Không còn nghi ngờ gì nữa, kỹ thuật Bel
canto là thành tựu, đỉnh cao kỹ thuật thanh nhạc
của nhân loại. Nó là giá trị trường tồn, là mẫu
mực cho ca hát chuyên nghiệp. Công tác đào tạo
thanh nhạc với các kỹ thuật bel canto kết hợp
với nghệ thuật hát truyền thống Việt Nam vẫn
đang phát triển ở Học viện âm nhạc Quốc gia
Hà Nội, Nhạc viện TP.HCM, Học viện âm nhạc
Huế, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân
đội, các Trường cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật
ở các tỉnh, thành phố trong cả nước. Kỹ thuật
thanh nhạc Bel canto vẫn chiếm ưu thế trong
phần lớn các ca sĩ đang hoạt động trong lĩnh vực
ca hát chuyên nghiệp Việt Nam. Trong xu hướng
thị trường âm nhạc hiện nay có nhiều lưa chọn,
các phong trào có tuổi đời ngắn, dài khác nhau.
Dù sao thì kỹ thuật bel canto vẫn có chỗ đứng.
Nó góp phần nâng cao trình độ thẩm mỹ âm nhạc
cho công chúng. Sứ mệnh ấy thuộc các cơ sở đào
tạo thanh nhạc.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 626 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật bel canto trong đào tạo thanh nhạc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KỸ THUẬT BEL CANTO TRONG ĐÀO TẠO THANH NHẠC VIỆT NAM
Trương Ngọc Thắng*
TÓM TẮT
Ra đời cùng với nghệ thuật oprera, kỹ thuật Bel canto được xem là thành tựu,
đỉnh cao kỹ thuật thanh nhạc của nhân loại. Nó là mẫu mực cho ca hát chuyên
nghiệp, nó góp phần nâng cao trình độ thẩm mỹ âm nhạc cho công chúng. Sứ mệnh
ấy thuộc các cơ sở đào tạo thanh nhạc thế giới và ở Việt Nam.
Ngày nay, công tác đào tạo thanh nhạc ở Việt Nam trên cơ sở kết hợp kỹ thuật
bel canto với nghệ thuật hát truyền thống Việt Nam được áp dụng từ thập kỷ 60 của
thế kỷ trước. Đấy là sự phối hợp ứng dụng khoa học giữa kỹ thuật thanh nhạc với
ngữ âm tiếng Việt và trở thành nguyên tắc trong đào tạo thanh nhạc chính thống ở
nhà trường.
ABSTRACT
The technique of Bel canto in vocal training in Vietnam
Debuting alongside the art of opera, the techniques Bel canto is considered an
achievements and as the peak vocal technique of humanity. It is the model for pro-
fessional singing and contributes to improve the aesthetic of music for the public.
This is a mission of all vocal training facilities in the world and in Vietnam.
Nowadays, vocal training based on bel canto techniques combined with tradi-
tional Vietnamese singing arts has been applied since the 1960s of the last century.
It is the application of scientific combination of vocal techniques and Vietnamese
phonetics and has become the principle of formal vocal training.
* TS.NGƯT, Trường ĐH Văn Hiến
Mở đầu
Kỹ thuật thanh nhạc đang được giảng dạy
trong các cơ sở đào tạo thanh nhạc hiện nay ở
Việt Nam là sự phối hợp các kỹ thuật thanh nhạc
tiên tiến trên thế giới cộng với các kỹ thuật ca
hát truyền thống của dân tộc. Một trong những
kỹ thuật thanh nhạc đang được áp dụng để đào
tạo ca sĩ chuyên nghiệp ở các cơ sở đào tạo trên
thế giới hiện nay là kỹ thuật Bel canto vốn xuất
hiện và phát triển đồng hành với sự ra đời của
loại hình nghệ thuật sân khấu Opera ở Italia. Kỹ
thuật này ảnh hưởng đến việc giảng dạy thanh
nhạc trên toàn thế giới từ nhiều thế kỷ trước cùng
với kỹ thuật thanh nhạc hiện đại. Trong các giáo
trình đào tạo ca sĩ chuyên nghiệp hiện nay ở Việt
Nam, phần các tác phẩm ca khúc cổ điển, ro-
mance, aria của nước ngoài chiếm một vị trí rất
quan trọng đều có đề cập đến việc sử dụng kỹ
thuật thanh nhạc Bel canto một cách toàn diện từ
hơi thở, khoảng vang, vị trí, khẩu hình, nhả chữ,
sự biểu hiện về ngôn ngữ, văn hóa và các kiến
thức âm nhạc liên quan.
