Nhìn chung kỹ năng đánh giá thông tin
của thanh thiếu niên Việt Nam được khảo
sát trong nghiên cứu này vẫn chưa được
trang bị tốt. Đồng thời, họ cũng vẫn chưa
nhận thức được đúng năng lực đánh giá
thông tin của chính bản thân mình. Chính
vì thế, nhu cầu cải thiện kỹ năng đánh giá
thông tin của các học sinh là có thật và
rất cần thiết. Những người làm công tác
giáo dục cần phải chú trọng đến việc phát
triển kỹ năng này trong những hướng dẫn/
chương trình đào tạo kỹ năng thông tin để
hỗ trợ học sinh trở thành những người có
khả năng học tập và làm việc độc lập.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 572 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
23THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
ThS Ngô Thị Huyền
Trường Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh
KỸ NĂNG ĐÁNH GIÁ THÔNG TIN
CỦA THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
Tóm tắt: Trình bày kết quả nghiên cứu kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt
Nam (tuổi từ 15 đến 18) nhằm cung cấp một cái nhìn mới nhất về khả năng đánh giá thông tin của
người trẻ Việt Nam ở độ tuổi này. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải
thiện kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam.
Từ khóa: Kỹ năng đánh giá thông tin; thanh thiếu niên; Việt Nam.
Information evaluation skills of Vietnamese teenagers
Abstract: The article introduces the result of the study on information evaluation skills of
Vietnamese teenagers (aged from 15 to 18 years old) which provides an updated overview on the
information evaluation skills of Vietnamese teenagers at this age range. The result shows that more
efforts are needed to improve those skills for Vietnamese teenagers.
Keywords: Information evaluation skills; teenagers; Vietnam.
Giới thiệu
Đo lường kỹ năng đánh giá thông tin là
cần thiết để giúp xác định được năng lực
của người dùng tin, nhận diện được những
gì cần cải thiện để nâng cao năng lực của
họ. Khám phá kỹ năng đánh giá thông tin
của học sinh đã nhận được sự quan tâm
của rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới.
Nghiên cứu này giúp hiểu về kỹ năng đánh
giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam
ở độ tuổi từ 15 đến 181.
1 Trong bài viết này, tác giả dùng cả hai từ “thanh thiếu niên” và “học sinh” để chỉ đến cùng một nhóm đối tượng người dùng tin từ 15 đến
18 tuổi.
1. Đánh giá thông tin
Kiến thức thông tin (tiếng Anh là
Infomartion Literacy) là kiến thức, kỹ năng
và sự hiểu biết mà mỗi cá nhân cần có
để có thể nhận diện được nhu cầu tin của
chính mình, tìm tin thành công và sử dụng
thông tin tìm được một cách hiệu quả và
có đạo đức. Trong quá trình đó, có nhiều
quan điểm hiện đại nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc đánh giá thông tin tìm được.
Cùng với sự phát triển của thông tin số,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
24 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
có rất nhiều tài liệu và thông tin không
đáng tin cậy tồn tại trên Internet (Bartlett
& Miller, 2011). Ngoài ra, trên thực tế do
thiếu những người chọn lọc thông tin nên
nhiều trang Web không đạt được những
tiêu chuẩn tối thiểu cần có để phục vụ cho
người dùng tin. Chính vì thế, mỗi cá nhân
phải tự mình trở thành một người có khả
năng tự đánh giá thông tin. Theo Williams
& Rowlands (2007), đánh giá thông tin
bao gồm hai khía cạnh: chất lượng và sự
thích hợp.
Đánh giá kỹ năng thông tin nói chung
và kỹ năng đánh giá thông tin nói riêng
là cần thiết để hiểu năng lực của các
cá nhân cũng như xác định những
gì cần cải thiện đối với chương trình
đào tạo hiện tại (Chang et al., 2012).
