Đối với vấn đề vốn đầu tư công
- Quốc hội và Chính phủ cần chú
trọng hơn nữa vai trò đầu tàu kinh tế
của TPHCM, phân cấp mạnh cho
Thành phố thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh
một số ngành - lĩnh vực cho phù hợp
với đặc thù và cụ thể hóa các quy định
sát với thực tế địa phương.
- Quốc hội và Chính phủ xem xét tỷ lệ
thu ngân sách thành phố được giữ lại
cao hơn để đầu tư phát triển, ít nhất
cũng là 30% thay vì 18% như hiện nay.
- Thành phố cần tiếp tục triển khai
nhanh, vận dụng sáng tạo, cụ thể hóa
Nghị quyết 54 vì thời hạn nghị quyết là
5 năm. Sau đó nếu kết quả tốt thì có
thể ban hành luật riêng cho Thành
phố, ngược lại không tốt thì có thể
xem xét, quyết định dừng việc thí
điểm cơ chế, chính sách đặc thù này.
- Thành phố cần đẩy mạnh các hình
thức hợp tác công tư trong các dự án
về hạ tầng đô thị để giải bài toán khó
khăn về vốn.
14 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh năm 2018 - Tăng trưởng đạt mục tiêu đề ra nhưng chưa đạt kỳ vọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11
CHUYÊN MỤC
KINH TẾ HỌC - XÃ HỘI HỌC
KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018 -
TĂNG TRƯỞNG ĐẠT MỤC TIÊU ĐỀ RA
NHƯNG CHƯA ĐẠT KỲ VỌNG
HOÀNG THỊ THU HUYỀN*
Kinh tế TPHCM 2018 phát triển trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến
chuyển nhanh, phức tạp. Kinh tế thế giới tuy tăng trưởng tốt hơn nhưng vẫn phải
đối mặt với nhiều rủi ro, bất trắc do bất ổn tài chính - tiền tệ, bất ổn địa chính trị
và an ninh quốc tế do trào lưu dân túy và chủ nghĩa bảo hộ. Trong nước, việc
tăng cường ký kết và đàm phán các Hiệp định thương mại tự do, cùng với nỗ lực
chống tham nhũng của chính phủ, đã đem lại nhiều cơ hội cũng như thách thức
cho phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng. Căn cứ vào
số liệu chính thức của Tổng cục Thống kê Việt Nam, Cục Thống kê TPHCM và
các dữ liệu từ các nguồn đáng tin cậy khác, bài viết này phân tích tình hình kinh
tế TPHCM năm 2018 trong bối cảnh phát triển của quốc tế, khu vực và trong
nước để thấy được những thành tựu, hạn chế, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của
vấn đề, từ đó khuyến nghị một số chính sách phát triển cho TPHCM năm 2019
và những năm tiếp theo.
Từ khóa: tăng trưởng kinh tế, kinh tế TPHCM, ngành, khu vực
Nhận bài ngày: 15/2/2019; đưa vào biên tập: 15/2/2019; phản biện: 17/2/2019;
duyệt đăng: 20/2/2019
1. BỐI CẢNH KINH TẾ - CHÍNH TRỊ
THẾ GIỚI
Tăng trưởng kinh tế thế giới được
Ngân hàng Thế giới (WB, 2018) ước
tính đạt mức 3,1% năm 2018, bằng
với năm trước 2017 và tăng 0,7% so
với năm 2016. Cũng theo báo cáo này,
các quốc gia đang phát triển và mới
nổi năm 2018 tiếp tục có mức tăng
trưởng GDP đạt 4,5% (tăng 0,2% so
với năm 2017 và 0,8% so với năm
2016) và tốc độ tăng trưởng dự báo
sẽ tiếp tục tăng lên 4,7% năm 2019
trước khi chững lại ở năm 2020. Sự
tăng trưởng ấn tượng này là nhờ vào
*
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
HOÀNG THỊ THU HUYỀN – KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
12
sự phục hồi đầu tư ở một số quốc gia,
đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm.
Chủ trương tái cơ cấu kinh tế nội địa
tại Trung Quốc, những nỗ lực thoát ra
khỏi vũng lầy suy thoái kinh tế của
Brazil và Liên bang Nga phần nào đã
phát huy tác dụng và là điểm nhấn
trọng tâm góp phần vào tốc độ tăng
trưởng kinh tế chung của cả thế giới,
khiến tình hình kinh tế thế giới trong
những năm tiếp theo có bước cải
thiện đáng kể, bất chấp tình hình
chính trị tại một số quốc gia vẫn còn
nhiều vấn đề thách thức và các hoạt
động khủng bố vẫn còn diễn ra.
Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của
Ngân hàng Thế giới, nền kinh tế của
nhóm các nước phát triển tiếp tục có
dấu hiệu sụt giảm trong năm 2018. Dự
báo tình hình kinh tế của các nước
này trong năm 2019 sẽ gặp nhiều
thách thức trong thời gian tới sau thời
kỳ ảm đạm từ thị trường thương mại
toàn cầu những năm trước. Nền kinh
tế của khối các nước EU sau khi có
dấu hiệu khả quan năm 2017 thì có
dấu hiệu chững lại ở năm tiếp theo,
chỉ còn đạt mức tăng trưởng 2,1%
trong năm 2018 (giảm 0,3% so với
năm 2017) và được dự báo chỉ còn
1,7% năm 2019 do gặp thách thức lớn
từ việc các chính sách kích thích tiền
tệ giảm hiệu lực, giá năng lượng trong
tiêu thụ tăng cao và những ảnh hưởng
từ việc mở rộng tài chính của Mỹ.
Trung Quốc trong giai đoạn tái cấu
trúc nền kinh tế
Trung Quốc đang phải đối mặt với
nhiều thách thức trong nước khi bước
vào giai đoạn kinh tế chính trị mới.
Nhiều khả năng Đảng Cộng sản Trung
Quốc sẽ tiếp tục thực hiện lời hứa làm
sạch bộ máy chính trị khi thiếp lập Ủy
ban Giám sát quốc gia để xác định và
trừng phạt thẳng tay những hành
động tham nhũng của các quan chức
trong bộ máy (Thanh Danh, 2018).
