Tóm lại, năm 2018 khép lại với
những kết quả tích cực, tạo ra triển vọng
kinh tế-tài chính Việt Nam năm 2019
tương đối sáng sủa với những nhân tố
bên trong và bên ngoài có nhiều thuận
lợi. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tồn tại
nhiều khó khăn, thách thức. Để đạt được
mục tiêu và những chỉ tiêu cụ thể đặt
ra theo Nghị quyết của Quốc hội và kế
hoạch phấn đấu của Chính phủ, Chính
phủ đã xây dựng, thảo luận và kịp thời
ban hành ngay từ đầu năm hai Nghị
quyết quan trọng. Đó là Nghị quyết số
01/NQ-CP ngày 1/1/2019 về nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội và Dự toán
NSNN năm 2019; Nghị quyết số 02/
NQ-CP ngày 01/01/2019 về tiếp tục thực
hiện những nhiệm cụ giải pháp chủ yếu
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm
2019 và định hướng đến năm 2021. Các
giải pháp nêu trong các Nghị quyết trên
là rất đầy đủ, đồng bộ và toàn diện. Kết
quả phụ thuộc vào công tác chỉ đạo điều
hành của Chính phủ; công tác tổ chức
thực hiện của các ngành, các cấp, các địa
phương, các doanh nghiệp và người dân.
Hy vọng rằng, phát huy những thành quả
của năm 2018, năm 2019 sẽ là năm bứt
phá, tạo cơ hội cho năm 2020 tiếp tục
hoàn thành toàn diện, vượt mức kế hoạch
kinh tế-tài chính 5 năm 2016-2020.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2018 và triển vọng 2019, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
1. Kinh tế - tài chính Việt Nam
năm 2018
1.1. Những kết quả đạt được
Tốc độ tăng GDP đạt 7,08%, vượt
mục tiêu kế hoạch đề ra (6,5-6,7%) và đạt
tốc độ tăng trưởng cao nhất trong suốt 10
năm trở lại đây. Đáng chú ý là tăng trưởng
diễn ra toàn diện ở cả 3 khu vực. Trong
đó, khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản
tăng 3,76%, đóng góp 0,62 điểm % vào
tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp
và xây dựng tăng 8,85% đóng góp 3,44
điểm % vào tăng trưởng chung; khu vực
dịch vụ tăng 7,03% đóng góp 3,02 điểm
% vào tăng trưởng chung.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2018
đạt 1.856,6 nghìn tỷ đồng, bằng 33,5%
GDP, tăng 11,2% so với năm 2017. Trong
đó khu vực Nhà nước chiếm 33,3%, tăng
3,9% so với năm trước; khu vực ngoài
Nhà nước chiếm 43,3% tăng 18,5%; khu
vực FDI chiếm 23,4%, tăng 9,6%. Trong
năm đã thu hút gần 3.050 dự án đầu tư
trực tiếp của nước ngoài với tổng số vốn
đăng ký đạt gần 18 tỷ USD, tăng 17,6%
về số dự án, giảm 15,5% về vốn đăng ký
so với năm trước. Trong năm có 1.169
dự án điều chỉnh tăng vốn đạt gần 7,6 tỷ
USD, đưa tổng số vốn đăng ký năm 2018
đại 25,57 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt
244,7 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm
2017 (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 12,7%).
Trong đó, khu vực FDI chiếm tỷ trọng
71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, khu vực
kinh tế trong nước chiếm 28,3%. Tổng
kim ngạch nhập khẩu hàng hoá đạt 237,5
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VIỆT NAM 2018
VÀ TRIỂN VỌNG 2019
GS.TS. Nguyễn Công Nghiệp *
Tóm tắt: Năm 2018 mặc dù nền kinh tế xã hội có nhiều khó khăn, song tình hình
kinh tế - tài chính đất nước vẫn phát triển ổn định, hoàn thành vượt mức, toàn diện các
chỉ tiêu kế hoạch, mở ra triển vọng phát triển mang tính bứt phá cho năm 2019, tạo
tiền đề hoàn thành kế hoạch 5 năm 2016-2020.