Kỹ năng đánh giá thông tin của học sinh đã
được khám phá trong một số nghiên cứu
trước đây. Các nghiên cứu chỉ ra rằng kỹ
năng đánh giá thông tin là điểm yếu của
học sinh (Adams, 1999; Godwin, 2006;
Knight, 2006; Williams & Rowlands, 2007;
Ali, Abu-Hassan, Daud, & Jusoff, 2010;
Chang et al., 2012; Pickard, Shenton, &
Johnson, 2014). Họ có khuynh hướng sử
dụng những nguồn tin chưa được thẩm định
hơn là cố gắng để đánh giá và lựa chọn ra
những nguồn tin phù hợp và có chất lượng
tốt nhất (Hirsh, 1999; Grimes & Boening,
2001; Knight, 2006; Pickard et al., 2014).
Học sinh sử dụng những kỹ thuật đơn giản
để đánh giá thông tin (Pickard et al., 2014).
Các kỹ thuật khác nhau được học sinh sử
dụng để đánh giá thông tin có thể được
tìm thấy trong nhiều nghiên cứu được thực
hiện trước đây như Gross & Latham (2007),
Williams & Rowlands (2007), Harris (2008),
Wynne et al. (2009), Duffy, Liying, &
Ong (2010), Pickard, Gannon-Leary, &
Coventry (2011), và Walton, Pickard,
Dodd, & Hepworth (2016).
2. Phương pháp nghiên cứu
Để khám phá kỹ năng đánh giá thông tin
của thanh thiếu niên Việt Nam, hoạt động
thu thập dữ liệu của nghiên cứu này được
chia thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Đo lường kỹ năng đánh
giá thông tin của học sinh bằng cách sử
dụng phiếu hỏi.
- Giai đoạn 2: Khám phá phương pháp
được học sinh sử dụng để đánh giá thông
tin thông qua phỏng vấn bán cấu trúc.
Trong giai đoạn 1, nghiên cứu khảo sát
bằng phiếu hỏi đã được thực hiện với 183
học sinh có độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi tại hai
trường Trung học phổ thông trên địa bàn
Tp. Hồ Chí Minh.
Bảng hỏi được chia thành ba phần:
- Phần 1: Dữ liệu nhân khẩu học của
mẫu như tên, trường, bậc học và giới tính.
- Phần 2: Các câu hỏi nhiều lựa chọn
được dùng để đo lường kỹ năng đánh giá
thông tin của học sinh liên quan đến khả
năng xác định nguồn tin phù hợp, đáng tin
và có thẩm quyền, và đánh giá nội dung
thông tin. Mỗi câu trả lời đúng nhận được
một điểm và mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả
lời đúng. Mỗi câu hỏi bao gồm một phần
giải thích về trường hợp cần đánh giá thông
tin và một số đáp án khả thi. Học sinh cần
lựa chọn một trong số những đáp án này
để giải quyết vấn đề thông tin.
- Phần 3: Tự đánh giá kỹ năng đánh
giá thông tin của bản thân. Thang đo năm
điểm đã được sử dụng để giúp học sinh tự
đánh giá năng lực của chính mình (chọn 5
cho mức cao nhất và 1 cho mức thấp nhất).
Trong giai đoạn 2, sáu học sinh đã được
mời tham gia vào các buổi phỏng vấn bán
cấu trúc một cách ngẫu nhiên và được mã
hoá như sau BS74, BS55, BS10, CS91,
CS55 và CS28.
Phân tích dữ liệu: dữ liệu định lượng từ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
bảng hỏi được phân tích bằng phần mềm
SPSS 22. Hệ số p được cài đặt ở giá trị
0,05 cho tất cả các phép thử. Dữ liệu được
phân tích ở hai mức độ: thống kê mô tả và
thống kê suy luận. Dữ liệu phỏng vấn được
phân tích bằng phần mềm Nvivo với kỹ
thuật phân tích chủ đề.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Về kỹ năng đánh giá thông tin
Điểm số đã được chuyển thành điểm
phần trăm để thuận tiện cho việc đánh
giá và so sánh. Điểm phần trăm được chia
thành ba nhóm: ít hơn hoặc bằng 30%, cao
hơn 30% và ít hơn 70%, và cao hơn hoặc
bằng 70%. Những nhóm này sau đó được
mã hoá lần lượt thành các giá trị: thấp,
trung bình và cao.
Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ học sinh
đạt điểm cao, trung bình và thấp tương ứng
là 6,6%; 61,7% và 31,7%. Học sinh đạt
điểm thấp nhất trong việc xác định nguồn
tin phù hợp 11,5% và cao nhất cho việc
đánh giá nội dung thông tin 77,6% (Bảng 1).
Số điểm trung bình chung cho kỹ năng
đánh giá thông tin là 38,36. Số điểm này
thấp hơn so với số điểm trung bình mong
đợi là 50. Điều này chứng tỏ rằng kỹ năng
đánh giá thông tin của học sinh vẫn chưa
tốt.
Bảng 1. Điểm phần trăm cho các kỹ
năng đánh giá thông tin
Kỹ năng Điểm (%)
Đánh giá nguồn tin phù hợp 11,5
Đánh giá nguồn tin có thẩm
quyền
44,8
Đánh giá nội dung thông tin 77,6
Kỹ năng đánh giá thông tin của các bậc
học: Khi so sánh điểm kỹ năng đánh giá
thông tin giữa các bậc học, kết quả đáng
ngạc nhiên là học sinh lớp 10 đạt điểm cao
hơn so với hai bậc học còn lại. Trong khi
học sinh lớp 10 đạt 41,59 thì lớp 11 và 12
lần lượt đạt được số điểm là 32,36 và 40,31.
Phân tích thống kê đã được sử dụng để
khám phá mối quan hệ giữa kỹ năng đánh
giá thông tin và bậc học. Kết quả chỉ ra
rằng, không có mối quan hệ nào mang tính
thống kê giữa kỹ năng đánh giá thông tin
và bậc học của học sinh (p>0.05).
Kỹ năng đánh giá thông tin của nam
và nữ: Kết quả khảo sát cho thấy, kỹ năng
đánh giá thông tin của nữ tốt hơn so với
học sinh nam (38,99 vs. 37,62). Tuy nhiên,
kết quả phân tích thống kê chỉ ra rằng
không có sự khác biệt mang tính thống kê
về điểm trung bình giữa học sinh nam và
học sinh nữ (p>0,05).
Tự đánh giá kỹ năng thông tin: Học sinh
đã được yêu cầu tự đánh giá kỹ năng đánh
giá thông tin của họ dựa trên những gì họ
đã làm trong phiếu hỏi. Thang đo năm điểm
sau đó đã được mã hoá. Cụ thể, từ 1 đến
2, 3, và từ 4 đến 5 lần lượt được mã hoá với
các giá trị thấp, trung bình và cao. Kết quả
thu về cho thấy, học sinh khá tự tin với kỹ
năng đánh giá thông tin của chính mình với
26,8% nghĩ kỹ năng của mình cao. Trong
khi đó, 49,2% học sinh nghĩ kỹ năng của
mình ở mức độ trung bình, còn 24% cho
rằng là ở mức độ thấp.
Tương quan giữa dữ liệu nhân khẩu học
và kỹ năng đánh giá thông tin: Phân tích
thống kê tương quan đã được sử dụng để
khám phá mối quan hệ giữa các biến. Theo
Cohen (1988), giá trị thống kê ‘r’ chỉ ra mức
độ tương quan của các biến:
• Yếu nếu r = 0,10 - 0,29
• Trung bình nếu r = 0,30 - 0,49
• Mạnh nếu r = 0,50 - 1,00
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
26 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
Kết quả phân tích số liệu chỉ ra rằng,
không có mối tương quan giữa các biến
nhân khẩu học (giới và bậc học) và kỹ
năng đánh giá thông tin (r = -.033 cho phân
tích tương quan giữa giới và điểm đánh giá
thông tin; r = -.024 cho phân tích tương
quan giữa bậc học và điểm đánh giá thông
tin). Điều này chứng tỏ rằng giới và bậc
học không được dùng để dự đoán kỹ năng
đánh giá thông tin của học sinh.