Tuy nhiên hiểu một cách cụ thể về lịch sử
hình thành và phát triển opera mà ở đó kỹ thuật
Bel canto đang được sử dụng và ảnh hưởng đến
quá trình đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp trên
thế giới trong đó có Việt Nam thì không phải
sinh viên thanh nhạc nào cũng ý thức được. Mặc
dầu trong chương trình đào tạo, học phần Lịch
sử âm nhạc thế giới có đề cập đến lịch sử hình
thành và phát triển opera, nhưng rất ít sinh viên
ý thức được việc tìm hiểu sâu loại hình opera và
kỹ thuật bel canto mà hàng ngày họ vẫn luyện
giọng, vẫn tập hơi thở, mở khẩu hình, tập khoảng
vang và hát các aria.
Bài viết trình bày một số nét chính về một thể
loại đỉnh cao của nghệ thuật hát chuyên nghiệp
đang được đào tạo tại các Trường âm nhạc và
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
43SỐ 8 - THÁNG 8/2015
các Nhạc viện, Học viện âm nhạc trên thế giới và
Việt Nam, từ đấy hy vọng định hướng cho sinh
viên vươn tới làm chủ kỹ thuật ca hát chuyên
nghiệp hiện nay.
Vài nét về quá trình hình thành và phát
triển opera
Opera là loại hình nhạc kịch, một dạng của
kịch mà những hành động diễn xuất của nhân vật
hầu như được truyền đạt qua âm nhạc và giọng
hát. Opera bắt đầu xuất hiện và biết đến nhiều
vào khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI nhờ
có sự liên kết với âm nhạc cổ điển của phương
Tây. Mặt khác, Opera đồng thời cũng sử dụng
các yếu tố của ngôn ngữ nhà hát như: Cảnh nền
trang trí, y phục, và nghệ thuật biểu diễn trên sân
khấu. Opera cũng có thể kết hợp với khiêu vũ và
nhảy múa (đây là một loại hình nghệ thuật tiêu
biểu của nước Pháp). Và cuối cùng, Opera được
biểu diễn trong một nhà hát chuyên dụng cùng
với những trang bị thiết yếu mà ta biết đến dưới
tên gọi là “Opera House” (Nhà hát Opera).
Ở Việt Nam khoảng thập niên 40 một số ít
văn nghệ sỹ tiếp cận opera qua đường Tây học
nhưng phổ biến ở những thập niên 60, 70 của thế
kỷ XX chủ yếu trong các cơ sở đào tạo âm nhạc
phía Bắc.
1. Opera ra đời và phát triển ở Ý vào thời
kỳ Phục hưng và Baroque
Do nhu cầu giải trí của giới quý tộc Ý, Opera
đã ra đời cuối thế kỷ 16 tại thành phố Florence
với việc thành lập các “nhóm hàn lâm” (Aca-
demia). Jacopo Peri (1561-1633) đã sáng tác vở
opera “Dafne” vào năm 1597 với phần lời của
nhà thơ Ottavio Rinuccini - được coi là vở opera
đầu tiên trong lịch sử âm nhạc thế giới. Vào năm
1600, Peri và Rinuccini lại cùng nhau sáng tác
“Euridice”, vở opera này còn được lưu giữ đến
ngày nay.
Trong các Opera ta thường gặp thuật ngữ
Aria. Đây là một loại hình có trong các tác phẩm
opera, oratorio, cantata, messe. Aria là một trích
đoạn hoàn chỉnh về nghệ thuật và kết cấu thường
có hai hoặc ba đoạn dành cho diễn viên đơn ca
với dàn nhạc đệm. Aria là những cao trào của
cảm xúc, thể hiện đậm nhất chân dung, tính cách
của nhân vật. Ngoài ra một số hình thức đơn ca
khác còn được gọi: Monolog (độc thán), cava-
tina, arietta, cabaletta, arioso, ballada, ca khúc,
romance.
Claudio Monteverdi (1567-1643) là cầu nối
giữa thời kỳ Phục hưng và Baroque. Năm 1607
ông sáng tác vở opera “Orfeo”, lấy cảm hứng từ
câu chuyện Orpheus và Euridice trong thần thoại
Hi Lạp. So với “Euridice” của Peri, thì vở opera
của Monterverdi có những thay đổi mang tính
cách mạng. Monterverdi được coi là một trong
những nhạc sĩ có ảnh hưởng nhất đối với những
thế hệ sau.
Đến cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18, trung tâm
opera của nước Ý chuyển từ Venice sang Naples.
