thì sự ép buộc ngầm lại thường được dùng
cả ở cấp địa phương và cấp quốc gia.
Những hàng hóa không muốn phân biệt theo khẩu phần
Đặc điểm thứ hai của HHCC là không muốn loại trừ một ai: tiêu dùng của
một cá nhân không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác, chi phí cận
biên của việc cung cấp hàng hóa cho thêm một người bằng 0. Nếu chính phủ
thành lập một cơ quan quân sự để chống sự tấn công và bảo vệ tất cả chúng
ta, thì chi phí quốc phòng cơ bản không bị tác động khi có thêm một đứa trẻ
sinh ra hay một cá nhân nào nhập cư vào Hoa Kỳ. Điều này khác hoàn toàn
với hàng hóa tư nhân. Nếu tôi đang ngồi ở trên ghế, tôi đã tước đoạt khả
năng của những người khác ngồi lên chiếc ghế đó. Nếu tôi ăn một que kem
thì bạn không thể nào ăn được que kem đó nữa. Điều quan trọng là phải
phân biệt được chi phí cận biên của việc sản xuất hàng hóa. Việc xây dựng
thêm nhiều đèn biển sẽ tốn kém hơn, nhưng sẽ không tốn kém hơn nếu có
thêm một chiếc tàu sử dụng đèn biển đó.
Hàng hóa công cộng không thuần túy
Phi hiệu quả do tư nhân cung cấp HHCC
Như chúng ta đã nhận thấy, có thể có nhiều hàng hóa mà chi phí cận biên của việc
thêm người sử dụng là bằng 0 hoặc gần bằng 0. Những hàng hóa này tư nhân có
thể cung cấp được. Lý do để nhà nước cung cấp là vì nhà nước cung cấp những
hàng hóa đó thì sẽ có hiệu quả hơn.Khi có thêm một người sử dụng hàng hóa mà
chi phí cận biên không tăng lên thì như chúng ta đã trình bày, hàng hóa đó không
cần phân bổ theo khẩu phần. Nhưng nếu hàng hóa đó lại do một hang tư nhân cung
cấp, thì hang đó phải thu tiền sử dụng. Và việc phải trả tiền đó làm cho người ta ít
sử dụng hàng hóa này. Do đó, nếu hàng hóa công cộng do tư nhân cung cấp thì sẽ
nảy sinh tình trạng hàng hóa đó ở dưới mức sử dụng.
Điều đó được thể hiện ở hình 5.3, trong ví dụ về cây cầu. Chúng tôi đã vẽ
đường cầu của cây cầu, miêu tả lượng đi lại theo hàm số của số tiền thu thuế
qua cầu. Nếu hạ mức thuế sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng cầu. Công suất của
cầu là Qc; đối với mọi mức cầu dưới Qc sẽ không có tắc nghẽn giao thông
và không có chi phí cận biên liên quan tới việc sử dụng cầu. Do chi phí cận
biên của việc sử dụng là bằng 0, nên hiệu quả đòi hỏi là giá sử dụng phải
bằng 0. Nhưng rõ ràng là do đó tiền thu thuế sử dụng cầu cũng sẽ bằng 0.
Hình 5.3: Cây cầu là hàng hóa có thể loại trừ nhưng không nhất thiết phải
loại trừ người sử dụng
Tuy nhiên, sự loại trừ có thể được thực hiện: một hãng tư nhân có thể xây
dựng cây cầu và thu lệ phí nếu muốn. Cụ thể là hãng có thể thu lệ phí nếu
muốn. Cụ thể là hãng có thể thu lệ phí cao hơn mức đủ để trang trải chi phí
xây dựng cầu. Nhưng chừng nào hãng thu lệ phí thì việc sử dụng sẽ giảm đi,
và một số chuyến đi lại mà lợi ích của nó lớn hơn chi phí xã hôi sẽ không
được thực hiện. Chúng ta có thể đo được khoản mất mát phúc lợi bằng tam
giác gạch chéo ở hình 5.3. Phần này gọi là sự mất trắng. Để thấy rõ điểm
này, chúng ta hãy nhớ lại những điểm của đường cầu đo mức cận biện của
cá nhân sẵn sàng trả tiền cho thêm một lượt qua cầu ở mức số lượng sử dụng
khác nhau. Giả sử giá p là lệ phí sử dụng cầu. Số lượng đi lại xảy ra sẽ là Qe.
Tại Qe mức cận biên của cá nhân sẵn sàng trả tiền cho thêm một lượt qua
cầu sẽ đúng bằng p. Chi phí cho việc đi lại thêm bằng 0. Phúc lợi mất mát do
không có sự đi lại bằng chênh lệch giữa các khoản cá nhân sẵn sàng trả (lợi
ích cận biên của cá nhân) so với chi phí cận biên; do đó, phúc lợi mất mát sẽ
đúng bằng p. Với mức sử dụng cao hơn một chút, khoản mất vẫn là mức cận
biên sẵn sàng trả tiền, nhưng bây giờ thì nhỏ hơn. Để tìm được tổng phúc lợi
bị mất liên quan đến mỗi chuyến đi lại không xảy ra do có thu lệ phí. Tại
mức thu lệ phí bằng 0, có Qm lượt đi. Tại mức lệ phí bằng p, có Qc lượt đi.