Từ khoá: Kinh tế, tài chính Việt Nam, vượt mức, hạn chế, triển vọng.
Abstract: Despite facing difficulties in the social economy in 2018, Vietnam’s
economy and finance have been developing steadily, exceedingly and comprehensively
fulfilled all the targets and plans ushering in a promising breakthrough development
for 2019 and creating a premise to complete the five-year plan (2016 – 2020).
Keywords: Vietnam’s economy, finance, exceed, limitations and prospects
* Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia;
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học KD&CN Hà Nội.
18
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2017
(loại trừ yếu tố giá tăng 9,5%). Trong đó
khu vực kinh tế trong nước đạt 94,8 tỷ
USD, khu vực FDI đạt 142,7 tỷ USD.
Xuất siêu năm 2018 đạt 7,2 tỷ USD (bằng
2,95% tổng kim ngạch xuất khẩu), trong
đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu
25,6 tỷ USD, khu vực FDI xuất siêu 32,8
tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ
đạt 14,8 tỷ USD, tăng 13,2% so với năm
trước. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ đạt
18,5 tỷ USD, tăng 8,5%. Nhập siêu dịch
vụ 3,7 tỷ USD, bằng 24,9% kim ngạch
xuất khẩu dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng
hoá và dịch vụ tiêu dùng loại trừ yếu tố
giá tăng 9,4% (năm 2017 tăng 9,3%).
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm
2018 tăng 3,54% so với năm 2017, vượt
mục tiêu đề ra (khoảng 4%). Lạm phát cơ
bản tháng 12/2018 tăng 1,7% so với cùng
kỳ năm trước.
Hoạt động tài chính - tín dụng - tiền tệ
đạt kết quả tích cực.
- Thu NSNN vượt dự toán, tăng
12,3% so với thực hiện năm 2017, trong
đó cả 3 nhóm thu chính đều vượt dự toán
(thu nội địa vượt 4,5%; thu dầu thô vượt
84%; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập
khẩu vượt 13,1%). Đáng chú ý trong cơ
cấu thu, thì thu từ SXKD trong nước
(thu nội địa) chiểm tỷ trọng cao, đạt gần
82% (bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt
68%). Thể hiện sự ổn định ngày càng cao
của nguồn thu NSNN. Chi NSNN về cơ
bản thực hiện đúng dự toán. Tỷ trọng chi
đầu tư phát triển đang có xu hướng tăng
và đạt 26,8% tổng chi NSNN (năm 2017
đạt 25%). Cân đối NSNN các cấp được
đảm bảo, bội chi NSNN ước đạt dưới
3,6%GDP, thấp hơn dự toán Quốc hội
giao (3,7%);
- Huy động vốn trái phiếu Chính phủ
được điều hành theo tiến độ giải ngân
vốn đầu tư. Trong đó 100% khối lượng
phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên, kỳ
hạn bình quân đạt 12,69 năm, lãi suất có
xu hướng giảm ở tất cả các kỳ hạn và đạt
bình quân 4,71% (năm 2017 là 5,98%);
- Nợ công được kiểm soát trong giới
hạn an toàn. Dư nợ công đến cuối năm
2018 là 61,4%GDP, dư nợ Chính phủ
52,1%GDP, dư nợ nước ngoài của quốc
gia 49,7%GDP. Việc trả nợ các khoản
vay của Chính phủ được thực hiện theo
dự toán và theo lịch trình, đảm bảo đầy
đủ, kịp thời các nghĩa vụ trả nợ;
- Tăng trưởng tín dụng năm 2018
đạt 14%, chậm hơn năm 2017 (17,6%),
nhưng vẫn hỗ trợ tích cực cho tăng
trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Tổng dư nợ tín dụng/GDP đạt 134%,
tăng khoảng 4,6 điểm % so với cuối
năm 2017. Theo đánh giá của Uỷ ban
Giám sát tài chính quốc gia, năm 2018,
thanh khoản trong hệ thống các tổ chức
tín dụng tương đối ổn định. Lãi suất có
xu hướng tăng nhẹ do kỳ vọng lạm phát
tăng trong bối cảnh giá hàng hoá thế giới
biến động và do các tổ chức tín dụng cơ
cấu lại nguồn vốn nhằm đảm bảo các tỷ
lệ an toàn trong năm 2019 và chuẩn bị
tăng vốn cấp 2 theo Basel II. Tỷ lệ nợ
xấu 2,4%, giảm nhẹ so với 2017 (2,5%).
Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
nhìn chung được đẩy nhanh và hiệu quả
hơn, theo hướng hạn chế chuyển nợ sang
VAMC và tự xử lý nợ xấu qua các hình
thức sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng,
thu nợ khách hàng;
- Tỷ giá USD/VND tăng nhẹ. Tỷ giá
trung tâm tăng 1,5%, tỷ giá NHTM tăng
2,8%, tỷ giá thị trường tự do tăng 3,5%
19
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
so với đầu năm. Đây là mức tăng hợp lý
nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu và phù hợp
với tốc độ lạm phát trong bối cảnh đồng
USD tăng giá mạnh so với một số đồng
tiền khác trong khu vực (đồng NDT mất
giá khoảng 5%, đồng Rupi Ấn Độ và In-
donexia mất giá khoảng 10%);
- Thị trường chứng khoán tuy có
nhiều biến động do ảnh hưởng của kinh
tế vĩ mô trong và ngoài nước, song vẫn
có những bước tiến đáng ghi nhận. Tổng
mức vốn huy động qua thị trường tăng 3%
so với năm 2017, mức vốn hoá thị trường
tăng 10%, tương đương 77,2% GDP. Giá
trị giao dịch bình quân đạt gần 6.600 tỷ
đồng/phiên, tăng 30% so với năm 2017.
Giá trị vốn gián tiếp vào ròng đạt gần 2,8
tỷ USD, bằng 95,9% năm 2017.
1.2. Bên cạnh những kết quả đạt
được, hoạt động kinh tế và tài chính
năm 2018 cũng còn nhiều hạn chế. Thể
hiện ở các mặt sau đây:
Một là, chất lượng tăng trưởng tuy đã
được cải thiện nhưng chưa thực sự bền
vững, đóng góp của năng suất các yếu
tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP
mới ở mức 43,29%. Năng suất lao động
của toàn nền kinh tế tăng 5,93%, thấp hơn
mức tăng 6,02% của năm 2017 và mới đạt
khoảng 4.512USD/1 lao động, còn thấp
so với các nước trong khu vực. Nguyên
nhân một phần là do lực lượng lao động
trong ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản
chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 42%) trong
tổng lực lượng lao động, trong khi năng
suất lao động của ngành này thấp;
Hai là, ngành công nghiệp khai
khoáng chưa thoát khỏi tình trạng tăng
trưởng âm (giảm 3,11%), mặc dù tỷ lệ
giảm đã thu hẹp đáng kể so với năm 2017
(năm 2017 giảm 7,1%);
Ba là, trong hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá, khu vực FDI chiếm tỷ trọng
lớn và xuất siêu, khu vực kinh tế trong
nước chiếm tỷ trọng nhỏ và còn nhập siêu
lớn. Hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ
còn nhập siêu với tỷ lệ nhập siêu lên tới
24,9% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ;
Bốn là, hiệu quả đầu tư cải thiện chưa
mạnh, chỉ số ICOR giai đoạn 2016-2018
vẫn ở mức 6,2 so với mức 6,25 của giai