Đặc điểm nổi bật nhất của những vở Neapolitan
opera này là sự hài hước nhẹ nhàng mở đầu cho
những vở opera buffa (opera hài hước) sau này.
Nhạc sĩ nổi tiếng nhất thời kì này là Alessandro
Scarlatti (1660-1725).
2. Sự phát triển opera tại các nước Pháp,
Đức và Anh thời kỳ Phục hưng:
- Pháp: Năm 1647, lần đầu tiên người dân
Pháp tiếp cận thể loại opera khi vở “Orfeo” của
Luigi Rossi được công diễn tại Paris; tiếp theo đó
là những vở opera của Pietro Francesco Cavalli.
Trước đó ở Pháp, loại hình sân khấu chiếm vị
trí chủ đạo là ballet. Chỉ đến khi có sự xuất hiện
của Jean-Baptiste Lully (1632-1687) thì mới có
sự ra đời của nền opera Pháp. Lully sử dụng rất
nhiều những vũ điệu, đưa ballet trở thành một
nhân tố tích cực trong opera. Ông cũng quan
tâm nhiều đến hiệu quả hợp xướng - điều trước
đây hầu như chưa thấy xuất hiện trong opera Ý.
Những vở opera đáng chú ý của Lully là “Al-
ceste” (1674), “Atys” (1676) và “Armide et
Rénaud” (1686). Tiếp nối Lully, Jean Philippe
Rameau (1683-1764) cũng là một tác giả nổi
tiếng. Những vở opera của Lully và Rameau còn
được gọi là opera - ballet.
- Đức:Vở opera đầu tiên của nước Đức -
“Dafne” (1627) do nhạc sĩ Heinrich Schütz
(1582-1672) sáng tác. Âm nhạc trong toàn bộ
tác phẩm của Schütz nói chung chịu ảnh hưởng
từ âm nhạc Ý. Sau khi Schütz qua đời, tại Ham-
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
44 SỐ 8 - THÁNG 8/2015
burg, nổi lên nhạc sĩ Reinhard Keiser (1674-
1739) người ảnh hưởng nhiều đến Nhạc sỹ Han-
del và Mozart sau này.
Georg Philipp Telemann (1681-1767)sáng
tác khoảng 40 vở opera và được người đương
thời đánh giá thậm chí còn cao hơn Bach và
Handel. Sau khi Telemann qua đời, nền opera
Đức quay lại ảnh hưởng opera Ý.
- Anh: Trước khi xuất hiện opera, ở nước
Anh vào cuối thế kỉ 16 thịnh hành kịch mặt nạ
(masque). Chỉ đến khi Henry Purcell (1659-
1695) xuất hiện thì nền opera Anh mới thực sự
bắt đầu. Ông chính là người đã khai sinh ra nền
opera Anh với vở “Dido and Aeneas” (1689). Từ
đó hình thành Nhà hát Opera đầu tiên ở London
năm 1671.
Sau khi Purcell qua đời, một thời gian dài nền
opera Anh không có những tác phẩm nào đáng kể.
Chỉ đến khi có sự xuất hiện của nhà soạn nhạc vĩ
đại George Frideric Handel (1685-1759) thì nền
opera Anh mới khôi phục được vị thế của mình.
Những vở opera được Handel sáng tác trong thời
gian này như “Rodrigo” (1707) và “Agrippina”
(1709) đã giành được tiếng vang lớn và thu hút
được sự chú ý của nhà hát Opera London. Han-
del được mời sang London và ngay lập tức bằng
vở opera mang phong cách Ý “Rinaldo” (1711),
ông đã được nhà hát mời cộng tác lâu dài. Khi
Nhạc viện Hoàng gia thành lập, Handel đảm
nhận trọng trách giám đốc Nhạc viện và nhạc
trưởng chính của nhà hát opera London.
3. Nghệ thuật opera thời kỳ Cổ điển
Tuy hình thành ở Italia vào thời kì Phục
hưng, nhưng thời kỳ này, opera chủ yếu phát
triển tại Đức, Áo và Pháp. Đây cũng là thời kì
nền opera châu Âu chia làm hai khuynh hướng
chính: opera nghiêm túc (opera seria) và opera
hài hước (opera buffa). Sân khấu opera châu Âu
vào đầu thế kỉ 18 cần có một sự thay đổi mang
tính bước ngoặt. Trong bối cảnh đó, opera buffa
lên ngôi và trở thành chủ đạo của thời kỳ Cổ
điển. Khởi nguồn từ opera Neapolitan, opera
buffa với phong cách dí dỏm, nhẹ nhàng lấy bối
cảnh từ chính cuộc sống hàng ngày của người
dân, châm chọc những người thuộc tầng lớp trên
nên dễ được quần chúng đón nhận và trở thành
đối trọng của opera seria. Vì vậy opera buffa đã
khẳng định được vị thế của mình vào đầu thế kỉ
19. Nhạc sĩ tiêu biểu là Giovanni Battista Per-
golesi (1710-1736). Opera buffa “La serva pad-
rona” (1733) là vở opera buffa đầu tiên thoát ra
khỏi lề lối một vở opera seria để công diễn độc
lập. Pergolesi được xem là nhạc sĩ lớn đầu tiên
sáng tác opera buffa.