Do vậy, việc thu lệ phí đã làm cho có (Qm – Qc) lượt đi không xảy ra. Sự
mất mát phúc lợi do không có lượt đi cuối cùng là 0 (sự sẵn sàng trả tiền cho
thêm một lượt đi tại Qm là 0). Như vậy, mức trung bình mất mát phúc lợi do
mỗi lượt đi là p/2; và tổng mát mát phúc lợi là p(Qm – Qc)/2, đó là diện tích
tam giác gạch chéo trong hình 5.3.
Lập luận này cho thấy rằng, hàng hóa mà chi phí cận biên của việc cung cấp
bằng 0 thì có thể được cung cấp không phải trả tiền, bất kể hàng hóa đó bị
đánh thuế hay không. Đôi khi cũng có chi phí cận biên nhỏ của việc sử dụng
HHCC, trong trường hợp đó cá nhân chỉ phải nộp bằng chi phí cận biên. Lệ
phí của người sử dụng sẽ không đủ để trang trải tổng chi phí cận biên. Lệ phí
của người sử dụng sẽ không đủ để trang trải tổng chi phí của HHCC. Khoản
thu cần thiết để trang trải chi phí HHCC phải tìm kiếm từ nguồn khác. Mặc
dầu hầu hết thuế được sử dụng để huy động các nguồn thu cũng gây ra
những chi phí khá lớn, lý do để nhà nước cung cấp hàng hóa có thể thu lệ
phí sử dụng chúng là: chi phí liên quan đến thu lệ phí sử dụng HHCC – sự
mất mát phúc lợi do giảm tiêu dung – còn lớn hơn chi phí liên quan đến việc
huy động thu nhập bằng cách khác, như đánh thuế thu nhập chẳng hạn.
Những hàng hóa có thể loại trừ nhưng tốn kém
Tất nhiên, có những chi phí liên quan đến việc loại trừ đối với HHTN cũng như
đối với HHCC; có nghĩa là có những chi phí liên quan đến việc điều hành hệ thống
giá cả. Ví dụ, nhân viên kiểm tra tại các cửa hàng rau quả, những người thu lệ phí
trên đường cao tốc và cầu là một phần của những chi phí hành chính liên quan đến
điều hành cơ chế giá. Nhưng nếu chi phí của việc loại trừ là khá nhỏ đối với hầu
hết HHTN, thì lại có thể là khá hơn đối với một số hàng hóa do công cộng cung
cấp.
Ngay cả khi có chi phsi cận biên liên quan đến việc sử dụng hàng hóa của mỗi cá
nhân, nếu chi phí điều hành hệ thống giá là rất cao, thì có thể sẽ có hiệu quả hơn
chỉ bằng cách đơn giản là nhà nước cung cấp hàng hóa và trang trải hàng hóa thông
qua các nguồn thu thuế chung.
Hình 5.4: Chi phí giao dịch
Chúng tôi biểu thị điều này trong hình 5.4. Trong hình này chúng tôi thể hiện một
hàng hóa có chi phí sản xuất cận biên cố định là c. (Hãng phải mất c đô la để sản
xuất ra một đơn vị hàng hóa). Tuy nhiên, để bán hàng hóa đã nảy sinh chi phí giao
dịch. Chi phí giao dịch bao gồm tất cả những chi phí cần thiết để hoàn thành một
giao dịch kinh tế, chẳng hạn như chi phí cho nhân viên đứng kiểm tra ở cửa hàng
và người bán hàng. Chi phí giao dịch làm tăng giá lên p*. Bây giờ giả sử chính phủ
cung cấp hàng hóa không phải trả tiền.Việc làm này sẽ loại trừ chi phí giao dịch,
và toàn bộ phần ABCD sẽ tiết kiệm được. Sẽ còn có khoản lợi khác khi tiêu dùng
tăng lên từ Qe lên Qo, vì những giá trị cận biên của các cá nhân cao hơn chi phí
sản xuất cận biên. Phần gạch chéo ABE là khoản lợi này. Mặt khác, nếu các cá
nhân sử dụng hàng hóa cho đến khi giá trị cận biên bằng 0, thì khi mở rộng tiêu
dùng từ Qo đến Qm, mức cận biên sẵn sàng trả tiền sẽ nhỏ hơn chi phí sản xuất.
Điều này rõ ràng là không có hiệu quả. Để quyết định xem nhà nước có nên cung
cấp hàng hóa hay không, chúng ta phải so sánh khoản tiết kiệm chi phí giao dịch
và cộng với khoản lợi do tăng tiêu dùng từ Qe len Qo với : (1) mất mát do tiêu
dùng quá nhiều hàng hóa (phần gạch chéo EFQm trong hình 5.4) cộng với sự mất
mát do những méo mó về thuế được sử dụng để có thu nhập cần thiết trang trải cho
việc cung cấp hàng hóa.
Việc cung cấp bảo hiểm chi phí cao của tư nhân là một trong những lý do để nhà
nước cung cấp bảo hiểm. Đối với nhiều loại bảo hiểm, chi phí hành chính (kể cả
chi phí bán hàng) liên quan đến cung cấp bảo hiểm của tư nhân là khoảng trên 20%
lợi ích đã phân phát, ngược lại với chi phí hành chính liên quan đến bảo hiểm công
cộng và khoản này (bỏ qua những méo mó về các thứ thuế dùng để trang trải cho
các chương trình bảo hiểm xã hội) thường là dưới 10% giá trị lợi ích.