đoạn 2011-2015. Tình trạng giải ngân
vốn đầu tư công chậm vẫn chưa được
khắc phục. Tính đến hết năm, chỉ giải
ngân được 65,96% tổng vốn đầu tư theo
dự toán Quốc hội giao;
Năm là, tình hình tài chính - ngân
sách còn nhiều bất cập. Tổng thu NSNN
tuy vượt dự toán, nhưng thu từ SXKD đạt
thấp (thu từ DNNN đạt 97%, thu từ khu
vực FDI đạt 84,9%, thu từ khu vực NQD
đạt 97,7%). Tỷ trọng chi thường xuyên
tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao (trên 60%
tổng chi NSNN), tỷ lệ bội chi NSNN giảm
so với dự toán là nhờ GDP thực hiện cao
hơn kế hoạch, số tuyệt đối không giảm, tỷ
lệ bội chi 3,6%GDP vẫn còn cao so với
mục tiêu và yêu cầu đặt ra cho những năm
tới (3%GDP). Thị trường chứng khoán
biến động mạnh, chỉ số giá sụt giảm (chỉ
số VN Index giảm 9,3% so với cuối năm
2017). Tỷ lệ dư nợ công trên GDP giảm,
nhưng tỷ lệ dư nợ Chính phủ có xu hướng
tăng. Đặc biệt, tỷ trọng dư nợ nước ngoài
của quốc gia đã lên đến 49,7%, có nguy
cơ vượt ngưỡng an toàn (50%) và rất khó
kiểm soát.
2. Triển vọng kinh tế - tài chính
Việt Nam 2019
2.1. Triển vọng tăng trưởng kinh tế
Thế giới bước vào năm 2019 trong
bối cảnh căng thẳng thương mại và chiến
20
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
tranh thương mại Mỹ-Trung vẫn chưa có
hồi kết, tăng trưởng kinh tế thế giới có
xu hướng giảm nhẹ và tiếp tục bị phân
hoá giữa các khu vực kinh tế, tăng trưởng
thương mại toàn cầu dự báo đạt khoảng
4% (năm 2018 đạt 4,2%). Thị trường
chứng khoán, tỷ giá và giá cả hàng hoá
thế giới sẽ có biến động theo chiều hướng
kém tích cực hơn năm 2017. Bên cạnh
đó cũng tồn tại một số yếu tố thuận lợi,
tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam. Trong đó, tổng cung sẽ duy trì
tốc độ tăng khá nhờ khu vực công nghiệp
và xây dựng, với nòng cốt là ngành chế
biến chế tạo, tiếp tục đóng vai trò là
động lực cho tăng trưởng, trong khi tăng
trưởng của ngành nông lâm thuỷ sản với
lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn sẽ
giữ vai trò là nhân tố quan trọng cho sự
ổn định kinh tế, xã hội. Tổng cầu tiếp tục
được hỗ trợ nhờ xuất khẩu và tiêu dùng tư
nhân kỳ vọng sẽ duy trì đà tăng khả quan.
Dự kiến tăng trưởng GDP năm 2019 có
thể đạt 6,6-6,8% (kịch bản I), trong điều
kiện môi trường kinh tế trong nước và
quốc tế tốt hơn, con số này có thể đạt
6,9-7,1% (kịch bản II). Theo kế hoạch
của Bộ Công thương, chỉ số sản xuất
công nghiệp năm 2019 sẽ tăng 9-10%;
xuất khẩu dự kiến đạt 265 tỷ USD, tăng
8-10% so với năm 2018; nhập khẩu đạt
268 tỷ USD, tăng khoảng 11,5%. Nhập
siêu khoảng 3 tỷ USD.