Ở Pháp và Đức opera cũng có những cải cách
đáng kể theo hướng độc lập và có xu hướng ngày
càng ít chịu ảnh hưởng từ opera Ý. Tại Pháp, op-
era hài hước được gọi là opera-comique tiếp thu
và phát triển từ các vở opera buffa của Ý nhưng
có thay đổi đáng kể, nhất là không sử dụng hát
nói (recitativo) mà thay vào đó là hình thức đối
thoại. Tác giả đáng chú ý là nhạc sĩ người Bỉ
sống tại Pháp từ năm 1767 André Modeste Gré-
try (1741-1813) với vở “Richard Coeur-de-lion”
(1875). Grétry cũng được coi là người đầu tiên
đặt nền móng cho opéra grade. Từ giữa thế kỉ thứ
18 hình thành thể loại singspiel (hát - diễn).
So sánh với opera buffa hay opera-comique
thì singspiel đối thoại nhiều hơn và mang nhiều
âm hưởng của các bài hát dân ca Đức (lied) cùng
với ảnh hưởng từ hài kịch dân gian Đức. Johann
Adam Hiller (1728-1804) được coi là người
sáng lập ra singspiel.
Christoph Willibald Gluck (1714-1787)
Nhạc sĩ người Đức là một nhà cải cách opera vĩ
đại. Thời gian đầu ông sống ở Milan và đã sáng
tác khá nhiều vở opera đã đem lại danh tiếng.
Ông nghiên cứu âm nhạc của hầu hết các nước
châu Âu và rồi định cư tại Vienna từ năm 1750.
Gluck đã tiếp thu tư tưởng của phong trào Khai
sáng và từ đó ông nung nấu ý định cải cách opera
vì nhận thấy các vở opera đã trở nên rập khuôn
và thiếu sâu sắc.
Năm 1761, Gluck đã có dịp gặp gỡ và làm
quen với nhà thơ Ranicro Calzabigi và 2 người
bạn này đã cùng nhau viết vở opera “Orfeo ed
Euridice”. Năm 1762, vở opera được công diễn
lần đầu tại Vienna. Nó trở thành cột mốc quan
trọng đánh dấu một bước tiến mới trong việc cải
cách opera. “Orfeo ed Euridice” là một lời tuyên
chiến quyết liệt với sự hào nhoáng bề ngoài và
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
45SỐ 8 - THÁNG 8/2015
xu hướng mua vui của giới quý tộc. Gluck có
ảnh hưởng rõ rệt với Mozart, Weber, Berlioz và
Wagner sau này. Tinh thần vĩ đại của Gluck được
nhiều nhạc sĩ sau này tiếp thu và vai trò lịch sử
của ông đã được chính thức thừa nhận.
Thời kỳ này phải nhắc đến hai tên tuổi lừng
lẫy:
Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791)
nhà soạn nhạc thiên tài người Áo là tác giả của
hơn 20 vở opera trong đó có nhiều vở đã trở
thành những kiệt tác. Với tư cách một nghệ sĩ
piano thần đồng, thuở nhỏ Mozart đã đi biểu
diễn tại rất nhiều nơi và tiếp thu được tinh hoa
của nhiều loại hình âm nhạc như những bài hát
Neapolitan, thủ pháp đối vị của Đức và các bản
giao hưởng của Haydn. Chính điều này giúp cho
trong các vở opera của Mozart có được sự cân
bằng giữa các nghệ sĩ đơn ca và hợp xướng, giữa
ca sĩ và dàn nhạc.