Hàng hóa tư nhân do công cộng cung cấp
Những phương pháp chia khẩu phần HHTN do công cộng cung cấp: cung
cấp thống nhất
Có thể đây là một phương pháp kiểm soát tiêu dùng hàng hóa tư nhân do
công cộng cung cấp sẽ được vận dụng. Bất kỳ phương pháp nào han chế tiêu
dùng hàng hóa đều được gọi là hệ thống chia khẩu phần. Giá cả là một hệ
thống chia khẩu phần. Chúng ta đã bàn về việc lệ phí sử dụng hàng hóa có
thể được áp dụng như thế nào để hạn chế nhu cầu. Một cách thông dụng
khác về khía cạnh khẩu phần hàng hóa do công cộng cung cấp là cung cấp
một lượng hàng hóa như nhau cho tất cả mọi người. Điển hình là chúng ta
đảm bảo trình độ giáo dục phổ thông cho tất cả mọi người, mặc dù một số
người muốn học thêm nữa, số khác lại muốn học ít hơn. Những người muốn
mua nhiều hơn có thể mua các dịch vụ giáo dục bổ sung trên thị trường tư
nhân, như học có thầy riêng. Đây là một bất lợi lớn của việc công cộng cung
cấp hàng hóa tư nhân; việc đó không cho phép thích ứng với mức độ khác
biệt về nhu cầu và mong muốn của cá nhân như các thị trường tư nhân.
Điều này được minh họa trong hình 5.6, trong đó chúng tôi đã vẽ đường cầu
của hai người khác nhau. Nếu hàng hóa do tư nhân cung cấp, cá nhân 1 là
người có nhu cầu cao sẽ sử dụng Q1, trong khi cá nhân 2 có nhu cầu cho mỗi
người một lượng trong khoảng giữa là Q*. Tại mức tiêu dùng này người có
nhu cầu cao sẽ sử dụng ít hơn mức mong muốn; mức cận biên sẵn sàng trả
tiền của anh ta thấp hơn chi phí cận biên (nhưng vì anh ta không phải trả gì
để có được thứ đó, và cònđánh giá , hàng hóa đó là tốt, tất nhiên anh ta sẽ sử
dụng đến mức Q*).
Hình 5.6: Những méo mó liên quan đến việc cung cấp thống nhất
Đối với một số bảo hiểm nhất định, chẳng hạn như bảo hiểm xã hội đối với
hưu trí, chính phủ cung cấp một mức tối thiểu thống nhất. Một lần nữa,
những người nào muốn mua nhiều hơn vẫn có thể mua, nhưng những người
muốn mua ít hơn lại không thể mua. Tuy nhiên, sự méo mó ở đây có thể
không lớn lắm, nếu như mức cung cấp thống nhất khá thấp thì sẽ có ít người
tiêu dùng hơn mức họ mong muốn, và phần tiết kiệm chi phí hành chính mà
chúng tôi đã đề cập đến trước đây có thể lớn hơn phần bù đắp đối với méo
mó nhỏ liên quan đến cung cấp mức bảo hiểm tối thiểu thống nhất. Mặt
khác, hệ thống kết hợp công và tư trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ
có thể làm tăng đáng kể tổng chi phí giao dịch (hành chính) lên trên mức
đáng lẽ chúng ta phải có, nếu như chỉ khu vực công hoặc khu vực tư chịu
trách nhiệm về cung cấp.
* Những hàng hóa do công cộng cung cấp mà có chi phí cận biên lớn liên
quan đến việc cung cấp cho thêm nhiều người, gọi là HHTN do công cộng
cung cấp.
Xếp hàng là phương pháp chia khẩu phần
Phương pháp thứ hai để chia khẩu phần được chính phủ sử dụng rộng là xếp hàng:
đúng ra là các cá nhân trả tiền cho việc nhận hàng hóa hoặc dịch vụ do công cộng
cung cấp, chính phủ lại đòi hỏi họ trả một khoản chi phí bằng thời gian chờ đợi.
Điều đó cho phép một sự thích ứng nào đó của mức cung cấp đối với nhu cầu của
cá nhân. Những người có nhu cầu cao hơn về mặt dịch vụ y tế sẽ sẵn sàng xếp
hàng ở phòng khám của bác sĩ. Ở đây tiền không phải là cơ sở mong muốn đối với
việc phân chia khẩu phần dịch vụ y tế: Tại sao người giàu lại có quyền lớn hơn để
có sức khỏe tốt so với người nghèo? Người ta lập luận rằng xếp hàng có thể là biện
pháp hữu hiệu để phân biệt đối xử giữa người thực sự cần (những người sẵn sàng
xếp hàng) và những người ít cần dịch vụ y tế hơn. Nhưng xếp hàng chưa phải là
biện pháp hoàn chỉnh để xác định ai là người xứng đáng được hưởng dịch vụ y tế,
bởi vì những người không có việc làm và những người về hưu, mặc dù không cần
dịch vụ y tế lắm, vẫn sẽ sẵn sàng xếp hàng hơn là một ủy viên quản trị công ty
đang bận bịu, hoặc một số người lương thấp bắt buộc phải làm tới hai công việc.
Trên thực tế chúng ta thay thế sự sẵn sàng trả tiền như là tiêu chuẩn phân phối dịch
vụ y tế bằng sự sẵn sàng đợi ở phòng khám của bác sỹ. Ngoài ra, có chi phí xã hội
thực khi sử dụng xếp hàng làm phương tiện chia khẩu phần, đó là mất thời gian
xếp hàng; đây là sự phí phạm có thể tránh được nếu sử dụng giá làm phương tiện
chia khẩu phần.