Ngoài ra, Trung Quốc có thể cải thiện
tình hình kinh tế và đồng thời thúc đẩy
sự hiện diện của mình trên thị trường
của nhiều quốc gia khác trên thế giới
bằng việc tiếp tục mục tiêu xây dựng
con đường tơ lụa mới. Việc Triều Tiên,
vốn là đồng minh chiến lược của
Trung Quốc, nhiều khả năng sẽ chấm
dứt sở hữu hạt nhân và thực hiện
bình thường hóa mối quan hệ tại bán
đảo Triều Tiên sẽ khiến cho ảnh
hưởng chính trị của Trung Quốc tại
quốc gia này bị giảm sút nhưng lại
giúp ít nhiều cho mối quan hệ giữa
Trung Quốc và Hàn Quốc trở nên tốt
đẹp hơn sau những căng thẳng xảy ra
trước đó (Thông tấn xã Việt Nam,
2018). Tương tự, Trung Quốc cũng
đang tìm cách để giảm bớt tình trạng
căng thẳng với Philippines và các
nước khác trong khu vực ASEAN
thông qua những chính sách hỗ trợ
vốn đầu tư và cung cấp giải pháp để
giải quyết các vấn đề trong nước để
làm xao lãng đi vấn đề chủ quyền ở
Biển Đông trong khu vực này.
Nhật Bản phục hồi
Chiến thắng áp đảo của Đảng cầm
quyền Dân chủ tự do của Thủ tướng
Shinzo Abe trong cuộc Tổng tuyển cử
năm 2017 giúp cho các kế hoạch của
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
13
công cuộc phục hồi nền kinh tế và cải
cách nhà nước của chính phủ đương
nhiệm tiếp tục được triển khai, bao
gồm xử lý các vấn đề xoay quanh
quyết định tăng thuế tiêu dùng thêm
2% năm 2019, khởi động lại lò phản
ứng hạt nhân và thực hiện sửa đổi
hiến pháp nhằm mục đích củng cố hệ
thống phòng thủ quốc gia (Đức
Cường, Hồng Khang, 2017). Nhìn
chung, hướng đi cải cách kinh tế của
Nhật đang vẫn thể hiện tính hiệu quả
của mình khi liên tiếp trong 2 năm
tăng trưởng kinh tế đều đạt được mục
tiêu đề ra. Cuộc gặp thượng đỉnh của
Mỹ - Triều Tiên khiến cho Nhật Bản
rơi vào tình thế khó xử khi hoàn toàn
đứng ngoài lề tiến trình hòa bình của
bán đảo Triều Tiên mặc dù là một
trong các bên chịu ảnh hưởng lớn của
chương trình hạt nhân của Triều Tiên.
Tuy nhiên nếu trong trường hợp các
cam kết về ngừng thử nghiệm hạt
nhân được thực hiện thì viễn cảnh
quân đội Mỹ giảm dần sự hiện diện
trên bán đảo Triều Tiên cũng khiến
Nhật Bản lo lắng khi Trung Quốc hoàn
toàn có thể lợi dụng điều này để đẩy
mạnh quyền lực (Duy Anh, 2018).
Cải cách Liên minh Châu Âu
Cải cách về chính trị, thể chế và kinh
tế là không thể tránh khỏi sau những
khủng hoảng gần đây của Liên minh
Châu Âu (EU). Khả năng Liên minh
Châu Âu sẽ xây dựng một quỹ tiền tệ
chung như là một công cụ để cung
cấp kích thích tài chính cũng như
phân chia các thành viên EU thành
các nhóm khác nhau tùy theo trình độ
phát triển và mức độ cam kết hội nhập
vào khối trong tương lai là rất lớn như
theo đề nghị của Pháp và Ủy ban
Châu Âu (EC) (Thành An, 2018). Cuộc
vận động rời EU của Vương quốc Anh
thành công cũng đem lại nhiều dấu
hỏi trong mối quan hệ của nước này
với EU trong tương lai. Trong khi EU
đòi hỏi Vương quốc Anh nhanh chóng
hoàn thành sớm các thủ tục để sớm
rời khỏi EU thì Vương Quốc Anh vẫn
đang mong muốn tìm kiếm được một
thỏa thuận thương mại với EU trước
khi thật sự rời khỏi EU (Quang Dũng,
2018). Bất kể những thách thức trong
nội bộ, EU vẫn tiếp tục thực hiện tìm
kiếm những thỏa thuận thương mại tự
do mới với các nước khu vực khác
nhằm làm bàn đạp đẩy lùi hậu quả
của cuộc khủng hoảng trước đó.
Chẳng hạn, thỏa thuận bước đầu về
thương mại tự do mới với Nhật Bản
và tiếp tục thực hiện đàm phán với
Mexico, Ấn Độ, Indonesia, New
Zealand, Úc và thị trường chung Nam
Mỹ để có được một thỏa thuận về vấn
đề bảo hộ đầu tư (Ngụy An, 2017).
Chủ nghĩa bảo hộ tại Mỹ
Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ
đã giúp cho chủ nghĩa bảo hộ tại Mỹ
lên ngôi. Chủ nghĩa bảo hộ này được
thể hiện rõ qua các hành động của
chính quyền mới trong suốt thời gian
qua khi tiếp tục cáo buộc Trung Quốc
là người đứng sau vấn nạn đánh cắp
quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao
công nghệ ép buộc (Hồng Anh, 2017).
Cùng với đó Mỹ tuyên bố rút khỏi TPP
(Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên
HOÀNG THỊ THU HUYỀN – KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
14
Thái Bình Dương), ngừng đàm phán
FTA (Hiệp định Thương mại tự do) với
EU, đe dọa về khả năng rút khỏi
NAFTA (Hiệp định Mậu dịch tự do Bắc
Mỹ) nếu các cuộc đàm phán với
Mexico và Canada về việc sửa đổi
hiệp định này không có tiến triển
thuận lợi (Ngụy An, 2018), áp đặt thuế
nhập khẩu cao với nhiều sản phẩm từ
các nước Là quốc gia đứng đầu về
kinh tế thương mại thế giới, rõ ràng
các biện pháp bảo hộ thái quá của Mỹ
sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến vấn
đề tự do thương mại của thế giới và
làm mất đi một thị trường tiêu thụ lớn
của nhiều quốc gia đang phát triển.
Mặc dù tình hình kinh tế thế giới đang
có những chuyển biến tích cực trong
năm qua nhưng sự biến động khó
lường của tình hình chính trị thế giới
có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình phát triển của Việt Nam nói
chung và của TPHCM nói riêng.