Mozart kết hợp với Lorenzo da Ponte người
chuyên viết lời cho các vở opera như: “Le nozze
di Figaro” (1786), “Don Giovanni” (1787) và
“Così fan tutte” (1790). Ngoài “Così fan tutte”
là viết theo đơn đặt hàng nên có chất lượng
nghệ thuật không cao, còn 2 tác phẩm kia đều
là những tuyệt tác. Mozart lần đầu tiên đưa kèn
trombone vào biên chế trong dàn nhạc, làm cho
âm nhạc của màn cuối được vang lên ngay trong
phần mở màn (overture). Điều này cho thấy ảnh
hưởng của Gluck đối với Mozart. Với “Die en-
tführung aus dem Serail” (1782) và đặc biệt là
“Die Zauberflöte” (1791) - vở opera cuối cùng
của Mozart, singspiel đã đạt đến đỉnh cao chưa
từng thấy.
-Ludwig van Beethoven (1770-1827) với
opera Fidelio (1814) là vở opera duy nhất và
cũng là tác phẩm khiến ông tốn nhiều công sức
nhất. Bản tiếng Đức như ngày nay chúng ta
thưởng thức được biểu diễn lần đầu tiên vào năm
1814. “Fidelio” là vở opera có hình thức sing-
spiel với nội dung thuộc trào lưu giải cứu opera
(rescue opera) với các aria và recitativo có kĩ xảo
khó. Opera “Fidelio” ra đời bắt nguồn từ cuộc
Cách mạng Pháp 1789, chính vì vậy “Fidelio”
còn được gọi là “Người con gái của Cách mạng
Pháp 1789”.
Có thể nói, Beethoven là một trong những
người tiên phong trong việc “giao hưởng hóa”
opera. Chính vì vậy, có thể coi “Fidelio” là viên
gạch đầu tiên của opera Lãng mạn Đức thế kỉ 19.
4. Opera và kỹ thuật Bel canto Italia thời
kì Lãng mạn
Bel canto (hát đẹp) là một nghệ thuật hát có
tại nước Ý từ thế kỷ 17 nhưng được phát triển
mạnh nhất trong những thập niên đầu tiên của
thế kỷ 19. Tại Ý đầu thế kỷ 19 đã xuất hiện 3
nhạc sỹ: Rossini, Donizetti và Bellini với các
vở opera mang đậm phong cách bel canto đã để
lại cho chúng ta một kho tàng nghệ thuật thanh
nhạc vô giá. Ba nhạc sỹ trên là những nhà soạn
nhạc trung thành với trường phái này và cũng là
những người đưa bel canto đến đỉnh cao nghệ
thuật. Tên gọi của 3 nhạc sĩ cũng đồng nghĩa với
bel canto, họ được coi là những người khổng lồ
của Bel canto.
Các vở opera buffa của Gioacchino Rossini
(1792-1868) là những mẫu mực cho thể loại op-
era opera nửa nghiêm túc (semiseria). Những
sáng tác tiêu biểu trong giai đoạn 1813 - 1817
như: “L'Italiana in Algeri” (1813), “Il Turco in
Italia” (1814), “Il Barbiere di Siviglia” (1816) và
“La Cenerentola” (1817).
Bên cạnh đó Rossini cũng viết opera seria như
các vở “Tancredi” (1813) và “Otello” (1816),
“Le Comte Ory” (1828) và “Guillaume Tell”
(1829) trong đó “Guillaume Tell” là tiền đề cho
sự ra đời cho các vở opéra grande của Pháp sau
này. Sau một thời gian dài opera Ý chìm khuất
sau opera của Gluck và Mozart, chính Rossini
là khiến opera Ý trở lại với vị trí vốn có của nó.
Vincenzo Bellini (1801-1835) viết các vở
opera của mình cho các ca sỹ hàng đầu thời bấy
giờ, chính vì vậy độ khó của tác phẩm là rất lớn,
đòi hỏi phải là những giọng hát xuất sắc nhất
của Trường phái bel canto mới có thể trình diễn
được. Bellini đã để lại 11 vở opera trong đó nổi
tiếng nhất là bộ ba: “La Sonnambula” (1831);
“Norma” (1831) và “I Puritani” (1835). Bellini
qua đời ở độ tuổi 34, đúng lúc tài năng đang độ
sung sức nhất.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
46 SỐ 8 - THÁNG 8/2015
Trung dung giữa Rossini và Bellini đồng thời
cũng có số lượng các vở nhiều nhất là Gaetano
Donizetti (1797-1848). Donizetti sáng tác gần
70 vở opera. Donizetti là người tạo được sự cân
bằng giữa chất trữ tình và kịch tính trong các
vở opera của mình, là người có ảnh hưởng lớn
đến Verdi sau này. Đỉnh cao nhất của Donizetti
là các vở “L'elisir d'amore” (1832) và “Lucia di
Lammermoor” (1835). Dù vậy, Rossini, Doni-
zetti và Bellini vẫn là những nhạc sỹ chịu ảnh
hưởng của opera thế kỷ 18 và các tác phẩm của
họ thể hiện chủ nghĩa lãng mạn qua ca từ nhiều
hơn là âm nhạc. Phải đến Giuseppe Verdi (1813-
1901) ta mới thấy ông là một nhạc sỹ thiên tài,
người đã nói lên tiếng nói của nhân dân, người
đã cùng với những người con yêu nước đã chiến
đấu để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh
với quân Áo vào năm 1848. Với sự ra mắt vở
opera “Nabucco” (1842) tại La Scala, Verdi đã
trở thành biểu tượng không chỉ của thành phố
Milano mà còn của cả nước Ý. Tên tuổi của
Verdi thực sự được lưu danh trong lịch sử opera
khi có sự xuất hiện của 3 vở opera: “Rigoletto”
(1851), “La Traviata” (1853) và “Il Trovatore”
(1853). Đây là những kiệt tác trong kho tàng op-
era của nhân loại và đến tận bây giờ, các nhà phê
bình vẫn chưa thể thống nhất được với nhau đâu
là vở xuất sắc hơn.