Thay đổi cân bằng giữa cung cấp công cộng và cung cấp tư nhân
Nhiều hàng hóa do công cộng cung cấp có thể hoặc do công cộng hoặc di tư nhân
cung cấp. Thường thường những hàng hóa này do của công cộng và tư nhân cung
cấp. Việc cân bằng giữa cung cấp của công cộng và tư nhân ở các nước rất khác
nhau và thường thay đổi qua thời gian. Việc thay đổi cân bằng giữa cung cấp
HHCC và tư nhân một phần có liên quan đến thay đổi công nghệ. Sự phát triển cáp
truyền hình đã làm cho việc buộc phải trả tiền sử dụng máy thu hình được dễ dàng
hơn. Máy vi tính làm giảm chi phí hành chính của hệ thống thu. Ví dụ hiện nay có
thể thu lệ phí sử dụng đường cao tốc nhanh hơn vào giờ cao điểm. Mỗi xe hơi hay
mỗi góc đường đều có thể lắp phương tiện điện tử để đo việc sử dụng đường của
mỗi cá nhân trong giờ cao điểm, cũng như sử dụng điện thoại hiện nay. Hệ thống
này đã được áp dụng trên cơ sở thử nghiệm ở Hồng Kông năm 1985.
Thay đổi cân bằng cũng liên quan tới sự thay đổi mức sống (thu nhập đầu người).
Đu quay trẻ em được cung cấp ở công viên, ngoài ra còn có đu quay do tư nhân
mua trang bị trong vườn của họ. Lợi thế của việc cung cấp dịch vụ công cộng là sự
sử dụng phần lớn trong ngày. Lợi thế của cung cấp tư nhân là tiết kiệm được chi
phí di chuyển. Nếu chi phí di chuyển (kể cả giá trị thời gian đi ra công viên) làm
tăng tương đối chi phí của chiếc đu, người ta có thể nghĩ được việc cung cấp tư
nhân.
Albert Hirschman, thuốc Viện nghiên cứu nâng cao của Princeton, đã gợi ý rằng
những kiểu thay đổi này là hậu quả của thay đổi thị hiếu. Ông lập luận rằng có
những dao động theo chu kỳ trong cân bằng giữa sự tiêu dùng công cộng và tư
nhân. Khi các cá nhân thấy không hài lòng đới với cái mà họ nhận được trong đời
sống riêng tư, họ sẽ chuyển sự chú ý sang dịch vụ công cộng và hàng hóa công
cộng. Nhưng những dự đoán của họ về sự thỏa mãn mà họ sẽ nhận đượctrong khu
vực công cộng cũng không hoàn hảo, do đó khi không hài lòng họ lại quay sang thị
trường tư nhân.
Những điều kiện về hiệu quả đối với HHCC
Đường cầu hàng hóa công cộng
Trong chương 3, chúng ta đã miêu tả cân bằng thị trường của một hàng hóa
tư nhân (kem) là điểm cắt của đường cầu và đường cung. Chúng ta đã chỉ ra
rằng tại điểm này, lợi ích cận biên của việc sản xuất thêm một đơn vị bằng
chi phí cận biên. Chính vì thế mà cân bằng của thị trường là có hiệu quả
Pareto.
Chúng ta có thể sử dụng một cơ chế tương tự để miêu tả mức hiệu quả sản
xuất HHCC. Chúng ta có thể vẽ đường cầu của mỗi cá nhân đối với HHCC
theo cách tương tự như đã vẽ đường cầu HHTN của họ.
Các cá nhân không mua HHCC. Tuy nhiên, chúng ta có thể hỏi xem họ có
thể cần bao nhiêu nếu như họ phải trả tiền bao nhiêu đó cho mỗi đơn vị
HHCC mà họ có thể dùng thêm. Đây không phải là một câu hỏi hoàn toàn
mang tính giả định, vì khi chi tiêu vào HHCC tăng lên thì thuế của cá nhân
cũng tăng lên. Chúng tôi gọi khoản trả thêm này của cá nhân trong mỗi đơn
vị HHCC thêm là giá thuế của anh ta. Trong phần thảo luận tới, chúng ta sẽ
giả định là chính phủ quyết định đánh thuế các cá nhân khác nhau với những
mức giá thuế khác nhau.
Giả định rằng giá thuế của một cá nhân là p, tức là, đối với mỗi đơn vị
HHCC cá nhân đó phải trả p. Do đó tổng số mà cá nhân đó có thể chi tiêu
(hạn chế ngân sách của anh ta) là:
C + pG = Y
Trong đó C là tiêu dùng HHTN của anh ta; G là tổng lượng HHCC được
cung cấp; và Y là thu nhập của anh ta.
Hạn chế ngân sách chỉ ra những kết hợp hàng hóa (mà ở đây là HHCC và
HHTN) mà cá nhân có thể mua với mức thu nhập và mức giá thuế đã định.