3.2. Về phương pháp đánh giá
thông tin
Kết quả phỏng vấn chỉ ra rằng học sinh
thường sử dụng bảy phương pháp sau để
đánh giá thông tin.
- Quen thuộc: Học sinh ưu tiên cho
những nguồn tin mà họ thường sử dụng.
Khi em sử dụng Google để tìm tin thì em
thường để ý tên của mấy trang Web đó.
Nếu là Wikipedia hay Violet, em sẽ ưu tiên
sử dụng trước. Nếu chúng không cung cấp
thông tin em cần thì em mới truy cập những
trang Web khác (BS74).
Khi truy cập Internet, em thường tìm
những thông tin mới nhất trên báo Tuổi Tré
hoặc Dân Trí (CS51).
Em tin những nguồn tin mà em thường
sử dụng hoặc có kinh nghiệm với nó rồi
(CS28).
Học sinh tin những nguồn tin mà các
em thường sử dụng hoặc biết trước đó. Họ
tin rằng những trang Web, ví dụ Wikipedia,
Violet, Tuổi Trẻ hay Dân trí, có thể cung cấp
những thông tin đáng tin cậy.
- Kết quả đầu tiên: Học sinh có thói quen
là cái nào tìm được trước thì dùng trước, do
đó họ ưu tiên những kết quả tìm được đầu
tiên.
Thông thường nếu em dùng Google để
tìm tin, em thường tìm thông tin trong những
trang kết quả đầu tiên từ 1 đến 3. Những
kết quả ở những trang sau đó thì không còn
đáng tin nữa (BS74).
Học sinh tin rằng những kết quả tìm đầu
tiên truy xuất được thì đáng tin hơn. Những
kết quả đầu tiên có thể là những kết quả có
liên quan nhất, nhưng dù là như thế không
có điều gì có thể bảo đảm rằng chúng là
những nguồn tin đáng tin cậy và có chất
lượng tốt.
- Lặp lại: Thông tin được lặp lại nhiều lần
được xem là một tiêu chuẩn giúp học sinh
đánh giá là nguồn tin có đáng tin cậy hay
không.
Các tờ báo lớn của Việt Nam thường
đăng những thông tin giống nhau, vì vậy
chúng ta có thể tin những tờ báo đó (BS74).
Học sinh tin những nguồn tin mà thông
tin có thể được tìm thấy ở những nguồn
tin khác. Tuy nhiên, việc dễ dàng công bố
thông tin và những vấn đề xoay quanh việc
vi phạm bản quyền có thể dẫn đến tình
trạng các thông tin giống nhau được tìm
thấy ở những nguồn tin khác nhau. Chính vì
thế, thông tin được lặp lại nhiều lần có thể
không xuất phát từ những nguồn tin đáng
tin cậy. Có một điều đáng lo ngại là nếu học
sinh tiếp tục đánh giá các nguồn tin theo
cách này và nếu những thông tin sai lệch
được cung cấp, học sinh có thể không tìm
được những thông tin chất lượng tốt.
- Tên tác giả: Nghiên cứu tìm ra rằng,
học sinh đánh giá thông tin dựa trên tên
của tác giả.
Những tờ báo lớn thường đặt tên tác giả
ở cuối mỗi bài báo. Ở Việt Nam, mọi người
thường viết tắt tên tác giả sử dụng hai chữ
cái, vì vậy em không có tin những bài báo
đó (BS74).
Học sinh cảm thấy tự tin hơn khi sử dụng
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
những nguồn tin cung cấp tên đầy đủ của
tác giả. Sử dụng tên tác giả để đánh giá
thông tin được sử dụng trong nhiều trường
hợp, ví dụ, những bài viết được xuất bản bởi
những tên tuổi lớn và nổi tiếng. Tuy nhiên,
sử dụng tên đầy đủ của tác giả vẫn còn là
một kỹ thuật cần phải đặt dấu chấm hỏi khi
đánh giá thông tin/nguồn tin.