2.2. Triển vọng ngân sách và nợ công
Dự toán NSNN được Quốc hội
thông qua với tổng số thu tăng 7% so với
năm 2018, tổng số chi tăng 7,2%. Trong
bối cảnh dự báo tăng trưởng kinh tế trên
6,6%, thì mức dự toán được duyệt có thể
thực hiện đạt và vượt tối thiểu 5% như
ngành tài chính đã công bố. Tuy nhiên,
những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động
NSNN vẫn rất lớn. Giá dầu thô khó đạt
mức 65USD/thùng như tính toán trong
dự toán; khả năng thu từ khu vực SXKD
vẫn tiếp tục gặp khó khăn do năng suất,
chất lượng hiệu quả chưa cao, chi phí đầu
vào lớn; thu XNK bị ảnh hưởng bởi lộ
trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế
quan... Chi NSNN vẫn chưa khắc phục
được tình trạng dàn trải, phân tán, kém
hiệu quả, giải ngân vốn đầu tư XDCB
chậm; thiên tai và những rủi ro về thời
tiết còn lớn...
Nợ công đang có xu hướng giảm,
nhưng nợ Chính phủ và nợ nước ngoài
của quốc gia lại có xu hướng tăng chủ yếu
do nợ tự vay tự trả của khu vực doanh
nghiệp và tổ chức tín dụng tăng nhanh
(năm 2016 tăng 25,7%, năm 2017 tăng
39,6%). Đây là những khoản nợ rất khó
kiểm soát, tiềm ẩn rủi ro tài chính cao.
Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng các khoản
nợ công còn nhiều bất cập, như giải ngân
chậm, đội vốn, chậm tiến độ, kỷ luật tài
khoá, trách nhiệm giải trình chưa chặt
chẽ, chưa rõ ràng.
2.3. Triển vọng tiền tệ, tín dụng
Năm 2019, NHNN định hướng tổng
phương tiện thanh toán tăng khoảng 13%,
tín dụng tăng khoảng 14% (bằng năm
2018). Tốc độ này sẽ đảm bảo thực hiện
mục tiêu kép là vừa kiểm soát lạm phát,
vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Về lãi suất,
dự báo mặt bằng lãi suất có thể giữ ổn định
do áp lực lạm phát, áp lực tỷ giá và áp lực
về nguồn vốn được giảm thiểu hơn so với
năm 2018. Trong đó áp lực về vốn để đáp
ứng tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho
vay trung và dài hạn đã được giảm khi tỷ lệ
này bình quân toàn hệ thống đã từ 30,4%
năm 2017 xuống còn 28,7% năm 2018.
Về tỷ giá, theo Uỷ ban Giám sát tài chính
21
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
quốc gia, khả năng giá USD sẽ không tăng
nhiều, thậm chí chỉ số USD Index có thể
giảm khoảng 2% trong năm nay. Sự ổn
định của đồng USD cộng với lỷ lệ lạm
phát thấp sẽ hỗ trợ ổn định tỷ giá.
2.4. Triển vọng lạm phát
Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ
là phối hợp với chính sách tài khoá và các
chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm
soát lạm phát năm 2019 bình quân dưới
4%. Năm 2019, lạm phát sẽ chịu tác động
của các yếu tố bên trong và bên ngoài,
trong đó các yếu tố bên trong chủ yếu là
tiền tệ, giá thực phẩm, giá dịch vụ công
và các yếu tố bên ngoài chủ yếu là giá dầu
và giá hàng hoá thế giới. Tuy nhiên, theo
dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế, giá hàng
hoá thế giới năm 2019 sẽ biến động không
nhiều do nhu cầu thế giới khó có khả năng
gia tăng đột biến; giá dầu thô năm 2019
cũng chưa có dấu hiệu tăng cao. Đối với
các yếu tố bên trong, với định hướng điều
hành tăng trưởng tín dụng năm 2019 bằng
năm 2018, sẽ không gây áp lực lên lạm
phát; giá thực phẩm có khả năng tiếp tục
phục hồi sau giai đoạn giảm sâu, nhưng
khả năng cũng sẽ duy trì mức tăng như
năm 2018; giá dịch vụ công tiếp tục lộ
trình điều chỉnh sẽ có tác động lên lạm
phát. Tuy nhiên, nếu các cơ quan quản lý
theo dõi diễn biến của thị trường để quyết
định điều chỉnh cho phù hợp, thì nhân tố
này có thể kiểm soát được. Như vậy, năm
2019, giá hàng hoá năng lượng và phi
năng lượng thế giới có thể sẽ không gây
tác động lớn đến CPI trong nước. Ở trong
nước, áp lực khiến CPI tăng mạnh cũng
không nhiều, mặc dù nhìn chung lạm phát
vẫn đang trong xu thế tăng cao hơn so với
giai đoạn 2015-2017. Tính toán cho thấy,
mục tiêu kiểm soát lạm phát bình quân
năm 2019 dưới 4% là khả thi.
