Trong dài hạn, Trung tâm thông tin và
Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia đưa ra
hai kịch bản: (i) Kịch bản cơ sở: kinh tế vĩ
mô về cơ bản ổn định, tốc độ tăng trưởng
giai đoạn 2021-2025 có thể đạt trung bình
7%/năm, lạm phát 3,5-4,5%, tỷ giá VND/
USD tăng 1,5-2%/năm. Nền kinh tế có sự
chuyển đổi tương đối rõ nét, tuy vẫn chủ
yếu dựa vào những động lực tăng trưởng
cũ, nhưng chất lượng, hiệu quả được cải
thiện hơn. Việt Nam sẽ bước vào nhóm
các quốc gia thu nhập trung bình cao ở
cuối giai đoạn. (ii) Kịch bản cao: đổi mới
mô hình tăng trưởng, sẽ tập trung hơn
vào phát triển khoa học - công nghệ và
đổi mới sáng tạo, thay vì phụ thuộc vào
những động lực tăng trưởng cũ. Theo đó,
tốc độ tăng trưởng có thể đạt mức 7,5%
trong giai đoạn 2021-2025; chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nhanh hơn và chuyển trọng
tâm sang khu vực dịch vụ; lạm phát ở
mức 3,5-4,5%.
Dù lựa chọn kịch bản nào thì thực thi
chính sách vẫn rất cần được lưu ý và cải
thiện mạnh mẽ hơn khi sự quan tâm đối
với cải cách môi trường kinh doanh theo
Nghị quyết 02 của Chính phủ đã ít nhiều
giảm sút; năng suất và chất lượng lao
động tuy được đề cập nhiều, song chưa
có biện pháp mới và cụ thể. Bên cạnh đó,
những nỗ lực hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung, chưa được thực sự truyền tải sâu
sắc vào hệ thống chính sách, tư duy và
hành động của bộ máy nhà nước và nhân
dân; sự hứng khởi với EVFTA và EVIPA
(dù còn chờ phê chuẩn) chưa đi kèm với
tâm thế chuẩn bị kỹ và cụ thể cho các cải
cách thể chế kinh tế liên quan; việc thực
hiện CPTPP còn chậm dù Hiệp định này
đã có hiệu lực. /.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế Việt Nam năm 2019 và triển vọng năm 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
22Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Năm 2019, kinh tế Việt Nam đối mặt 
với nhiều rủi ro và bất ổn gia tăng của 
kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu, 
cũng như một số khó khăn ở trong nước. 
Tuy nhiên, cũng có một số yếu tố thuận 
lợi là công tác điều hành chính sách, cải 
cách kinh tế của đất nước đã thể hiện 
nhiều điểm sáng, đóng góp quan trọng 
vào những kết quả tích cực về kinh tế, 
xã hội.
1. Bức tranh tổng quát về kinh tế 
Việt Nam năm 2019
Tốc độ tăng GDP cả năm đạt 7,02%, 
thấp hơn một chút so với mức tăng năm 
2018 (7,08%), vượt xa so dự báo của 
nhiều tổ chức quốc tế (6,8%) (Hình 1).
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2019
VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2020
TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh *
Tóm tắt: Thông qua các số liệu thống kê thực tế của các cơ quan Nhà nước, bài 
báo trình bày về tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong năm 2019, những kết 
quả đạt được và đưa ra một số nhận xét đánh giá, đồng thời giới thiệu hai kịch bản dự 
báo triển vọng của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2020, cũng như các biện pháp cần 
quan tâm.
Từ khóa: Kinh tế, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, CPI, GDP, cơ cấu kinh tế.
Abstract: The article presents the economic development by the year 2019 and 
provides two forecast scenarios for Vietnam’s economy by the year 2020.
Keywords: Economy, economic (-al), economic growth, inflation, economic struture.