- Thông tin phản hồi từ người dùng tin
khác: Học sinh tin rằng thông tin phản hồi
từ người dùng tin khác có thể giúp họ đánh
giá nguồn tin/thông tin.
Em thường xem đánh giá của những
người khác liên quan đến những gì em đang
tìm kiếm. Em xem họ nói gì và sau đó quyết
định là có sử dụng thông tin đó hay không
(BS55).
Chúng ta có thể nói là thông tin có đúng
hay không dựa trên ý kiến đánh giá của
người khác (BS10).
Trên thực tế, ý kiến phản hồi được sử
dụng khá phổ biến trong nhiều trường hợp,
ví dụ, đánh giá sách. Việc sử dụng ý kiến
đánh giá của người khác có thể mang lại
nhiều lợi ích cho học sinh khi đánh giá
thông tin, ví dụ như, hiểu hơn về nguồn tin
và chất lượng của thông tin. Tuy nhiên, có
một điểm quan ngại là làm cách nào học
sinh có thể quyết định những ý kiến đánh
giá nào là đáng tin khi xem xét một khối
lượng lớn và những ý kiến trái chiều về
nguồn tin/thông tin nào đó.
- Lượng truy cập: Lượng truy cập cũng
được xem là yếu tố giúp học sinh nhận diện
một nguồn tin đáng tin cậy hay không.
Em thường sử dụng các trang Web được
nhiều người truy cập (BS10).
Học sinh có xu hướng sử dụng những
trang web được truy cập bởi nhiều người.
Điều này có nghĩa rằng, học sinh tin rằng
tỷ lệ truy cập càng cao thì chất lượng nguồn
tin càng tốt. Trên thực tế, số lượng người
sử dụng có thể được xem là nhân tố phản
ánh tầm ảnh hưởng của một trang Web.
Tuy nhiên, không phải trang Web nào cũng
cung cấp thông tin về lượng người truy cập.
- Bên thứ ba: Học sinh sử dụng bên thứ
ba để đánh giá nguồn tin/thông tin.
Nếu giáo viên của em truy cập vào trang
Web nào thì có nghĩa là nó đáng tin cậy
Chúng ta có thể kiểm tra một cách dễ dàng
thông tin trên Internet bằng cách hỏi người
lớn tuổi hơn để giúp chúng ta tìm kiếm được
thông tin chính xác (BS10).
Có thể thấy rằng, học sinh tin những
nguồn tin được sử dụng bởi giáo viên của
họ. Họ cũng có thể tìm kiếm lời khuyên từ
những người lớn tuổi hơn như cha mẹ hay
anh chị để tìm kiếm được những nguồn tin
chất lượng tốt. Điều này có thể mang lại
rất nhiều lợi ích cho học sinh trong việc
xác định những nguồn tin đáng tin cậy. Tuy
nhiên, nếu họ tin dùng những nguồn tin
được sử dụng bởi giáo viên của mình mà
không hiểu lý do tại sao thì họ có thể biến
thành những người tìm tin thụ động. Điều
này cũng dẫn đến mối lo là khi học sinh rời
khỏi ghế nhà trường và không còn cơ hội
để nhận được sự giúp đỡ của các giáo viên
nữa, làm cách nào họ có thể xác định được
nguồn tin/thông tin phù hợp cho bản thân.