Trong các năm tiếp theo,Verdi hướng đến các
vở opera có qui mô đồ sộ hơn như “Don Carlo”
(1867) và đặc biệt là “Aida” (1871). Khi đã ở
tuổi ngoài 70, Verdi sáng tác một trong những vở
xuất sắc nhất của mình là: “Otello” (1887) theo
lời đề nghị của Arrigo Boito (1842-1918) - một
người bạn, tác giả vở opera “Mefistofele”. Boito
cũng chính là người khuyên Verdi sáng tác vở
opera cuối cùng “Falstaff” (1893) và cũng là vở
opera hài mang phong cách opera buffa nổi tiếng
duy nhất của ông.
Trường phái chân thực (Verismo) là trường
phái bao trùm lên nước Ý vào những năm cuối
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với mục đích phơi bày
hiện thực trần trụi của xã hội đương thời nhằm
phản đối và đả kích những vở opera mang màu
sắc thần thoại của Wagner. Có rất nhiều nhạc sỹ
nổi tiếng thuộc trường phái Verismo, tuy nhiên
nổi tiếng nhất phải kể đến nhạc sỹ Giacomo
Puccini (1858-1924). Ông là tác giả của nhiều
vở opera nổi tiếng như: “La Bohème” (1897);
“Tosca” (1900); “Madama Butterfly” (1904) và
“Turandot” (1824). Puccini đã đóng góp vào
kho tàng opera thế giới những vở opera tràn đầy
những cảm xúc mạnh mẽ với giai điệu đẹp thể
hiện mọi cung bậc của tâm hồn. Tâm điểm trong
các opera của ông luôn là các aria hay tuyệt đẹp
một cách diệu kỳ. Nhiều nhà phê bình đã nhận
xét rằng trong opera Ý, sau các tên tuổi Rossini
và Verdi phải nói đến Puccini.
Ngoài sự phát triển các trường phái Ý, các
trường phái Opera khác còn phát triển và đạt đến
đỉnh cao thuộc các thời kỳ Cổ điển, Lãng mạn,
Hiện đại ở một số nước tiêu biểu khác như Đức,
Áo, Anh, Pháp, Nga, Zech, Mỹ.
5. Các trường phái Thanh nhạc tiêu biểu
Sự hình thành và phát triển thể loại Opera như
đã phác thảo ở trên cho thấy lịch sử của nó gắn
liền với kỹ thuật và các trường phái khác nhau.
Ngày nay thế giới đã hình thành nhiều trường
phái Thanh nhạc, mỗi trường phái đã đóng góp
cho nền âm nhạc của từng quốc gia và thế giới
về lý luận, phương pháp trong đó có kỹ thuật Bel
canto. Ở đây xin nêu một số trường phái tiêu biểu
như: Trường phái Thanh nhạc cổ điển Ý, Trường
phái Thanh nhạc Pháp, Trường phái Thanh nhạc
Đức, Trường phái Thanh nhạc Nga, Trường phái
Thanh nhạc Thụy Điển
Trường phái Thanh nhạc cổ điển Ý thường
chú ý lối hát liền giọng (cantilena). Trình độ sáng
tác và biểu diễn đạt đến trình độ cao tạo điều
kiện phát triển kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện,
tinh xảo, phát triển phong cách hát màu sắc, hát
rung láy, hát nhanh nhiều nốt, hát nói, điểm tựa
của âm thanh và phương pháp phát triển hơi thở
mà đặc biệt là kiểu thở hoành cách mô là mấu
chốt của Trường phái Thanh nhạc Bel canto –hát
đẹp ảnh hưởng toàn thế giới đến ngày nay.