* Nguyên Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu 
 quản lý kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Hình 1. Tốc độ tăng trưởng GDP 2009 – 2019
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
23Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Tốc độ tăng trưởng của khu vực nông, 
lâm nghiệp và thủy sản chậm lại, chỉ đạt 
2,01%, đóng góp 4,6% vào mức tăng 
chung, thấp nhất trong vòng ba năm trở 
lại đây. Sản xuất nông nghiệp gặp nhiều 
khó khăn về thị trường tiêu thụ nông sản 
và chưa tận dụng được cơ hội xuất khẩu 
từ các hiệp định tự do thương mại mà 
Việt Nam tham gia, đặc biệt là tác động 
xấu kéo dài của dịch tả lợn châu Phi tới 
ngành chăn nuôi. Riêng ngành thủy sản 
(cả trong lĩnh vực nuôi trồng và khai thác) 
tăng trưởng khá tốt, đạt 6,12%.
Khu vực công nghiệp - xây dựng tiếp 
tục là động lực tăng trưởng của nền kinh 
tế, với tốc độ tăng giá trị gia tăng là 8,9%, 
đóng góp 50,4% vào tăng trưởng chung 
của nền kinh tế. Riêng ngành công nghiệp 
chế biến, chế tạo tăng 11,29%. Đáng lưu 
ý là sau ba năm sụt giảm liên tục, ngành 
khai khoáng tăng trưởng dương, phần nào 
bù đắp cho sự sụt giảm của khai thác dầu 
thô, nhưng gây ra lo ngại về việc quay trở 
lại mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào 
khai thác và xuất khẩu khoáng sản như 
giai đoạn trước năm 2016.
Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch 
vụ đạt 7,3%, đóng góp 45% vào mức tăng 
trưởng chung của nền kinh tế. Các ngành 
dịch vụ thị trường có mức tăng khá, như: 
ngành vận tải, kho bãi tăng 9,12%; bán 
buôn và bán lẻ tăng 8,82%; hoạt động tài 
chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,62%. 
Cơ cấu kinh tế năm 2019 có chuyển 
biến tích cực với tỷ trọng khu vực nông, 
lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống 
13,96% GDP, so với mức 14,68% của năm 
2018; tỷ trọng của khu vực công nghiệp 
và xây dựng chiếm 34,49%, của khu vực 
dịch vụ chiếm 41,64% và của thuế sản 
phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91%. 
Chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng dần trở 
lại: tháng 12/2019 tăng 1,4% so với tháng 
trước, mức tăng cao nhất trong 9 năm qua; 
tính chung quý IV/2019 tăng 2,01% so 
với quý trước và tăng 3,66% so với quý 
IV/2018; bình quân năm 2019 tăng 2,79% 
so với mức bình quân năm 2018, dưới mục 
tiêu Quốc hội đề ra và cũng là mức tăng 
bình quân năm thấp nhất trong 3 năm qua. 
Các yếu tố chủ yếu tác động tới CPI gồm: 
điều chỉnh tăng giá một số nhóm hàng do 
Nhà nước quản lý giá; điều chỉnh giảm 3 
lần liên tiếp giá xăng dầu; tăng giá nhóm 
hàng lương thực - thực phẩm là cao nhất 
(đạt 3,42%) chủ yếu do thiếu hụt nguồn 
cung thịt lợn vì nạn dịch tả Châu phi. Lạm 
phát cơ bản bình quân năm 2019 tăng 
2,01% so với bình quân năm 2018.
Tính đến ngày 20/12/2019, tổng 
phương tiện thanh toán (M2) tăng 12,1% 
so với cuối năm 2018 (cùng kỳ năm 2018 
tăng 11,3%); huy động vốn của các tổ 
chức tín dụng tăng 12,5% (cùng kỳ năm 
2018 tăng 11,5%); tăng trưởng tín dụng 
của nền kinh tế tăng 12,1% (cùng kỳ năm 
2018 tăng 13,3%). Tỷ giá VNĐ/USD ổn 
định hơn so với năm 2018. 