Như vậy có thể thấy rằng, học sinh xem
một nguồn tin/thông tin là đáng tin cậy nếu
chúng có tính quen thuộc, là những kết quả
truy xuất đầu tiên, có tính lặp lại, có tên tác
giả đầy đủ, nhận được ý kiến phản hồi tích
cực từ người dùng tin khác, có lượng truy
cập cao, và được sử dụng hoặc đề xuất bởi
một bên thứ ba. Quan điểm của học sinh
về một nguồn tin/thông tin đáng tin cậy
được thể hiện trong Sơ đồ 1.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
28 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
Sơ đồ 1. Quan điểm của học sinh về
nguồn tin/thông tin đáng tin cậy
4. Thảo luận
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, kỹ năng
đánh giá thông tin của học sinh vẫn chưa
tốt như mong đợi để giúp họ nhận diện
những nguồn tin phù hợp. Kết quả này củng
cố quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu
khác, ví dụ như Godwin (2006), Williams &
Rowlands (2007), Pickard et al. (2014), và
Walton et al. (2016). Các nhà nghiên cứu
này đều nhận định rằng, đánh giá thông
tin không phải là thế mạnh của thanh thiếu
niên. Điểm yếu trong kỹ năng đánh giá
thông tin cũng được chứng minh trong một
loạt các nghiên cứu thực hiện ở những bậc
học khác nhau, ví dụ như Adams (1999),
Knight (2006), Ali et al. (2010) và Chang et
al. (2012). Adams (1999) tìm ra rằng các
học sinh lớp 12 gặp nhiều vấn đề trong
việc đánh giá các nguồn tin khoa học. Kết
quả này được củng cố bởi Knight (2006)
khi tác giả này chứng minh rằng sinh viên
năm nhất có kỹ năng đánh giá thông tin
không tốt bằng tìm kiếm hay sử dụng thông
tin. Ali et al. (2010) phát hiện ra rằng, các
sinh viên thiếu kiến thức và kỹ năng cần
thiết để đánh giá thông tin trên Internet.
Trong khi đó, Chang et al. (2012) đề xuất
rằng các học sinh trung học của Singapore
cần phải cải thiện các kỹ năng đòi hỏi tư
duy cao hơn như đánh giá, tổng hợp và sử
dụng thông tin khi so sánh với những kỹ
năng khác. Có thể thấy rằng, các học sinh
Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi chưa
thể hiện được một trình độ tốt trong việc
đánh giá thông tin.
Kỹ năng đánh giá thông tin chưa tốt có
thể bị gây ra bởi một số nguyên nhân. Thứ
nhất, sự thật là việc đánh giá thông tin thì
khá phức tạp và đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn
so với một số kỹ năng khác, ví dụ như tìm
tin (Pickard et al., 2014). Bên cạnh đó, việc
đánh giá thông tin trong môi trường số cũng
gặp nhiều thách thức hơn (Andretta, 2005).
Đồng thời, trên thực tế tầm quan trọng của
việc đánh giá thông tin vẫn chưa được
nhìn nhận một cách đúng mực bởi những
người làm công tác giáo dục (Pickard et
al., 2014). Theo Godwin (2006), các trang
Web hướng dẫn kỹ năng thông tin chủ yếu
tập trung vào kỹ năng tìm kiếm hơn là đánh
giá thông tin.
Học sinh chủ yếu sử dụng những kỹ
thuật đơn giản để đánh giá thông tin như:
sử dụng những trang Web quen thuộc, sự
lặp lại, kết quả truy xuất đầu tiên, tên tác
giả, đánh giá từ người dùng tin khác, tỷ lệ
truy cập và bên thứ ba. Điều này cho thấy
rằng, học sinh ít nỗ lực trong việc đánh giá
thông tin để tìm ra nguồn tin/thông tin có
chất lượng tốt. Quan điểm này nhận được
sự đồng thuận của một số nhà nghiên
cứu như Hirsh (1999), Grimes & Boening
(2001), Buschman & Warner (2005), Knight
(2006), Pickard et al. (2014), và Walton et
al. (2016). Những nhà nghiên cứu này chỉ
ra rằng học sinh có khuynh hướng đánh
giá thông tin một cách cẩu thả và thậm chí
còn sử dụng những nguồn tin chưa được
đánh giá và thẩm định để phục vụ cho
mục đích của mình. Pickard et al. (2014)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
29THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
cho rằng, mặc dù trong môi trường thông
tin số, chúng ta không thể hoàn toàn khẳng
định nguồn tin/thông tin nào là đáng tin cậy,
tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chúng
ta dễ dàng chấp nhận những thông tin mà
mình tìm được.