Mặc dù giá dầu thô và các mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu của Thành phố
tăng lên nhiều so với những năm
trước đã phần nào giúp cho nguồn thu
của Thành phố có chuyển biến tích
cực hơn so với năm 2017, nhưng
những biến động trong cả mặt kinh tế
lẫn chính trị ở Mỹ và Trung Quốc có
thể khiến thị trường xuất nhập khẩu
của Thành phố cũng như cơ hội tiếp
cận thị trường xuất khẩu sản phẩm và
thu hút các nguồn vốn đầu tư mới
nhiều khả năng bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Ngoài ra, bất kể những biến
động trong cải cách thì chính sách tiếp
tục tìm kiếm các thỏa thuận thương
mại tự do của EU sẽ đem lại nhiều lợi
ích thương mại cho Thành phố nhờ
vào những hiệp định quan trọng trong
tương lai, trở Thành nguồn động lực
chủ yếu để đẩy mạnh sự phát triển
của nền kinh tế thành phố nói riêng và
cả nước nói chung.
2. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC
Sau nhiều lo ngại khi Mỹ rút khỏi Hiệp
định Đối tác chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP), những diễn biến
trong vấn đề đàm phán, hợp tác quốc
tế trong thời gian qua đang diễn ra
khá thuận lợi khi các nước thành viên
còn lại của TPP ra tuyên bố chung
thống nhất đổi tên TPP thành Hiệp
định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) vào
tháng 11/2017, và đã chính thức ký
kết vào tháng 3/2018. Tính đến cuối
năm 2018, Việt Nam đã phê chuẩn 12
FTA song phương và đa phương
trong khu vực và trên thế giới và đang
trong quá trình đàm phán 4 hiệp định
thương mại khác. Như vậy, hiện có
khoảng 60 nền kinh tế đã và đang
đàm phán FTA với Việt Nam, bao gồm
các đối tác thương mại chủ chốt nắm
giữ khoảng 90% kim ngạch thương
mại của Việt Nam (An Nhi, 2018).
Nhìn chung, có thể thấy những nỗ lực
rất lớn của chính phủ trong việc đẩy
mạnh hợp tác quốc tế, được xem như
là một yếu tố quan trọng để tăng
trưởng và phát triển kinh tế trong thời
gian qua thông qua những thành công
trong quá trình đàm phán hợp tác
thương mại. Kết quả đem lại là sự mở
rộng thị trường xuất khẩu, giúp Việt
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
15
Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá
trị, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng tích cực, nâng cao năng lực
cạnh tranh, tạo thêm nhiều việc làm,
nâng cao công nghệ tri thức, kinh
nghiệm quản lý Tốc độ tăng trưởng
của Việt Nam năm 2018 đã vượt mục
tiêu đề ra, đạt 7,08%, mức tăng
trưởng cao nhất trong 8 năm qua
(Tổng cục Thống kê, 2018). Tuy nhiên,
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn
còn bộc lộ những vấn đề cần phải giải
quyết. Phần lớn doanh nghiệp trong
nước vẫn chưa được trang bị đầy đủ
cả về năng lực lẫn tiềm lực để cạnh
tranh với doanh nghiệp nước ngoài.
Lực lượng lao động chưa đủ khả năng
để đáp ứng nhu cầu lao động chất
lượng cao cũng như đáp ứng yêu cầu
tối thiểu để đảm bảo cho hoạt động
sản xuất hàng hóa công nghệ cao. Đội
ngũ cán bộ, viên chức trong bộ máy
nhà nước chưa thực sự đáp ứng tốt
yêu cần quản lý mới chiếm tỷ lệ đáng
kể. Điều này khiến cho viễn cảnh
doanh nghiệp nội địa bị áp đảo bởi
các công ty nước ngoài là hoàn toàn
có thể xảy ra trong tương lai. Chính vì
lý do đó, Việt Nam nói chung và
TPHCM nói riêng buộc phải có những
điều chỉnh và thay đổi rõ ràng, trong
đó quan trọng nhất là cơ cấu kinh tế
phải có sự thay đổi căn bản, cần giảm
dần sự phụ thuộc trong sản xuất vào
các nước khác như Trung Quốc và
phù hợp với xu hướng phát triển
chung của thế giới trong tương lai.
Những điểm sáng về hội nhập kinh tế
của đất nước trong năm qua đã và
đang đem lại triển vọng phát triển cho
Thành phố. Mặc dù vậy, TPHCM vẫn
phải có những điều chỉnh phù hợp
nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
các doanh nghiệp được tiếp cận, học
hỏi, hỗ trợ với những phương thức
sản xuất mới hiện đại, qua đó có thể
tự đổi mới mô hình hoạt động, trở nên
năng động và phù hợp hơn với nền
kinh tế thế giới. Đồng thời, việc tăng
cường đầu tư phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ để làm giảm dần đi
sự phụ thuộc vào các quốc gia trên
thế giới là vô cùng cần thiết và mang
yếu tố quyết định đến sự phát triển
bền vững của nền kinh tế nội địa.
3. KINH TẾ TPHCM NĂM 2018 - MỘT
SỐ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ
NGUYÊN NHÂN
Kinh tế TPHCM năm 2017 đạt một số
thành tựu trong phát triển, trong đó có
mức tăng trưởng GRDP (tổng sản
phẩm trên địa bàn) đạt 8,25%, cao
hơn mức 8,05% của năm 2016. Ngoài
ra phải kể đến thu hút vốn FDI (vốn
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài) cấp
phép mới của TPHCM tăng 2,6 lần so
với năm 2016 và đứng thứ ba toàn
quốc về thu hút vốn đầu tư đăng ký.