Năm 2019, vốn đầu tư toàn xã hội thực 
hiện theo giá hiện hành ước đạt 2.046,8 
nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm 
trước và bằng 33,9% GDP, bao gồm: vốn 
khu vực nhà nước đạt 634,9 nghìn tỷ đồng, 
chiếm 31% tổng vốn và tăng 2,6% so với 
năm trước; khu vực ngoài nhà nước đạt 
942,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 46% và tăng 
17,3% - là một điểm sáng trong hoạt động 
đầu tư; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài đạt 469,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 
23% và tăng 7,9% với sự dịch chuyển của 
một số đối tác quan trọng, như Trung Quốc 
(kể cả Hồng Kông): 10,26 tỷ USD, chiếm 
32,3% tổng vốn đăng ký, gấp 2,9 lần so với 
cùng kỳ, Hàn Quốc: 5,73 tỷ USD, chiếm 
18% tổng vốn đăng ký, Singapore: 4,5 tỷ 
USD, chiếm 14,1% tổng vốn đăng ký.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
24Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Bảng 1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng 
hóa năm 2019 ước tính đạt 516,96 tỷ 
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng 
hóa đạt 263,45 tỷ USD, tăng 8,1% so với 
năm trước, được thúc đẩy bởi sự phát triển 
mạnh mẽ của khu vực kinh tế trong nước 
trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng 
trưởng tới 17,7%, cao hơn rất nhiều tốc độ 
tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 
(4,2%). Cán cân thương mại hàng hóa năm 
2019 ước tính xuất siêu 9,9 tỷ USD, mức 
cao nhất trong 4 năm liên tiếp xuất siêu. 
Xuất khẩu duy trì tốc độ tăng trưởng 
cao trong bối cảnh kinh tế thế giới và 
thương mại toàn cầu chậm lại. Kim ngạch 
hàng hóa xuất khẩu cả năm ước đạt 263,45 
tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2018, trong 
đó khu vực kinh tế trong nước đạt 82,10 tỷ 
USD, tăng 17,7%, chiếm 31,2% tổng kim 
ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư 
nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 181,35 tỷ 
USD, tăng 4,2%, chiếm 68,8% (tỷ trọng 
giảm 2,5 điểm phần trăm so với năm 
trước). Điều đó cho thấy khá nhiều doanh 
nghiệp trong nước đã khai thác hiệu quả 
một số hiệp định thương mại tự do (FTA), 
đặc biệt đối với những mặt hàng nước ta 
có lợi thế. Trong năm 2019 có 32 mặt 
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ 
USD, chiếm 92,9% tổng kim ngạch xuất 
khẩu (6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 
trên 10 tỷ USD, chiếm 63,4%), trong đó 
điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu 
lớn nhất đạt 51,8 tỷ USD, chiếm 19,7% 
tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 5,3% so 
với năm trước; điện tử, máy tính và linh 
kiện đạt 35,6 tỷ USD, tăng 20,4%; hàng 
dệt may đạt 32,6 tỷ USD, tăng 6,9%; máy 
móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 18,3 
tỷ USD, tăng 11,9%; giày dép đạt 18,3 tỷ 
USD, tăng 12,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 
10,5 tỷ USD, tăng 18,2%.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
25Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Tuy vậy, xuất khẩu của Việt Nam vẫn 
tăng chậm do một số thách thức, như giảm 
sút thương mại toàn cầu nói chung, tiếp tục 
chịu sự cạnh tranh mạnh bởi các nước chú 
trọng hơn thị trường nội địa của họ, việc 
thiết lập các hàng rào kỹ thuật tinh vi hơn 
và gia tăng bảo hộ thương mại, cũng như 
gia tăng các yếu tố chi phí đầu vào (giá 
điện, giá xăng, lương tối thiểu vùng,). 
Năm 2019, kim ngạch hàng hóa nhập 
khẩu ước đạt 253,51 tỷ USD, tăng 7% 
so với năm 2018, trong đó khu vực kinh 
tế trong nước đạt 108,01 tỷ USD, tăng 
13,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 
đạt 145,50 tỷ USD, tăng 2,5%. 
Đáng lưu ý, xuất nhập khẩu ngày càng 
phụ thuộc vào khu vực FDI, thặng dư cán 
cân thương mại chủ yếu là nhờ thặng dự 
thương mại của khu vực này. 
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu 
năm đến thời điểm 15/12/2019 ước đạt 
1.414,3 nghìn tỷ đồng, bằng 100,2% dự 
toán năm, là năm thứ hai liên tiếp vượt dự 
toán. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu 
năm đến thời điểm 15/12/2019 ước đạt 
1.316,4 nghìn tỷ đồng, bằng 80,6% dự toán 
năm, trong đó chi thường xuyên đạt 927,9 
nghìn tỷ đồng, bằng 92,8%; chi đầu tư phát 
triển 246,7 nghìn tỷ đồng, bằng 57,5%; chi 
trả nợ lãi 99,3 nghìn tỷ đồng, bằng 79,5%. 