2.5. Triển vọng thị trường tài chính
Thị trường chứng khoán dự báo sẽ
tiếp tục diễn biến phức tạp do sự biến
động của các yếu tố bên trong và bên
ngoài. Tuy nhiên, sự tăng trưởng ổn định
của kinh tế trong nước, sự cải thiện hoạt
động của các doanh nghiệp niêm yết và
khả năng được theo dõi nâng hạng của
thị trường chứng khoán Việt Nam đang là
những nhân tố thuận lợi để thị trường phát
triển. Công tác huy động vốn TPCP năm
2019 dự báo có một số thuận lợi, như tính
thanh khoản trên thị trường ngân hàng dự
kiến ổn định; các doanh nghiệp bảo hiểm,
nhất là bảo hiểm nhân thọ, đang duy trì
tốc độ phát triển cao, tiếp tục tăng tỷ lệ
đầu tư vào TPCP với thời hạn dài (20-30
năm) sẽ hậu thuẫn mạnh cho chủ trương
tiếp tục giảm lãi suất trái phiếu và kéo dài
thời hạn TPCP đã và đang thực hiện khá
thành công trong những năm qua, góp
phần quan trọng vào việc định hướng lãi
suất trên thị trường.
Tóm lại, năm 2018 khép lại với
những kết quả tích cực, tạo ra triển vọng
kinh tế-tài chính Việt Nam năm 2019
tương đối sáng sủa với những nhân tố
bên trong và bên ngoài có nhiều thuận
lợi. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tồn tại
nhiều khó khăn, thách thức. Để đạt được
mục tiêu và những chỉ tiêu cụ thể đặt
ra theo Nghị quyết của Quốc hội và kế
hoạch phấn đấu của Chính phủ, Chính
phủ đã xây dựng, thảo luận và kịp thời
ban hành ngay từ đầu năm hai Nghị
quyết quan trọng. Đó là Nghị quyết số
01/NQ-CP ngày 1/1/2019 về nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội và Dự toán
NSNN năm 2019; Nghị quyết số 02/
NQ-CP ngày 01/01/2019 về tiếp tục thực
hiện những nhiệm cụ giải pháp chủ yếu
22
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội Quý IV và năm 2014. Tổng cục Thống
kê, 27/12/2018; Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2018, định hướng kế hoạch năm
2019 của các ngành Kế hoạch và đầu tư, Công thương, Tài chính, Ngân hàng. Uỷ ban
Giám sát tài chính quốc gia.
2. Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán NSNN năm 2018;
Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những
nhiệm cụ giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021;
3. Năm 2019 - Năm của bứt phá. Thu Anh, TTXVN, Kinh tế Việt Nam và Thế
giới, số 910, 2019.
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm
2019 và định hướng đến năm 2021. Các
giải pháp nêu trong các Nghị quyết trên
là rất đầy đủ, đồng bộ và toàn diện. Kết
quả phụ thuộc vào công tác chỉ đạo điều
hành của Chính phủ; công tác tổ chức
thực hiện của các ngành, các cấp, các địa
phương, các doanh nghiệp và người dân.
Hy vọng rằng, phát huy những thành quả
của năm 2018, năm 2019 sẽ là năm bứt
phá, tạo cơ hội cho năm 2020 tiếp tục
hoàn thành toàn diện, vượt mức kế hoạch
kinh tế-tài chính 5 năm 2016-2020.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_te_tai_chinh_viet_nam_2018_va_trien_vong_2019.pdf