Tổng thu ngân sách nhà nước toàn
Thành phố cũng đạt con số ấn tượng
348 nghìn tỷ đồng vượt dự toán 2016,
đạt 100,03% kế hoạch (Cục Thống kê
TPHCM, 2017). Tuy nhiên, kinh tế
Thành phố cũng bộc lộ ngày càng rõ
ràng những điểm yếu và khó khăn
như tăng trưởng vẫn dựa vào vốn và
lao động, công nghiệp phụ trợ phát triển
chậm, đổi mới khoa học công nghệ
HOÀNG THỊ THU HUYỀN – KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
16
trong sản xuất còn ở khoảng cách xa
so với thế giới, thiếu vốn đầu tư công,
quản lý và sử dụng đất đai còn nhiều
bất cập. Bước sang năm 2018, kinh tế
Thành phố phát triển trong bối cảnh
quốc tế và khu vực có nhiều biến
chuyển nhanh, phức tạp. Kinh tế thế
giới tuy tăng trưởng tốt hơn nhưng
vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro, bất
trắc do bất ổn tài chính - tiền tệ, bất ổn
địa chính trị và an ninh quốc tế, trào
lưu dân túy và chủ nghĩa bảo hộ. Liên
kết kinh tế - thương mại khu vực và
toàn cầu tiếp tục được duy trì, song
hợp tác quốc tế và tự do thương mại
gặp phải những khó khăn không nhỏ
khi các nước đều có nhu cầu đảm bảo
động lực tăng trưởng cần thiết và
thích ứng một cách hiệu quả với
những đòi hỏi mới của cách mạng
công nghiệp lần thứ 4. Bên cạnh đó,
kết quả của công cuộc chống tham
nhũng là hàng loạt sai phạm về đất
đai bị xử lý triệt để, cùng với việc hạn
chế nguồn lực đầu tư công đã phần
nào ảnh hưởng đến sự phát triển của
Thành phố. “Trong khi đó, nguồn lực
cho đầu tư phát triển của TPHCM tiếp
tục gặp khó khăn, do nguồn thu ngân
sách để lại cho Thành phố chỉ 18%;
tạm dừng dùng tài sản công thanh toán
cho nhà đầu tư dự án BOT; tiến độ
giải ngân cho các dự án trọng điểm
như tuyến metro Bến Thành - Suối
Tiên, Bến Thành - Tham Lương gặp
vướng mắc” (Kiều Phong, 2018).
Trong bối cảnh ấy, số liệu của Cục
Thống kê TPHCM cho thấy kinh tế
Thành phố đạt được một số thành
tựu, bên cạnh những hạn chế trong
phát triển của năm 2018 (kể cả một số
hạn chế đã có nguồn gốc từ những
năm trước).
Thành tựu
Theo Cục Thống kê TPHCM, về tình
hình kinh tế xã hội tháng 12 năm 2018:
. GRDP tiếp tục tăng trưởng với mức
8,3%, đạt mục tiêu đề ra, trong điều
kiện nhiều biến động và khó khăn của
năm 2018 (mức tăng tương đương
với năm 2017 (8,25%)).
. Cơ cấu kinh tế vẫn tiếp tục chuyển
dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ
trọng khu vực dịch vụ, giảm tỷ trọng
khu vực công nghiệp và nông nghiệp.
Năm 2018, cơ cấu dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp có tỷ trọng
tương ứng 62,4% - 22,9% - 0,7%.
Trong đó, khu vực dịch vụ tăng 8,4%,
công nghiệp - xây dựng 8,1%, nông
nghiệp 6,2%, trong đó: 9 nhóm ngành
dịch vụ trọng điểm tăng trưởng khá,
chiếm 57,1% GRDP.
. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
tăng so với năm 2017 (20,3% so với
18,4%), trong đó của khu vực ngoài
nhà nước tăng cao hơn khu vực nhà
nước (22,4% so với 8,3%).
. Chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp (bình
quân cả năm 2018 tăng 3,05%).
Hạn chế
Tuy đạt được một số chỉ tiêu đã nêu,
nhưng phải thừa nhận tốc độ tăng
trưởng của Thành phố đã không được
như kỳ vọng, một số chỉ tiêu đã không
đạt như mong muốn:
. Tăng trưởng GRDP đạt mức 8,3%,
đây là mức tăng trưởng đạt mục tiêu
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
17
đề ra, nhưng là mức tăng trưởng
chưa đạt kỳ vọng và không tương
xứng với một thành phố đứng đầu về
phát triển kinh tế của cả nước. Có thể
thấy điều này khi nhìn vào tốc độ tăng
trưởng của Thành phố trong những
năm gần đây. Theo số liệu có ý nghĩa
thống kê, từ mức tăng trưởng 10,30%
năm 2011 đến năm 2018 mức tăng
trưởng của Thành phố chỉ đạt 8,30%,
trong khi tăng trưởng chung của cả
nước tăng từ 6,24% năm 2011 lên
7,08% năm 2018, xấp xỉ mức tăng
trưởng của TPHCM.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 7,5% thấp
hơn năm 2017 (16,1%), trong đó:
thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỷ
trọng 10%, giảm 11,7%; thành phần
kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng
32,2%, chỉ tăng 1,4%; xuất khẩu tập
trung chủ yếu vào thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm tỷ
trọng 57,8%, tăng 7,5%, thể hiện kim
ngạch xuất khẩu của Thành phố đang
phụ thuộc rất nhiều vào các doanh
nghiệp FDI (Cục Thống kê TPHCM,
2018).
- Nhập khẩu tăng 8,8%, cho thấy tình
trạng nhập siêu vẫn đang tồn tại, trong
đó phụ thuộc ngày càng lớn vào thị
trường Trung Quốc với tỷ trọng 32,4%,
tăng 19,8% so với năm 2017.
- Nhóm 9 ngành dịch vụ chủ yếu gần
như tăng trưởng dàn hàng ngang,
không có ngành thực sự “mũi nhọn”,
mức tăng trưởng đều dưới 10%:
thương mại 9,5%; vận tải kho bãi
8,5%; du lịch 9,2%; khoa học công
nghệ 7,7%; y tế 7,6%; giáo dục - đào
tạo 9,21%; thông tin truyền thông 7,5;
tài chính - ngân hàng 8,8%; bất động
sản 6,6%.
- Sự phát triển ở nhóm 4 ngành công
nghiệp chủ yếu giảm sút so với năm
2017: năm 2017 là 12,78% thì năm
2018 chỉ còn 7,24%. Trong đó ngành
hóa dược tăng trưởng thấp nhất, cũng
là ngành nên xem xét có tiếp tục là
ngành “mũi nhọn” nữa hay không khi
cần lưu ý đến khía cạnh tác động môi
trường.
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước
phát triển kém, đa số các chỉ số tăng
thấp hoặc âm so với cùng kỳ. Trong
tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ,
kinh tế nhà nước chỉ chiếm 6,3% và
chỉ tăng 2,3% so với cùng kỳ năm
trước (mức tăng thấp nhất so với khu
vực ngoài nhà nước và FDI). Khu vực
kinh tế nhà nước cũng chiếm tỷ trọng
nhỏ nhất (10%) trong tổng kim ngạch
Bảng 1. Khoảng cách về tăng trưởng GDP của TPHCM với cả nước 2011 - 2018
2011 2013 2014 2015 2016 2017 2018
TPHCM (%) 10,30 9,30 9,6 9,8 8,05 8,25 8,30
Cả nước (%) 6,24 5,42 5,98 6,68 6,21 6,81 7,08
TPHCM/cả nước (lần) 1,65 1,72 1,61 1,47 1,30 1,21 1,17
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê TPHCM, 2018.