Chúng tôi trình bày hạn chế ngân sách ở Hình 5.7A bằng đường BB. Dọc
theo đường giói hạn ngân sách, nếu chi tiêu của chính phủ thấp hơn, tiêu
dùng HHTN rõ ràng sẽ cao hơn. Cá nhân muốn có được mức hữu dụng cao
nhất, phù hợp với giới hạn ngân sách của anh ta. Trong độ hữu dụng cao
nhất, phù hợp với giói hạn ngân sách của anh ta. Trong hình 5.7 A, chúng tôi
đã vẽ những đường bàng quan của cá nhân giữa HHCC và HHTN. Cá nhân
sẵn sàng bỏ một số HHTN nếu nhận được thêm HHCC. Lượng HHTN mà
cá nhân sẵn sàng bỏ để nhận một đơn vị HHCC (và nhận HHTN ít hơn) nên
lượng HHTN mà anh ta sẵn sàng bỏ đi để có thêm một đơn vị HHCC và trở
nên nhỏ hơn, tức là cá nhân có tỷ lệ thay thế cận biên giảm dần. Trên biểu
đồ, tỷ lệ thay thế cận biên là độ dốc của đường bàng quan. Do đó, vì cá nhân
sử dụng nhiều HHCC hơn và ít HHTN hơn, nên đường bàng quan trở nên
phẳng hơn .
Hình 5.7 A
Hình 5.7 B
Hình 5.7: Đường cầu HHCC
Độ hữu dụng cao nhất của cá nhân là ở điểm tiếp tuyến giữa đường bàng
quan và đường giới hạn ngận sách,điểm E trong phần A. Tại điểm này, độ
dốc của đường giới hạn ngân sách và độ dốc của đường bàng quan là như
nhau. Độ dốc của đường giới hạn ngân sách cho chúng ta thấy cá nhân phải
bỏ bao nhiêu HHTN để nhận thêm một đơn vị HHCC, lượng đó bằng giá
thuế của cá nhân. Độ dốc của đường bàng quan cho chúng ta thấy cá nhân
sẵn sàng bỏ bao nhiêu HHTN để nhận thêm một đơn vị HHCC. Do đó, tại
điểm mà cá nhân ưa thích nhất, lượng HHTN mà cá nhân sẵn sàng bỏ để
nhận thêm một đơn vị HHCC. Khi chúng ta giảm giá thuế, đường giới hạn
ngân sách chuyển dịch từ BB sang BB’, và điểm ưa thích nhất của cá nhân
chuyển sang E’. Mức cầu của cá nhân về HHCC sẽ tăng rất nhiều.
Bằng cách tăng hoặc giảm giá thuế, chúng ta có thể vẽ đường cầu HHCC theo
cách tương tự như vẽ đường cầu HHTN. Trong hình 5.7B, chúng ta đã vẽ
đường cầu tương tự như vẽ đường cầu tương ứng trong phần A. Các điểm E và
E’ trong phần A cho thấy lượng cầu HHCC ở mức giá thuế P1 và P2. Chúng ta
có thể vẽ thêm nhiều điểm nữa cho B bằng cách chuyển đường giói hạn ngân
sách ra xa hơn trong phần A.
Chúng ta có thể sử dụng cách này để vẽ các đường cầu HHCC của Crusoe
và Friday. Sau đó, chúng ta có thể cộng chúng lại theo chiều dọc để có
đường cầu trong hình 5.8. Cộng theo chiều dọc là hợp lý, bởi vì HHCC
thuần túy cần cung cấp cho các cá nhân với cùng một lượng như nhau. Chia
theo khẩu phần là không thể thực hiện đượcvà cũng là không mong muốn,
bởi vì sử dụng HHCC của một cá nhân không làm giảm đi sự hưởng thu của
bất cứ người nào.
Hình 5.8: Tổng cầu HHCC
Đường cầu có thể coi như “đường sẵn sàng trả tiền cận biên”. Tức là, tại mỗi
mức sản lượng HHCC, đường đó đều cho biết cá nhân sẽ sẵng sàng trả bao
nhiêu để có thêm một đơn vị HHCC (giá thuế HHCC mà cá nhân phải trả là
bằng tỉ lệ thay thế cận biên của cá nhân đó, mà tỷ lệ đó đơn giản là sẽ cho
biết cá nhân sẵn sàng từ bỏ bao nhiêu hàng hóa tư nhân để có thêm một đơn
vị HHCC). Do đó, tổng số theo chiều dọc của các đường cầu là bằng đúng
tổng của sự sẵn sàng trả tiền cận biên của cá nhân, tức là tổng lượng mà tất
cả các cá nhân sẵn sàng trả để có thêm một đơn vị HHCC. Tương tự, bởi vì
mỗi điểm trên đường cầu của một cá nhân là tỷ lệ thay thế cận biên của anh
ta tại mức chi tiêu của chính phủ, nên bằng cách cộng các đường cầu theo
chiều dọc . chúng ta có thể có được tổng các tỷ lệ thay thế cận biên. Kết quả
đó là tổng cầu trong hình 5.8.
Chúng ta có thể vẽ đường cung cũng giống như đối với HHTN, đối với mỗi
mức sản lượng, giá trị biểu thị lượng những hàng hóa khác phải bỏ để sản
xuất thêm một đơn vị HHCC, đây chính là chi phí cận biên, hoặc tỉ lệ
chuyển đổi cận biên. Tại mức sản lượng mà tổng cầu bằng cung (hình 5.9),
tổng số sẵn sàng trả tiền cận biên (tổng tỉ lệ thay thế cận biên) bằng đúng chi
phí cận biên hoặc tỉ lệ chuyển đổi cận biên. Bởi vì tại điểm này, lợi ích cận
biên do sản xuất thêm một đơn vị HHCC bằng chi phí cận biên, cho nên
mức sản lượng được miêu tả bằng điểm cắt nhau của đường tổng cung và
đường tổng cầu HHCC là có hiệu quả Pareto.