Trường phái Thanh nhạc Pháp đã tìm ra cơ
cấu của các bộ phận cơ thể liên quan đến giọng
hát.Trường phái này đã viết giáo trình hướng dẫn
“Phương pháp hát của Nhạc viện Paris” trong
đó chú trọng đến vấn đề hơi thở, âm khu giọng
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
47SỐ 8 - THÁNG 8/2015
hát và các bài vocalize, kỹ thuật hát mượt mà.
Trường phái Pháp cũng xác định được giọng đầu
và giọng ngực, giọng hỗn hợp mà sau này gọi là
giọng medium hay giọng mixt, tiền đề cho việc
sử dụng âm thanh đóng tiếng sau này.
Trường phái Thanh nhạc Đức đã đạt được
những vấn đề cơ bản về hơi thở, cộng minh, vị
trí âm thanh của các âm khu thấp, âm khu cao và
âm khu đầu, vai trò của việc nhấc hàm ếch mềm
và lưỡi, vai trò âm lượng của giọng hát.
Trường phái Thanh nhạc Nga đã hoàn thiện
các bài tập cho luyện giọng trên cơ sở âm thanh
tự nhiên kéo dài âm thanh từ thấp lên cao trên cơ
sở hát ở phần trung của giọng. Trường phái Nga
cũng đưa ra một số tiêu chuẩn cho việc học hát
như về độ tuổi, cơ thể, khẩu hình, hơi thở và các
chế độ luyện tập
Trường phái Thanh nhạc Thụy Điển đã
đưa ra một số cơ sở lý luận về đào tạo Thanh
nhạc, xác định âm khu của giọng hát.
Tất cả các Trường phái trên tạo nên bức tranh
đa sắc màu và các triết lý, phương pháp đào tạo
thanh nhạc cho Thế giới. Tùy theo tập quán văn
hóa, sở trường của mỗi dân tộc, việc vận dụng
trường phái thanh nhạc vào đào tạo có khác nhau.
Vì vậy các Học viện âm nhạc vẫn đông sinh viên
học thanh nhạc với các kỹ thuật để biểu diễn tốt
trong các Opera cổ điển và hiện đại. Nhiều cuộc
thi thanh nhạc thế giới và khu vực với các kỹ
thuật bel canto và kỹ thuật thanh nhạc hiện đại
vẫn được tổ chức hàng năm ở nhiều quốc gia thu
hút hàng ngàn thí sinh tham gia.
6. Ca hát chuyên nghiệp Việt Nam với nghệ
thuật Bel canto
Từ sự ảnh hưởng của Âm nhạc Châu Âu, âm
nhạc Pháp thâm nhập Việt Nam thông qua tôn
giáo, các đội kèn nhà binh, các lớp dạy nhạc ở
các trường và các tư gia của người Pháp, Op-
era đã đến với công chúng Việt Nam khá sớm
khoảng đầu thế kỷ XX. Nếu tính các hoạt động
ca đoàn ở Nhà thờ Công giáo thì opera còn hiện
diện sớm hơn, nhưng để đưa vào học đường thì
opera thực sự trở thành chuyên ngành học từ khi
Trường âm nhạc Việt Nam ra đời năm 1956 nay
là Học viện âm nhạc Quốc gia Hà Nội.
Thông qua đội ngũ các ca sĩ, nhà sư phạm
được đào tạo chuyên nghiệp tại một số nước
châu Âu, các Nhạc viện, các trường Nghệ thuật
ở Việt Nam đã hình thành đội ngũ các nhạc sĩ
sáng tác, ca sỹ có kỹ thuật trở thành nòng cốt
trong việc đưa kỹ thuật bel canto vào giảng dạy.
Tất cả các cơ sở trên là những điều kiện thuận lợi
để opera tham gia vào ca hát chuyên nghiệp Việt
Nam hình thành và phát triển trong giới hạn, có
uy tín trong khu vực và quốc tế.