HOÀNG THỊ THU HUYỀN – KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
18
xuất khẩu của Thành phố và giảm
11,7% so với năm 2017.
- Doanh nghiệp giải thể và ngưng
hoạt động tăng cao hơn so với năm
2017: Năm 2018 có 3.673 doanh
nghiệp giải thể, tăng 19,8%, doanh
nghiệp ngưng hoạt động là 6.277 đơn
vị, tăng 7,4%. So với năm 2017 có
3.035 doanh nghiệp giải thể, 5.790
doanh nghiệp ngưng hoạt động.
Trong khi số doanh nghiệp đăng ký
mới chỉ tăng 3,8% về số lượng,
nhưng lại giảm 10,3% về tổng số vốn
đăng ký (trong đó năm 2017 so với
2016 số doanh nghiệp thành lập mới
tăng 14,9% về số giấy phép và gấp
đôi về vốn). Điều này cho thấy doanh
nghiệp khu vực tư nhân đang gặp
khó khăn.
- Thu hút đầu tư nước ngoài giảm sút,
đặc biệt về tổng vốn cấp phép chỉ
bằng 33,5% so với năm 2017.
- Dư nợ tín dụng tăng 13,4% thấp hơn
mức tăng năm 2017 (17,27%).
Thu ngân sách mặc dù đạt 97,6% dự
toán, tăng 6,6%, nhưng thu nội địa
tăng 7,8%; thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu giảm 1%, chỉ thu từ dầu
Bảng 2. Chỉ số sản xuất của 4 ngành công nghiệp trọng điểm năm 2018 (%)
Tháng 12/2018 so
với tháng 12/2017
Năm 2018 so
với năm 2017
Tổng số 99,97 107,24
A. Ngành chế biến lương thực, thực phẩm, đồ
uống
102,71 106,92
10- Sản xuất chế biến thực phẩm 102,13 108,22
11- Sản xuất đồ uống 103,71 104,65
B. Ngành hóa dược 101,82 102,87
20- Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 96,78 101,19
21- Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 100,50 97,97
22- Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic 106,57 105,96
C. Ngành sản xuất hàng điện tử 98,80 115,54
26- Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản
phẩm quang học
98,80 115,54
D. Nhóm ngành cơ khí 95,56 107,60
25- Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy
móc, thiết bị)
103,14 107,69
27- Sản xuất thiết bị điện 100,96 111,27
28- Sản xuất máy móc, thiết bị chưa phân vào đâu 105,21 111,55
29- Sản xuất xe có động cơ 67,13 94,94
30- Sản xuất phương tiện vận tải khác 86,72 121,70
Nguồn: Cục Thống kê TPHCM, 2018.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
19
thô tăng 44,7% so cùng kỳ. Mặt khác,
thu từ khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm tỷ trọng cao nhất nhưng
đạt 82,8% dự toán, tăng 7,3% so
cùng kỳ là tỷ lệ tăng thấp nhất so với
2 khu vực nhà nước và ngoài nhà
nước.
- Chi cho đầu tư phát triển giảm sút
nghiêm trọng, chỉ đạt 55,1% dự toán
và chỉ bằng 89,7% so với năm 2017
(âm 10,3%), thể hiện sự khó khăn về
nguồn vốn đầu tư công của Thành
phố. Đây là hệ quả của việc nguồn thu
được giữ lại để thực hiện xây
dựng cơ sở hạ tầng là quá thấp
so với nhu cầu phát triển của
Thành phố (TPHCM chỉ được
giữ lại 18% thay vì 23% tổng số
thu ngân sách như các năm
trước) (Cục Thống kê TPHCM,
2018).
Nguyên nhân
Có thể chỉ ra một số nguyên
nhân dẫn đến hạn chế trong
phát triển kinh tế của Thành
phố năm 2018 như: năng lực
doanh nghiệp khu vực tư nhân
yếu; thiếu vốn đầu tư công; rất
nhiều ngành “mũi nhọn” dẫn
đến chưa “nhọn”; lãng phí
nguồn tài nguyên đất; chưa tìm thêm
được động lực cho tăng trưởng.
Đây không phải là những nguyên
nhân mới xuất hiện mà đã tồn tại khá
lâu, trong đó, có 2 nguyên nhân, cũng
là 2 vấn đề mà Thành phố cần tập
trung giải quyết là năng lực khu vực tư
nhân và vốn đầu tư công.
Về năng lực doanh nghiệp khu vực
tư nhân
Khu vực tư nhân TPHCM giữ vai trò
quan trọng đối với kinh tế Thành phố,
với khoảng 235.566 doanh nghiệp
đang hoạt động năm 2018(1) và
khoảng 250.000 hộ kinh doanh cá thể
(theo số liệu của cơ quan thuế năm
2018) (A. Hồng, 2018). Khu vực này
đóng góp tới 60% GDP của Thành
phố (Hoài Nam, 2017), đồng thời là
khu vực có tỷ trọng thu ngân sách cao
và có xu hướng tăng lên trong 5 năm
gần đây (Bảng 3).
Tuy nhiên, có thể thấy năng lực của
khu vực tư nhân, nhất là của các
doanh nghiệp còn khá yếu và gặp
nhiều khó khăn, thể hiện qua:
Quy mô vốn và hiệu quả kinh doanh
Theo báo cáo tại Hội nghị tổng kết
Tổng điều tra kinh tế năm 2017 (Thúy
Hải, 2018), số doanh nghiệp ngoài nhà
Bảng 3. Thu ngân sách Khu vực tư nhân TPHCM
2014-2018
Năm
Tỷ trọng thu ngân sách
của khu vực tư nhân/
tổng thu 3 khu vực
*
(%)
Tỷ lệ tăng so
với năm
trước (%)
2014 33,83 3,40
2015 32,36 18,90
2016 32,35 28,15
2017 37,98 18,24
2018 38,76 20,30
Ghi chú: * 3 khu vực: doanh nghiệp nhà nước, khu
vực ngoài nhà nước (tư nhân), khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài.
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Cục Thống kê
TPHCM, 2018.