Mặc dù chúng ta đã xây dựng được đường cầu HHCC của cá nhân một cách
giống như cách xây dựng đường cầu HHTN của cá nhân đó, vẫn có một số
điểm khác nhau quan trọng giữa hai loại đường đó. Cụ thể là, trong khi cân
bằng thị trường xảy ra tại điểm giao nhau của đường cung và cầu, thì chúng ta
lại không đưa ra một lời giải thích nào về lý do tại sao cung cân bằng HHCC
phải xảy ra tại điểm giao nhau của đường cầu mà chúng ta đã vẽ, với đường
cung. Chúng ta mới chỉ xác minh được rằng nếu nó xảy ra thì mức sản lượng
HHCC sẽ có hiệu quả Pareto. Đã có những quyết định về mức sản lượng HHCC
do công cộng sản xuất ra, so chính phủ làm ra, và không phải do tư nhân sản
xuất, từ đó, sản lượng có xảy ra ở điểm này hay không còn phụ thuộc vào bản
chất của quá trình chính trị. Đây là chủ đề chúng ta sẽ nói nhiều ở chương sau.
Hình 5.9: Sản xuất có hiệu quả HHCC
Hơn nữa, trong khi thị trường cạnh tranh về HHCC, tất cả mọi cá nhân đều
phải chịu giá như nhau nhưng tiêu dùng những lượng khác nhau (phản ánh
những điểm khác nhau về thị hiếu), thì HHCC phải được cung cấp với lượng
như nhau cho các cá nhân được hưởng, và chúng ta đã đặt giả thiết rằng
chính phủ có thể định giá thuế khác nhau đối với HHCC. Một cách tư duy về
giá này là giả định đã có thông báo trước về phần chi tiêu công cộng mà
người đó phải gánh chịu. Nếu một cá nhân phải gánh chịu 1% chi phí công
cộng thì khoản chi của chính phủ 1 đô la sẽ làm cá nhân tốn 1 xu, trong khi
đó nếu cá nhân phải chịu 3% chi tiêu công cộng thì mỗi đô la tăng chi tiêu
công cộng sẽ làm cá nhân phải chịu 3 xu.
Cuối cùng là, chúng ta phải nhấn mạnh rằng chúng ta đã đặc trưng mức hiệu
quả Pareto của chi tiêu vào HHCC tương đương với phân phối thu nhập.
Như chúng ta sẽ thấy trong phần sau, mức hiệu quả chi tiêu vào HHCC nói
chung sẽ phụ thuộc vào phân phối thu nhập.
Hiệu quả Pareto và phân phối thu nhập
Hãy nhớ lại phần thảo luận của chúng ta ở Chương 3 và Chương 4, có nhiều cách
phân phối nguồn lực có hiệu quả Pareto. Mỗi điểm trên biểu đồ năng lực sử dụng
đều có hiệu quả Pareto. Cân bằng thị trường khi không có thất bại thị trường tương
ứng với một trong những điểm đó. Cũng bằng cách tương tự như vậy, không có
phương án cung HHCC duy nhất tối ưu Pareto. Điểm giao nhau của đường cung và
đường cầu trong hình 5.9 là một trong những mức cung có hiệu quả Pareto, nhưng
cũng có những phương án khác nữa với nhiều ý nghĩa mang tính phân phối khác
nhau.
Hình 5.9: Sản xuất có hiệu quả HHCC
Để biết được mức độ hữu hiệu của HHCC phụ thuộc vào phân phối thu nhập như
thế nào, hãy giả sử rằng chính phủ chuyển 1 đô la thu nhập của Crusoe cho Friday.
Việc chuyển đó sẽ làm cho đường cầu HHCC của Crusoe dịch xuống, và đường
cầu của Friday sẽ dịch lên. Nói chung, không lý do giải thích tại sao những thay
đổi này phải vuông góc một cách chính xác với nhau để mức tổng cầu thay đổi một
cách bình thường. Với cách phân phối thu nhập mới này, sẽ có mức HHCC hữu
hiệu mới. Nhưng hiệu quả vẫn có đặc điểm là tổng tỉ lệ thay thế cận biên bằng tỷ lẹ
chuyển đổi cận biên. Nói cách khác, mỗi điểm trên đường năng lực sử dụng có thể
được đặc trưng bởi HHCC khác nhau, nhưng tại mỗi điểm thì tổng tỉ lệ thay thế
cận biên bằng tỷ lệ chuyển đổi cận biên.
Việc mức HHCC hữu hiệu phụ thuộc vào phân phối thu nhập có một ý nghĩa quan
trọng là người ta không thể tách những cân nhắc, tính toán về hiệu quả của việc
cung cấp HHCC khỏi những cân nhắc về phân phối thu nhập. Mọi thay đổi trong
phân phối thu nhập, chẳng han như xảy ra do thay đổi cơ cấu thues thu nhập, sẽ
kèm theo những thay đổi tương ứng trong mức sản lượng HHCC.
Những hạn chế đối với phân phối thu nhập và cung HHCC có hiệu quả
Khi đánh giá tác dụng của các chương trình, hình như các chương trình, hình như
các chính phủ thường quan tâm đến vấn đề ai được lợi. Chính phủ thường coi trọng
lợi ích mang lại cho người nghèo hơn là đối với người giàu. Cũng như phân tích
trước đây cho rằng có thể đơn giản cộng các tỷ lệ thay thế cận biên, những lượng
mà mỗi cá nhân sẵn sàng trả tiền ở cận biên để tăng thêm HHCC, đối xử công bằng
giữa người giàu và người nghèo. Vậy,những cách tiếp cận này được phối hợp như
thế nào?