Những nghiên cứu trước đây chỉ ra một
số chỉ thị học sinh thường sử dụng để đánh
giá thông tin. Các nhân tố này được thể
hiện trong mô hình i-Trust của Pickard et
al. (2011), bao gồm các nhân tố bên ngoài
(tài chính, sự tín nhiệm) và các nhân tố bên
trong (sự chính xác, thẩm quyền, tính khách
quan, tính mới, tính bao phủ, trình bày và
hình thức, nguồn gốc của nguồn/trang
Web, trích dẫn và động cơ của nguồn tin) và
nhận thức của người dùng tin. Harris (2008)
tìm ra rằng học sinh thường đánh giá thông
tin/nguồn tin dựa vào cách thiết kế và trình
bày của các trang Web. Trong khi đó,
Pickard et al. (2014) chỉ ra rằng học sinh
chủ yếu dựa trên ngữ pháp và chính tả,
tính thời sự, dễ xác minh và hợp thời điểm.
Wynne et al. (2009) tổng kết năm dấu hiệu
được dùng để đánh giá kết quả tìm bao
gồm: sự xuất hiện của thuật ngữ tìm trong
nhan đề và nội dung, nguồn và uy tín của
thông tin, độ đáng tin của nguồn, loại xuất
bản phẩm và tính mới của tài liệu. Duffy et
al. (2010) chứng minh rằng, thông tin trên
Internet được đánh giá dựa trên tốc độ, tính
cập nhật và sự đa dạng của các quan điểm.
Walton et al. (2016) tìm thấy rằng, thanh
thiếu niên đặt niềm tin vào những thông tin
có nhiều hơn một tác giả. Có thể thấy rằng,
không có bất kỳ kỹ thuật hay phương pháp
nào được đề cập đến trong những nghiên
cứu ở trên được sử dụng bởi các học sinh
tham gia vào nghiên cứu này khi đánh giá
thông tin/nguồn tin. Mặc dù học sinh cũng
dựa trên tác giả của nguồn tin nhưng lại
sử dụng theo một cách khác biệt. Họ cảm
thấy tự tin hơn khi sử dụng những nguồn tin
cung cấp tên đầy đủ của tác giả.
Nghiên cứu này tìm ra rằng, học sinh
đánh giá kỹ năng đánh giá thông tin của
họ cao hơn so với thực tế. Kết quả này
tương ứng với những nghiên cứu trước đây
bởi các nghiên cứu chỉ ra rằng thanh thiếu
niên không đánh giá chính xác năng lực
thông tin của mình và có khuynh hướng
đánh giá kiến thức và kỹ năng thông tin của
mình cao hơn so với thực tế (Buschman &
Warner, 2005; Gross & Latham, 2007).
Việc đánh giá quá cao khả năng của mình
trong thực tế có thể làm giảm động lực
để phát triển kỹ năng của chính bản thân
(Freund & Kasten, 2012). Chính vì thế,
giúp học sinh nhận thức được năng lực thật
của bản thân là rất cần thiết (Ackerman &
Wolman, 2007).
Kết luận
Nhìn chung kỹ năng đánh giá thông tin
của thanh thiếu niên Việt Nam được khảo
sát trong nghiên cứu này vẫn chưa được
trang bị tốt. Đồng thời, họ cũng vẫn chưa
nhận thức được đúng năng lực đánh giá
thông tin của chính bản thân mình. Chính
vì thế, nhu cầu cải thiện kỹ năng đánh giá
thông tin của các học sinh là có thật và
rất cần thiết. Những người làm công tác
giáo dục cần phải chú trọng đến việc phát
triển kỹ năng này trong những hướng dẫn/
chương trình đào tạo kỹ năng thông tin để
hỗ trợ học sinh trở thành những người có
khả năng học tập và làm việc độc lập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ackerman, P., & Wolman, S. (2007).
Determinants and validity of self-estimates of
abilities and self-concept measures. Journal of
Experimental Psychology: Applied, 13(2), 57-78.