HOÀNG THỊ THU HUYỀN – KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
20
nước trên địa bàn Thành phố là
167.129 doanh nghiệp, tăng
64,75% so với năm 2011; quy mô
tổng nguồn vốn trung bình khoảng
37 tỷ đồng (6.201.020 tỷ đồng/
167.129 doanh nghiệp). Trong khi,
quy mô doanh nghiệp chủ yếu là
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
chiếm 97,8% thì vốn thật sự doanh
nghiệp rất rất nhỏ (theo quy định về
tổng nguồn vốn, doanh nghiệp
được gọi là siêu nhỏ: dưới 3 tỷ
đồng, nhỏ: dưới 20 hoặc 50 tỷ đồng
tùy lĩnh vực).
Về hiệu quả thông qua chỉ tiêu lợi
nhuận còn khá hạn chế. Cụ thể, trong
tổng số 171.655 doanh nghiệp thì chỉ
có 64.607 doanh nghiệp có lãi, chiếm
37,81% và có 96.963 doanh nghiệp bị
thua lỗ, chiếm 56,49%; số còn lại là
các doanh nghiệp kinh doanh hòa vốn
(5,7%). Trong đó, số lượng doanh
nghiệp FDI chỉ có 4.169 doanh nghiệp,
vốn nhà nước chỉ có 357 doanh
nghiệp thì có thể thấy rằng doanh
nghiệp thua lỗ khu vực tư nhân với
con số rất lớn.
Nghiêm trọng hơn, tỷ lệ các doanh
nghiệp thua lỗ sau 5 năm có xu
hướng tăng lên, đặc biệt là doanh
nghiệp ngoài nhà nước đã tăng 2,87%,
số doanh nghiệp có lãi lại giảm từ
43,30% năm 2011 xuống còn 37,41%
năm 2016.
Số doanh nghiệp giải thể và ngưng
hoạt động
Số liệu những năm gần đây cho thấy
số doanh nghiệp giải thể và ngưng
hoạt động rất lớn, (mặc dù tỷ lệ doanh
nghiệp giải thể trên số doanh nghiệp
thành lập mới đã có xu hướng giảm
xuống) (Bảng 4).
Xét về số tuyệt đối thì năm 2017
Thành phố đã có 3.035 doanh nghiệp
giải thể, trong đó loại hình công ty
trách nhiệm hữu hạn chiếm 78,9%,
công ty cổ phần chiếm 11,9%, đầu tư
nước ngoài chiếm 3,6%. Bên cạnh đó
có 5.790 doanh nghiệp ngưng hoạt
động, 11.244 doanh nghiệp bỏ địa chỉ
kinh doanh. Tổng cộng doanh nghiệp
ngưng nghỉ hoạt động là 20.069, có
giảm hơn 2016 với tổng số 25.777
doanh nghiệp ngưng nghỉ hoạt động.
Nhưng năm 2018, doanh nghiệp giải
thể và ngưng hoạt động tăng cao hơn
so với năm 2017. Năm 2018 có 3.673
doanh nghiệp giải thể, tăng 19,8%,
doanh nghiệp ngưng hoạt động là
6.277 đơn vị, tăng 7,4%.
Khu vực tư nhân còn yếu và gặp
nhiều khó khăn là thực tế không thể
phủ nhận. Trong khi đó, đây là khu
vực có mức đóng góp vào GDP và
nguồn thu ngân sách cao nhất, giải
quyết công ăn việc làm nhiều nhất.
Bảng 4: Tỷ lệ doanh nghiệp ngừng hoạt
động trên tổng số doanh nghiệp thành lập
mới
2013 2014 2015 2016 2017
Doanh nghiệp
ngừng hoạt
động trên tổng
số doanh
nghiệp thành
lập mới (%)
82,5 95,9 75,8 61,1 49,5
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Cục Thống
kê TPHCM, 2018.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
21
Vấn đề vốn đầu tư công
“Từ năm 2010 đến nay, sự phát triển
của Thành phố đã bộc lộ sự giảm tốc,
thậm chí tụt hậu so với cả nước ở một
số lĩnh vực (thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, xuất khẩu, tính hấp dẫn
của môi trường cạnh tranh), các yếu
kém về giao thông, ngập nước, chất
lượng môi trường có xu hướng gia
tăng” (Hoàng Anh Tuấn, 2017). Đây là
một thực tế có liên quan khá mật thiết
đến vấn đề thiếu vốn đầu tư công.
Đầu tư công, nếu chi đúng, sẽ không
chỉ kích thích kinh tế ngắn hạn mà còn
tạo ra nền tảng tăng trưởng dài hạn
qua đầu tư vào con người, năng lực
công nghệ và hạ tầng. Thiếu vốn đầu
tư cho hạ tầng đô thị, chống ngập và
biến đổi khí hậu là một thực trạng
nhiều năm qua của TPHCM. Tổng nhu
cầu vốn đầu tư phát triển của Thành
phố giai đoạn 2016 - 2020 ước
khoảng 850.000 tỷ đồng nhưng khả
năng ngân sách Thành phố chỉ đáp
ứng 20%. Riêng nhu cầu đầu tư cho
các công trình chống ngập là 96.327
tỷ đồng tuy nhiên nguồn lực hiện nay
chỉ đáp ứng được 28% (Huy Khánh,
2018).
Lý do lớn nhất dẫn đến ngân sách
Thành phố thiếu vốn đầu tư là tỷ lệ %
thu ngân sách được giữ lại quá nhỏ
và liên tục giảm xuống. Đầu thập niên
1980, TPHCM được giữ lại hơn 40%
nguồn thu ngân sách, đến đầu thập
niên 1990 dao động khoảng 30%,
sau đó giảm xuống 23% và giai đoạn
2017 - 2020 chỉ còn được giữ lại 18%.
Con số này chưa bằng ½ so với Hà
Nội (được giữ lại 49%). Bên cạnh đó,
ngân sách trung ương cấp lại cho
Thành phố cũng chỉ bằng ½ Hà Nội,
đơn cử năm 2017, Hà Nội được cấp
14.200 tỷ đồng, TPHCM chỉ có 7.700
tỷ đồng (Nguyễn Tuyền, 2017).
Mặc dù đã có Nghị quyết 54 của Quốc
hội về cơ chế chính sách đặc thù đối
với TPHCM, nhưng thực sự mới bắt
đầu được triển khai từ tháng 3/2018,
do đó cũng chưa đóng góp được
nhiều vào việc tăng nguồn thu cho
Thành phố trong năm 2018.
4. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TPHCM
Năm 2019 cũng như các năm tiếp
theo, TPHCM cần có mức tăng trưởng
kinh tế cao hơn, không để mức tăng
trưởng chỉ chưa đến 1,2 lần so với
mức tăng trưởng chung cả nước như
năm 2018. Đây là yêu cầu cần thiết
của một thành phố đầu tàu về kinh tế
của cả nước, hơn thế nữa còn là yêu
cầu cấp bách để ngăn chặn nguy cơ
tụt hậu so với một số địa phương
khác. Tuy nhiên, tăng trưởng cao
không đồng nghĩa với tăng trưởng
thiếu bền vững, do vậy Thành phố cần
phải thay đổi mạnh mẽ để đạt được
điều đó.
Từ kết quả của những phân tích về
bối cảnh phát triển trong nước và
quốc tế, những hạn chế và nguyên
nhân trong phát triển kinh tế của
Thành phố năm 2018, nhìn lại các
chính sách đã thực hiện, dưới đây là
một số khuyến nghị cho phát triển kinh
tế TPHCM năm 2019 và những năm
tiếp theo:
HOÀNG THỊ THU HUYỀN – KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
22
(1) Đối với khu vực tư nhân
- Chương trình đột phá mà Thành phố
đang thực hiện về mặt kinh tế cần hỗ
trợ thực sự mạnh mẽ hơn nữa cho
khu vực kinh tế tư nhân:
+ Hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân đang
hoạt động: tiếp tục thực hiện chương
trình “Kết nối doanh nghiệp - ngân
hàng”, chương trình “Tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp”, chương
trình “cho vay bình ổn giá” với sự đổi
mới, có thể là bảo lãnh của Thành
phố cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
thực sự có phương án kinh doanh tốt,
làm ăn chân chính để số lượng
doanh nghiệp được hưởng hỗ trợ vay
nhiều hơn so với con số khiêm tốn
hiện nay(2).
+ Thành phố phải đồng hành cùng
doanh nghiệp trong quá trình tham gia
Hiệp định thương mại, đặc biệt là Hiệp
định CPTPP bằng sự hỗ trợ thật sự
trên khía cạnh luật, như thủ tục, các
biện pháp hạn chế rủi ro, trong các vụ
tranh chấp, kiện tụng, các hỗ trợ
khác để phù hợp với điều khoản của
các hiệp định.
+ Thúc đẩy khởi nghiệp: Thành phố
cần có những chính sách hỗ trợ thúc
đẩy để khởi nghiệp, không chỉ là thúc
đẩy tinh thần khởi nghiệp, mà phải
ươm mầm khởi và thương mại hóa
sản phẩm khởi nghiệp; tiếp tục
chương trình hỗ trợ cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp với mức tối đa là 2
tỷ đồng (tuy nhiên chỉ tập trung cho
những ý tưởng đã hình thành sản
phẩm, có tiềm năng lớn), cần có gói
hỗ trợ nhỏ nuôi dưỡng nhóm khởi
nghiệp có ý tưởng ban đầu tốt.
- Thành phố cần thúc đẩy cổ phần hóa
và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước
nhanh và hiệu quả hơn.
- Thành phố cần có chính sách hỗ trợ
tích cực chuyển đổi hộ kinh doanh đủ
điều kiện lên doanh nghiệp.
(2) Đối với vấn đề vốn đầu tư công
- Quốc hội và Chính phủ cần chú
trọng hơn nữa vai trò đầu tàu kinh tế
của TPHCM, phân cấp mạnh cho
Thành phố thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh
một số ngành - lĩnh vực cho phù hợp
với đặc thù và cụ thể hóa các quy định
sát với thực tế địa phương.
- Quốc hội và Chính phủ xem xét tỷ lệ
thu ngân sách thành phố được giữ lại
cao hơn để đầu tư phát triển, ít nhất
cũng là 30% thay vì 18% như hiện nay.
- Thành phố cần tiếp tục triển khai
nhanh, vận dụng sáng tạo, cụ thể hóa
Nghị quyết 54 vì thời hạn nghị quyết là
5 năm. Sau đó nếu kết quả tốt thì có
thể ban hành luật riêng cho Thành
phố, ngược lại không tốt thì có thể
xem xét, quyết định dừng việc thí
điểm cơ chế, chính sách đặc thù này.
- Thành phố cần đẩy mạnh các hình
thức hợp tác công tư trong các dự án
về hạ tầng đô thị để giải bài toán khó
khăn về vốn.
(3) Đối với các ngành kinh tế “mũi
nhọn”
- Nhóm 4 ngành công nghiệp: Thay vì
nhóm ngành là các sản phẩm cụ thể
có tính cạnh tranh và có hàm lượng
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
23
công nghệ cao. Tháng 10/2018
Thành phố đã công bố 7 nhóm sản
phẩm chủ lực(3), tuy nhiên, số lượng
sản phẩm chủ lực vẫn quá nhiều và
một số nhóm sản phẩm còn chung
chung.
- Nhóm 9 ngành dịch vụ “mũi nhọn”
Thành phố nên xác định lại với số
lượng ít ngành mũi nhọn hơn, nên tập
trung các ngành: dịch vụ kho bãi -
logistics, du lịch và dịch vụ cao cấp
trong các ngành tài chính, giáo dục,
khoa học cộng nghệ, y tế.
(4) Về tài nguyên đất: Rà soát toàn bộ
quỹ đất, đất dự án không khả thi, sai
phạm, tiếp tục thu hồi dự án “treo”,
quá thời hạn triển khai. Cân nhắc việc
sử dụng nguồn đất thu hồi ở vùng
ngoại vi cho phát triển nông nghiệp đô
thị.
(5) Cải thiện chỉ số PAPI: Coi việc cải
thiện chỉ số quản trị và hành chính
công (PAPI) như một điểm nhấn thu
hút đầu tư, tăng cường niềm tin đối
với doanh nghiệp và là một động lực
cho phát triển.
CHÚ THÍCH
(1)
Tính toán theo số liệu khảo sát kinh tế của Cục Thống kê TPHCM năm 2017 và số liệu
thống kê về số doanh nghiệp thành lập mới, doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể năm
2017, 2018 thì TPHCM có khoảng 235.566 doanh nghiệp đang hoạt động tính đến cuối năm
2018 (tổng số doanh nghiệp còn trên hệ thống đăng ký kinh doanh là 371.955 doanh nghiệp).