Trong chương 4, chúng tôi đã chỉ cho thấy việc chúng ta vẽ đường khả năng hữu
dụng chỉ đơn giản bằng cách lấy bớt các nguồn lực của người này để cho người
kia. Hãy nhớ lại câu chuyện về nền kinh tế của Robinson Crusoe, trong quá trình
chuyển cam của Crusoe cho Friday, một số cam đã bị mất. Trong nền kinh tế Hoa
Kỳ, chúng ta sử dụng chủ yếu hệ thống thuế và hệ thống phúc lợi để phân phối lại
các nguồn lực. Không chỉ có chi phí hành chính trong việc điều hành những hệ
thống này là lớn, chúng còn có những tác động khuyến khích quan trọng, ví dụ như
đối với tiền tiết kiệm và quyết định làm việc của cá nhân. Phân phối các nguồn lực
thông qua các hệ thống thuế và phúc lợi là tốn kém, có nghĩa rằng chính phủ có thể
có những cách thức khác để đạt mục tiêu phân phối lại của mình. Một trong những
cách đó là tập hợp những tính toán phân phối vào việc đánh giá các dự án của
chính p
Đánh thuế gây ra méo mó và cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
Vấn đề thu để chi tiêu vào HHCC được huy động từ thuế, như thuế thu nhập mà nó
có những tác động khuyến khích mạnh mẽ, có một số ảnh hưởng đối với cung cấp
HHCC một cách có hiệu quả. Lượng HHTN mà cá nhân phải từ bỏ để nhận thêm
một đơn vị còn lớn hơn nữa, nếu chính phủ có thể huy động được bằng cách khác
không gây ra những tác động khuyến khích đó và không tốn kém trong việc quản
lý.
Chúng ta có thể vẽ ra đường khả thị, thể hiện mức tiêu dùng HHTN tối đa theo mỗi
mức HHCC, với mỗi mức thuế của chúng ta. Hệ thống thuế gây ra nhiều phi hiệu
quả, do đó đường khả thi này nằm trong đường giới hạn năng lực sản xuất, như
trong hình 5.10.
Hình 5.10: Đường khả thi
Lượng HHTN mà chúng ta phải từ bỏ để có thêm một đơn vị HHCC,có tính đến cả
chi phí tăng thêm, gọi là tỷ lệ chuyển đổi kinh tế cận biên, vì nó ngược lại với tỉ lệ
chuyển đổi vật chất cận biên mà chúng ta đã sử dụng trong phân tích trước đây. Tỷ
lệ sau hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ, còn tỷ lệ chuyển đổi kinh tế cận biên thì
có tính đến chi phí liên quan tới các loại thuế cần thiết để tài trợ cho khoản tăng chi
tiêu công cộng. Do đó, chúng ta thay thế điều kiện trước đây là: tỷ lệ chuyển đổi
vật chất cận biên phải ngang bằng với tổng các tỷ lệ thay thế cận biên, bằng điều
kiện mới là: tỷ lệ chuyển đổi kinh tế cận biên phải ngang bằng với tổng các tỷ lệ
thay thế cận biên.
Việc đánh thuế gây ra những méo mó, làm cho HHCC trở nên đắt tiền hơn, do đó
thường dẫn đến ý kiến cho rằng mức hiệu quả của HHCC sẽ nhỏ hơn là nó có thể
có khi đánh thuế mà không gây ra méo mó.
Thực vậy, rõ ràng là nhiều tranh luận trong những năm vừa qua về mức cung cấp
HHCC mong muốn đã xoay quanh vấn đềnày. Có những người cho rằng những
méo mó do hệ thống thuế gây ra không lớn lắm, trong khi đó những người khác lại
cho rằng cái giá của việc cố gắn tăng thêm thu nhập đối với HHCC
là rất lớn. Họ có thể thống nhất về quy mô lợi ích xã hội mà chi tiêu thêm của
chính phủ đem lại, nhưng không thống nhất về chi phí.
Hình 5.11: Đường Laffer
Trong hình 5.11, chúng tôi đã vẽ đường khả thi, trong đó có mức HHCC tối đa có
thể được cung cấp; những nỗ lực của chính phủ nhằm huy động thêm thu nhập,
bằng cách đánh thuế thêm, làm cho các cá nhân giảm bớt nỗ lực và các hang giảm
bớt đầu tư, từ đó dẫn đến mức tiêu dùng HHTN thấp hơn, và mức thu nhập từ thuế
cũng thấp hơn (từ đó, chi tiêu của chính phủ cũng giảm xuống). Đường này đã trở
nên phổ biến trong những năm vừa qua với tên là đường Laffer, mang tên Arthur
Laffer, thuộc trường ĐHTH Nam California, mặc dù những người khác trước đây
cũng đã nêu ra khả năng mà đường cong này có thể ảnh hưởng. Nó đã đảm bảo
một trong những cơ sở tốt cho cái sẽ được gọi là kinh tế học về cung, cho rằng việc
giảm thuế suất, sẽ làm cho thu thuế tăng lên. Mặc dù điều này rõ ràng về mặt lý
thuyết là có thể vẫn không có bằng chứng rằng điều đó có liên quan đến thuế suất
hiện hành, như chúng tôi sẽ trifnhbafy ở chương 19
Chính phủ hữu hiệu với tư cách là HHCC
Một trong những HHCC quan trọng nhất là sự quản lý của chính phủ: Tất cả chúng
ta đều được lợi nếu có một chính phủ tốt hơn, hữu hiệu hơn và có khả năng phản
ứng tốt hơn. Thực vậy, “chính phủ tốt” có cả hai đặc trưng của HHCC mà chúng
tôi đã nêu ra trước đây: rất khó loại trừ và không muốn loại trừ một ai khôngđược
hưởng lợi ích mà chính phủ tốt đemlại.