Các chỉ tiêu về nợ công (56,1% GDP), nợ 
nước ngoài (45,8% GDP) tiếp tục giảm và 
bảo đảm ngưỡng an toàn. 
Tuy nhiên, tái cơ cấu đầu tư công chưa 
có nhiều chuyển biến. Trong vốn đầu tư 
của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách 
Nhà nước thực hiện năm 2019 ước tính 
đạt 342,9 nghìn tỷ đồng, bằng 89,5% kế 
hoạch năm và tăng 5,8% so với năm trước 
(năm 2018 bằng 92,1% và tăng 12,2%). 
Nhiều công trình trọng điểm đang ách tắc 
vốn, gây những hệ lụy tiêu cực, như tăng 
thêm chi phí cho NSNN khi phải trả lãi cho 
khoản vốn tồn đọng từ phát hành TPCP, 
làm chậm tiến độ giải ngân vốn đối ứng 
của khu vực kinh tế tư nhân, giảm động 
lực huy động vốn đầu tư xã hội, từ đó ảnh 
hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Phát hành 
TPCP được thực hiện linh hoạt, đến cuối 
tháng 11 đạt giá trị 187,9 nghìn tỷ đồng, 
tương đương 72% kế hoạch và tăng 30% 
cùng kỳ 2018. Thị trường trái phiếu doanh 
nghiệp (TPDN) tiếp tục sôi động với quy 
mô tăng khoảng 10,2% GDP (2018: 8,6% 
GDP), vượt mục tiêu 7% GDP năm 2020 
của Chính phủ đề ra. 
2. Một số thành tựu nổi bật trong 
năm 2019 và một số năm gần đây
a) Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt kết 
quả ấn tượng
Tăng trưởng kinh tế dần được cải 
thiện và thể hiện xu hướng phục hồi rõ nét 
trong những năm gần đây, giai đoạn 2016-
2020 ước đạt bình quân khoảng 6,74% so 
với mức trung bình 5,94%/năm giai đoạn 
2011-2015 nhờ sự quyết tâm lớn của Chính 
phủ với các giải pháp điều hành nền kinh 
tế một cách hiệu quả, cũng như lực đẩy từ 
các cộng đồng doanh nghiệp và sức cầu từ 
bên ngoài đối với hàng hóa Việt Nam. 
GDP bình quân đầu người năm 2019 
dự kiến đạt 3.000 USD/người, gấp 1,5 lần 
năm 2015 (NCIF). Giai đoạn 2016-2019, 
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao 
nhất, trung bình 6,84%/năm. Theo Ngân 
hàng Thế giới, kinh tế Việt Nam đã vượt qua 
mức tăng trưởng trung bình của nhóm các 
nước có thu nhập trung bình thấp và vươn 
lên mức cao nhất từ năm 2017 đến nay.
Từ năm 2017 đến nay, khu vực FDI 
liên tục duy trì mức tăng trưởng cao, trên 
12% trong nền kinh tế nước ta. Tăng 
trưởng của khu vực kinh tế nhà nước 
giảm sút, từ 5,2% năm 2016 xuống 3,6% 
năm 2018 và dự kiến tiếp tục giảm, dưới 
4% trong giai đoạn 2019-2020. Khu vực 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
26Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
kinh tế ngoài nhà nước thì chưa có sự bứt 
phá đáng kể, chỉ đạt khoảng 7%/năm. 
Khu vực FDI tăng nhanh có thể chứa 
đựng nhiều rủi ro cho nền kinh tế, đặc biệt 
trong bối cảnh những tập đoàn lớn chi phối 
sản xuất, kinh doanh và thay đổi chiến lược 
của mình. Đó là chưa kể những rủi ro khó 
kiểm soát phát sinh từ khu vực này, như 
chuyển lợi nhuận về nước, chuyển giá, 
lách thuế, gian lận thương mại,v.v.
b) Dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ khu 
vực dịch vụ sang khu vực công nghiệp và 
xây dựng
Với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, 
ngành công nghiệp và xây dựng đóng góp 
trung bình 2,82 điểm phần trăm (so với 
2,76 điểm phần trăm của ngành dịch vụ) 
vào mức tăng trưởng chung trong giai 
đoạn 2016-2018. Đồng thời, tỷ trọng 
ngành công nghiệp và xây dựng trong cơ 
cấu kinh tế đã tăng từ 39,9% giai đoạn 
2011-2015 lên 44% giai đoạn 2016-2020. 