2. Adams, S. (1999). Critiquing claims
about global warming from the world wide
web: a comparison of high school students and
specialists. Bulletin of Science, Technology
and Society, 19(6), 539-543.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
30 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
3. Ali, R., Abu-Hassan, N., Daud, M., &
Jusoff, K. (2010). Information literacy skills of
engineering students. IJRRAS, 5(3), 264-270.
4. Andretta, S. (2005). Information literacy:
a practitioner's guide. Oxford: Chandos.
5. Bartlett, J. & Miller, C. (2011). Truth, lies
and the Internet: a report into young people's
digital fluency. London: Demos.
6. Buschman, J., & Warner, D. (2005).
Researching and shaping information literacy
initiatives in relation to the web: some
framework problems and needs. Journal of
Academic Librarianship, 31(1), 12-18.
7. Chang, Y., Zhang, X., Mokhtar, I., Foo,
S., Majid, S., Luyt, B., & Theng, Y. (2012).
Assessing students' information literacy skills
in two secondary schools in Singapore. Journal
of Information Literacy, 6(2), 19-34.
8. Cohen, J. (1988). Statistical power
analysis for the behavioral sciences (2nd ed.).
Hillsdale, N.J: L. Erlbaum Associates.
9. Duffy, A., Liying, T., & Ong, L. (2010).
Singapore teens' perceived ownership of
online sources and credibility. First Monday,
15(4), NP-NP.
10. Freund, P., & Kasten, N. (2012). How
smart do you think you are? A meta-analysis
on the validity of self-estimates of cognitive
ability. Psychological Bulletin, 138(2), 296-321.
11. Godwin, P. (2006). Keeping up with
the Google generation: the challenge for
information literacy teachers. In G. Walton & A.
Pope (Eds.), Information literacy: recognising
the need (pp. 33-39). Oxford: Chandos
Publishing.
12. Grimes, D., & Boening, C. (2001).
Worries with the Web: a look at student use
of Web resources. College and Research
Libraries, 62(1), 11-23.
13. Gross, M., & Latham, D. (2007).
Attaining information literacy: an investigation
of the relationship between skill level, self-
estimates of skill, and library anxiety. Library
and Information Science Research, 29(3), 332-
353.
14. Harris, F. (2008). Challenges to teaching
credibility assessment in contemporary
schooling. In M. Metzger & A. Flanagin (Eds.),
Digital media, youth, and credibility (pp. 155-
180). Cambridge, MA: MIT Press.
15. Hirsh, S. (1999). Children's relevance
criteria and information seeking on electronic
resources. Journal of the American Society for
Information Science, 50(14), 1265-1283.
16. Knight, L. (2006). Using rubrics
to assess information literacy. Reference
Services Review, 34(1), 43-55.
17. Pickard, A., Gannon-Leary, P., &
Coventry, L. (2011). The onus on us? Stage
one in developing an i-Trust model for our
users. 35(111), 87-104.
18. Pickard, A., Shenton, A., & Johnson,
A. (2014). Young people and the evaluation of
information on the World Wide Web: principles,
practice and beliefs. Journal of Librarianship
and Information Science, 46(1), 3-20.
19. Walton, G., Pickard, A., Dodd, L.,
& Hepworth, M. (2016). Not "born digital":
enabling teens to question information sources.
CILIP UPDATE, 42-45.
20. Williams, P., & Rowlands, I. (2007).
Information behaviour of the researcher of the
future: the literature on young people and their
information behaviour.
org.uk/wayback/archive/20140614113317/
programmes/reppres/ggworkpackageii.pdf
21. Wynne, B., Wong, W., Stelmaszewska,
H., Barn, B., Bhimani, N., & Barn, S. (2009).
JISC user behaviour observational study:
user behaviour in resource discovery -
Final report.
wayback/archive/20140615234228/http://
www.jisc.ac.uk/media/documents/publications/
programme/2010/ubirdfinalreport.pdf
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 25-10-2017;
Ngày phản biện đánh giá: 4-12-2017; Ngày
chấp nhận đăng: 20-12-2017).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_nang_danh_gia_thong_tin_cua_thanh_thieu_nien_viet_nam.pdf