Nếu chính phủ có thể trở nên hữu hiệu hơn, và có thể giảm thuế, không phải giảm
mức cung cấp của chính phủ, thì tất cả chúng ta sẽ được lợi. Chính khách nào làm
được việc đó có thể nhận được sự đền bù nào đó, nhưng sự đền bù đó chỉ là một
phần lợi ích mà những người khác được hưởng . Cụ thể là, số người bỏ phiếu
chống chính khách thành công trong việc này cũng nhiều bằng số người ủng hộ và
bầu cho chính khách đó, và người không đi bầu, muốn ăn không trên hoạt động
chính trị của người khác, cũng như được lợi như những người khác.
Tóm tắt
Chương này đã xác định loại hàng hóa quan trọng, HHCC thuần túy . Loại hàng
hóa này có hai đặc điểm quan trọng:
Không thể loại trừ các cá nhân ra khỏi việc hưởng lợi từ các loại hàng hóa
đó.
Không muốn loại trừ các cá nhân ra khỏi việc hưởng lợi của hàng hóa đó,
bởi vì việc hưởng lợi đó không làm giảm lợi của những người khác.
Trong khi chỉ có ít ví dụ về HHCC thuần tuy, chẳng hạn như quốc phòng, còn đối
với hầu hết hàng hóa do công cộng cung cấp đều có thể loại trừ, nhưng thường là
việc sử dụng dưới mức của các phương tiện công cộng.
Thị trường tư nhân hoặc là không cung cấp hoặc là cung cấp một cách không đầy
đủ của HHCC.
Vấn đề cố ý xoay xở để được cung cấp HHCC nảy sinh do các cá nhân cố trở thành
kẻ ăn không hay đơn giản là hưởng lợi HHCC do người khác trả hộ.
Đối với HHTN do công cộng cung cấp có thể sử dụng một số phương pháp chia
khẩu phần hơn là dùng hệ thống giá cả; đôi khi sử dụng xếp hàng; trong khi đó có
những lúc người ta phải sử dụng biện pháp cấp theo định lượng cố định cho tất cả
mọi người. Cả hai biện pháp này đều không có hiệu quả.
Hiệu quả Pareto đòi hỏi rằng HHCC được cung cấp tới điểm mà tại đó tổng tỷ lệ
thay thế cận biên bằng tỷ lệ chuyển đổi cận biên. Mức độ khác nhau của hiệu quả
Pareto về việc tiêu dùng HHCC sẽ liên quan đến các phương án phân phối thu
nhập khác nhau.
Quy tắc cơ bản đối với mức cung HHCC hữu hiệu cần được thay đổi khi có tồn phí
liên quan đến huy động thu và phân phối lại thu nhập.
Sự quản lý hữu hiệu của chính phủ tự thân là một hàng hóa công cộng.
Phụ trương: Cách giải thích khác về hiệu quả của HHCC bằng đường Leftower
Trong phụ chương này chúng tôi đưa ra một giải thích khác, bằng đồ thị, về điều
kiện hiệu quả cơ bản đối với HHCC:
Tổng tỷ lệ thay thế cận biên = Tỷ lệ chuyển đổi cận biên
Trong hình 5.12A chúng tôi đã thêm đường bàng quan của Crusoe vào đường giới
hạn năng lực sản xuất. Nếu chính phủ cung cấp tới mức HHCC là G và đồng thời
muốn chắc chắn là Crusoe sẽ có mức độ hữu dụng gắn với đường bàng quan U1
trong sơ đồ, thì lượng HHTN là “còn lại” cho Friday là khoảng cách thẳng đứng
giữa đường giới hạn năng lực sản xuất và đường bàng quan. Tương ứng, chúng tôi
gọi khoảng này là đường Leftover. Đường này được vẽ ở hình 5.12B. Bây giờ
chúng tôi vẽ thêm vào hình 5.12B các đường bàng quan của Friday. Độ hữu dụng
cao nhất mà Friday có thể nhận được là điểm tiếp tuyến giữa đường bàng quan và
đường Leftover, phù hợp với đường giới hạn năng lực sản xuất và mức độ hữu
dụng của Crusoe.
Hình 5.12: Xác định hiệu quả sản xuất HHCC
Có một cách đơn giản để thể hiện điều kiện tiếp tuyến này. Vì đường Leftover là
chênh lệch giữa đường giới hạn năng lực sản xuất đối với nền kinh tế và đường
bàng quan thứ nhất của cá nhân, cho nên độ dốc của đường Leftover là khoảng
chênh lệch giữa độ dốc của đường giới hạn năng lực sản xuất và độ dốc của đường
bàng quan thứ nhất của cá nhân. Độ dốc của đường giới hạn năng lực sản xuất là tỷ
lệ chuyển đổi cận biên, còn độ dốc của đường bàng quan thứ nhất là tỉ lệ thay thế
cận biên của anh ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_5_2053.pdf