Như vậy, công nghiệp (nhất là công nghiệp 
chế biến) và xây dựng đã trở thành động 
lực chủ yếu cho tăng trưởng GDP. 
c) Khu vực kinh tế tư nhân trong 
nước ngày càng đóng góp lớn hơn cho 
phát triển
Ước tính, khu vực kinh tế ngoài nhà 
nước chiếm hơn 40% vào năm 2020 và 
đóng góp lớn nhất trong tổng đầu tư toàn 
xã hội chủ yếu nhờ những biện pháp cải 
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao 
năng lực cạnh tranh quốc gia (tháo gỡ khó 
khăn, rào cản đối với doanh nghiệp, giảm 
thủ tục hành chính,) và khuyến khích 
khởi nghiệp. 
Trong khi tái cơ cấu đầu tư công chưa 
hiệu quả, thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 
vẫn chưa có nhiều cải thiện. Hệ số ICOR 
giảm từ 6,42% năm 2016 xuống 5,97% 
năm 2018 và dự kiến dưới mức 6% trong 
các năm 2019-2020. Hệ số ICOR trung 
bình giai đoạn 2016-2020 vẫn ở mức cao: 
6,11% (2011-2015: 6,25%). Việc triển khai 
Luật Đầu tư công sửa đổi (tháng 6/2019) 
kỳ vọng sẽ có sự thay đổi tích cực hơn. 
Môi trường kinh doanh và năng lực 
cạnh tranh của Việt Nam đã có nhiều cải 
thiện tích cực được các tổ chức quốc tế 
ghi nhận, cộng đồng doanh nghiệp đánh 
giá cao, đặt nhiều kỳ vọng vào những nỗ 
lực cải cách của Chính phủ. Điểm số và 
vị trí của Việt Nam trong Bảng xếp hạng 
môi trường kinh doanh liên tục được cải 
thiện từ năm 2014; riêng năm 2019 xếp 
thứ 70/190 nền kinh tế, đạt 68,8 điểm. 
Trong hai năm gần đây (2018-2019), mặc 
dù điểm số vẫn được cải thiện, nhưng 
tốc độ chậm lại và thứ hạng mỗi năm 
giảm 1 bậc. Trong khu vực ASEAN, Việt 
Nam đứng thứ 5 sau các nước Singapore, 
Malaysia, Thái Lan và Brunei về xếp 
hạng môi trường kinh doanh. Theo Ngân 
hàng thế giới (2019), cùng với Indonesia, 
Việt Nam thực hiện nhiều cải cách nhất 
trong 16 năm qua; mỗi nước cùng có 42 
cải cách.
Theo kết quả xếp hạng của Diễn đàn 
kinh tế thế giới năm 2019, năng lực cạnh 
tranh của Việt Nam đã được cải thiện đáng 
kể. Chỉ số Năng lực cạnh tranh 4.0 của Việt 
Nam tăng 10 bậc so với 2018 (từ thứ hạng 
77) và tăng 13 bậc so với năm 2017. 
3. Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 
2020
Kinh tế toàn cầu năm 2020 tiếp tục đối 
mặt với những nguy cơ, rủi ro và bất ổn, có 
khả năng suy giảm vào năm 2020, do xung 
đột thương mại giữa các nền kinh tế chủ 
chốt vẫn căng thẳng, hoạt động sản xuất trì 
trệ tại nhiều quốc gia, các diễn biến bất lợi 
trên thị trường tài chính - tiền tệ, tình trạng 
nợ gia tăng trên phạm vi toàn cầu. Nhiều tổ 
chức quốc tế dự báo kinh tế thế giới giảm 
tăng trưởng: OECD (tháng 9/2019) dự báo 
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
27Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
ở mức 2,9% năm 2019 và 3% năm 2020, 
UNCTAD (tháng 9/2019) dự báo ở mức 
2,3% năm 2019, IMF dự báo ở mức 3,3% 
năm 2019 và 3,6% năm 2020.