(2)
Theo báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội 2018 của Ủy ban Nhân dân TPHCM, chương trình
Kết nối doanh nghiệp - ngân hàng chỉ có 8.414 doanh nghiệp và chương trình Cho vay bình
ổn giá chỉ có 22 doanh nghiệp được vay vốn (trên tổng số khoảng 235.566 doanh nghiệp
đang hoạt động năm 2018).
(3)
7 nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực gồm: sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (khuôn mẫu
chính xác cao, kết cấu thép siêu cường, siêu trọng, đúc phôi chi tiết máy, linh kiện tiêu
chuẩn); sản phẩm thiết bị điện (thiết bị, dây và cáp điện); sản phẩm từ nhựa - cao su (bao bì
nhựa đa lớp, nhựa xây dựng, kỹ thuật); sản phẩm thực phẩm chế biến (sữa và các sản
phẩm từ sữa, thực phẩm chế biến, thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản...); sản phẩm đồ
uống (nước giải khát, nước uống đóng chai); sản phẩm điện tử - công nghệ thông tin; sản
phẩm trang phục may sẵn.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. A. Hồng. 2018. “Mới hơn 3.000/250.000 hộ kinh doanh ở TPHCM chịu lên doanh
nghiệp”. https://tuoitre.vn/moi-hon-3-000-250-000-ho-kinh-doanh-o-tp-hcm-chiu-len-doa
nh-nghiep-20180609181824474.htm, truy cập ngày 25/12/2018.
2. An Nhi. 2018. “Khoảng 60 nền kinh tế đang đàm phán FTA với Việt Nam”.
fta-voi-viet-nam.html, truy cập ngày 25/3/2018.
3. Cục Thống kê TPHCM. 2017. Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12/2017.
4. Cục Thống kê TPHCM. 2018. Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12/2018. http://
www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=42163&idcm=224.
HOÀNG THỊ THU HUYỀN – KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
24
5. Đức Cường - Hồng Khang. 2017. “Bầu cứ Nhật Bản: Đảng Dân chủ tự do thắng áp đảo”.
https://vtv.vn/the-gioi/bau-cu-nhat-ban-dang-dan-chu-tu-do-thang-ap-dao-20171023144730
404.htm, truy cập ngày 28/5/2018.
6. Duy Anh. 2018. “Trung Quốc hưởng lợi, Nhật - Hàn kém vui sau hội đàm Trump - Kim”.
https://news.zing.vn/trung-quoc-huong-loi-nhat-han-kem-vui-sau-hoi-dam-trump-kim-post85
1254.html, truy cập ngày 26/6/2018.
7. Hoài Nam. 2017. “Kinh tế tư nhân: Đầu tàu kinh tế của TPHCM”. sggp.org.
vn/kinh-te-tu-nhan-dau-tau-kinh-te-cua-tphcm-bai-1-462896.html, truy cập ngày 2/10/2018.
8. Hoàng Anh Tuấn. 2017. “Bí thư Thành ủy: Nghị quyết 54 động lực phát triển mới cho
TPHCM. https://www.vietnamplus.vn/bi-thu-thanh-uy-nghi-quyet-54-dong-luc-phat-trien-moi-
cho-tphcm/476932.vnp, truy cập ngày 17/10/2018.
9. Huy Khánh. 2018. “TPHCM: thiếu vốn đầu tư cho các công trình chống ngập”.
html, truy cập ngày 18/10/2018.
10. Kiều Phong. 2018. “Tăng trưởng trong khó khăn: điểm sáng kinh tế TPHCM”.
sggp.org.vn/tang-truong-trong-kho-khan-diem-sang-kinh-te-tphcm-567162.html, truy cập
ngày 25/12/2018.
11. Ngụy An. 2017. “Mỹ đã rút khỏi TPP và sẽ không thay đổi quyết định”. https://
news.zing.vn/my-da-rut-khoi-tpp-va-se-khong-thay-doi-quyet-dinh-post748167.html, truy cập
ngày 26/6/2018.
12. Ngụy An. 2018. “Canada: Trump sẽ sớm rút Mỹ khỏi NAFTA”. https://news.zing.
vn/canada-trump-se-som-rut-my-khoi-nafta-post810904.html, truy cập ngày 26/6/2018.
13. Nguyễn Tuyền. 2017. “Hà Nội được cấp vốn ngân sách gấp đôi TPHCM”. https://dantri.
com.vn/kinh-doanh/ha-noi-duoc-cap-von-ngan-sach-gap-doi-tphcm-20170702224949487.
htm, truy cập ngày 17/10/2018.
14. Quang Dũng, 2018. “Anh sẽ không trả tiền Brexit nếu không có thỏa thuận tương lai với
EU”. https://vov.vn/the-gioi/anh-se-khong-tra-tien-brexit-neu-khong-co-thoa-thuan-tuong-lai-
voi-eu-790683.vov, truy cập ngày 23/7/2018.
15. Thành An. 2018. “Mối quan hệ Pháp - Đức: Liên minh vì liên minh”.
taichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/nhan-dinh-du-bao/moi-quan-he-phap-duc-lien-minh-vi-lien-
minh-133633.html, truy cập ngày 26/6/2018.
16. Thanh Danh. 2018. “Siêu Ủy ban Trung Quốc giám sát 200 triệu người”.
vn/van-hoa/ho-so-phong-su/sieu-uy-ban-trung-quoc-giam-sat-200-trieu-nguoi-760474.html,
truy cập ngày 25/6/2018.
17. Thông tấn xã Việt Nam. 2018. “Trung Quốc - Hàn Quốc tăng cường hợp tác thương mại”.
https://baotintuc.vn/the-gioi/trung-quoc-han-quoc-tang-cuong-hop-tac-thuong-mai-
20180627225518326.htm, truy cập ngày 25/6/2018.
18. Thúy Hải. 2018. “Tổng điều tra kinh tế năm 2017 tại TPHCM”.
org.vn/tong-dieu-tra-kinh-te-nam-2017-tai-tphcm-so-luong-doanh-nghiep-phat-trien-nhanh-
hieu-qua-thap-493952.html, truy cập ngày 3/10/2018.
19. Tổng cục Thống kê. “Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018”. 2018. https://www.gso.gov.
vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19037.
20. WB. 2018. WB, Global Economic Prospects.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_te_thanh_pho_ho_chi_minh_nam_2018_tang_truong_dat_muc_t.pdf