Tình hình kinh tế thế giới tất yếu 
sẽ tác động tới sự phát triển kinh tế của 
Việt Nam. Tuy nhiên, với sự phấn đấu 
của mình, trong đó có những bước tiến 
triển trong quá trình đàm phán/phê chuẩn 
một số hiệp định thương mại tự do mới 
(RCEP, CPTPP, EVFTA) có thể củng cố 
niềm tin hơn cho nhà đầu tư nước ngoài 
đối với Việt Nam. 
Trong ngắn hạn, dự báo tăng trưởng 
kinh tế năm 2020 đạt 6,7%, xuất khẩu đạt 
7,6%, thặng dư thương mại dự báo ở mức 
2,3 tỷ USD và lạm phát bình quân năm ở 
mức 3,2%. 
Trong dài hạn, Trung tâm thông tin và 
Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia đưa ra 
hai kịch bản: (i) Kịch bản cơ sở: kinh tế vĩ 
mô về cơ bản ổn định, tốc độ tăng trưởng 
giai đoạn 2021-2025 có thể đạt trung bình 
7%/năm, lạm phát 3,5-4,5%, tỷ giá VND/
USD tăng 1,5-2%/năm. Nền kinh tế có sự 
chuyển đổi tương đối rõ nét, tuy vẫn chủ 
yếu dựa vào những động lực tăng trưởng 
cũ, nhưng chất lượng, hiệu quả được cải 
thiện hơn. Việt Nam sẽ bước vào nhóm 
các quốc gia thu nhập trung bình cao ở 
cuối giai đoạn. (ii) Kịch bản cao: đổi mới 
mô hình tăng trưởng, sẽ tập trung hơn 
vào phát triển khoa học - công nghệ và 
đổi mới sáng tạo, thay vì phụ thuộc vào 
những động lực tăng trưởng cũ. Theo đó, 
tốc độ tăng trưởng có thể đạt mức 7,5% 
trong giai đoạn 2021-2025; chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế nhanh hơn và chuyển trọng 
tâm sang khu vực dịch vụ; lạm phát ở 
mức 3,5-4,5%.
Dù lựa chọn kịch bản nào thì thực thi 
chính sách vẫn rất cần được lưu ý và cải 
thiện mạnh mẽ hơn khi sự quan tâm đối 
với cải cách môi trường kinh doanh theo 
Nghị quyết 02 của Chính phủ đã ít nhiều 
giảm sút; năng suất và chất lượng lao 
động tuy được đề cập nhiều, song chưa 
có biện pháp mới và cụ thể. Bên cạnh đó, 
những nỗ lực hội nhập kinh tế quốc tế nói 
chung, chưa được thực sự truyền tải sâu 
sắc vào hệ thống chính sách, tư duy và 
hành động của bộ máy nhà nước và nhân 
dân; sự hứng khởi với EVFTA và EVIPA 
(dù còn chờ phê chuẩn) chưa đi kèm với 
tâm thế chuẩn bị kỹ và cụ thể cho các cải 
cách thể chế kinh tế liên quan; việc thực 
hiện CPTPP còn chậm dù Hiệp định này 
đã có hiệu lực. /.
Tài liệu tham khảo
1. Tổ chức thương mại thế giới (2019). Số liệu thống kê và triển vọng thương mại. 
https://www.wto.org/english/news_e/pres18_e/pr822_e.htm 
2. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2019). Báo cáo kinh tế vĩ mô quý 
III/2019. Chương trình hỗ trợ Austrialia về hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam; 
3. Tổng cục Hải quan. Trực tuyến. Truy cập tại: www.customs.gov.vn 
4. Tổng cục Thống kê. Trực tuyến. Truy cập tại: www.gso.gov.vn 
5. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (2019). Triển vọng 
kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025: Cơ hội và thách thức từ các Hiệp định thương 
mại tự do thế hệ mới. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế.
Ngày nhận bài: 13/12/2019
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
kinh_te_viet_nam_nam_2019_va_trien_vong_nam_2020.pdf