Ngày nay, những Nhạc viện chính quy, những
Cơ sở đào tạo Thanh nhạc như Học viện âm nhạc
Quốc gia Hà Nội, Nhạc viện TP.HCM, Học viện
âm nhạc Huế, Trường đại học Văn hóa Nghệ
thuật Quân đội, Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng
Nhạc Vũ kịch Việt Nam, Nhà hát Giao hưởng
Hợp xướng Nhạc Vũ kịch TP.HCM, tổ chức đào
tạo có kết quả trong việc đưa opera vào giảng
dạy thanh nhạc. Nhiều nghệ sỹ Việt Nam đạt các
giải thưởng cao trên thế giới như Trung Kiên, Lê
Dung, Minh Đức, Xuân Thanh, Rơchămphiang,
Tạ Minh Tâm, Quang Thọ, Bích Thuỷ đã
chứng minh cho sự phát triển và trưởng thành của
nền âm nhạc Việt Nam - Ca hát chuyên nghiệp
Việt Nam khi sử dụng nghệ thuật Bel canto.
Có được thành tựu đó, các cơ sở đào tạo ca
hát chuyên nghiệp đã biết kết hợp một cách hài
hòa giữa kỹ thuật Bel canto châu Âu với kỹ thuật
hát tròn vành rõ chữ trong truyền thống hát dân
ca của dân tộc Việt Nam.
Trong các giáo trình, phương pháp hát dân
tộc tròn vành rõ chữ được các giảng viên đào
tạo Thanh nhạc tại các Nhạc viện, các Trường
Âm nhạc xem là một nguyên tắc bất di bất dịch
khi đào tạo ca sĩ thanh nhạc theo Trường phái
Bel canto. Ngay từ năm 1965, trong cuộc Hội
thảo về âm nhạc do Ban Nghiên cứu âm nhạc
thuộc Vụ nghệ thuật - Bộ Văn hoá tổ chức, các
nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ, các chuyên gia
thanh nhạc đã khẳng định “Tiếng hát Việt Nam
phải tròn vành rõ chữ” là một phương châm Ca
hát mang tính dân tộc đồng thời lại mang tính
khoa học. Ngay từ khi Chèo cổ được hình thành
từ xa xưa và phát triển ở đồng bằng Bắc bộ, kỹ
năng này đã trở thành bắt buộc đối với tất cả các
diễn viên.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
48 SỐ 8 - THÁNG 8/2015
Bất kỳ một ngôn ngữ nào thì khi nói hoặc
hát, người nói hay người hát cũng cần đem đến
cho người nghe những thông tin: nói cái gì? hát
cái gì? Vì vậy mà yếu tố rõ lời trong nói hoặc
trong hát là một nguyên tắc bắt buộc. Tuy nhiên
trong xu hướng thế giới mở, nghệ thuật bel canto
đã dần được xem là kỹ thuật hát chuyên nghiệp
của nhiều nước trên thế giới. Do đó Trường phái
Thanh nhạc cổ điển Bel canto của Italia và Châu
Âu đã và đang tiếp tục ảnh hưởng vào các hoạt
động đào tạo Thanh nhạc của Việt Nam là xu thế
tất yếu.
7. Sự tương đồng một số kỹ thuật hơi thở
Bel canto với ca hát dân tộc
Một điều ngẫu nhiên là kỹ thuật hơi thở của
trường phái Bel canto của châu Âu rất gần với ca
hát dân tộc - kỹ thuật ca hát cổ truyền, đặc biệt ở
Tuồng, Chèo... Theo kỹ thuật này, hơi thở trong
khi hát được đề cập và sử dụng nhiều thuật ngữ
như: hơi bụng, hơi gan, hơi hòm, hơi lá lách, hơi
đan điền, hơi hột...hơi ruột, hơi gan, “hát rút ruột
rút gan, hát thể tận can tràng”.
Về phương pháp hát cộng minh: Âm lượng
của giọng hát có được bởi sự kết hợp một cách
khoa học và tự nhiên giữa hoạt động phát âm
của thanh đới với việc cộng hưởng những luồng
sóng âm ấy nhờ có các xoang vang trên đầu và
lồng ngực (lồng ngực, vòm hầu, hàm ếch, hốc
mũi, hốc má, hốc trán, xoang bướm). Đây cũng
là nguyên lý và cơ chế “phát thanh” nói chung
của tất cả các Trường phái ca hát hàn lâm chuyên
nghiệp trên thế giới từ trước tới nay.
Kỹ thuật Thanh nhạc Bel canto chính là nghệ
thuật huy động, phát huy, tận dụng các khả năng
cộng hưởng tự nhiên nói trên một cách triệt để
nhất, nhằm mục đích khuyếch đại giọng hát,
làm cho tiếng hát có âm lượng lớn, có cường độ
mạnh, có sức vang to...v.v... Tuy nhiên, hát cộng
minh hay âm thanh có vị trí không có nghĩa đơn
thuần chỉ là con số cộng một cách máy móc, giáo
điều các khoảng vang âm học lại với nhau để
thành một giọng hát đẹp (!).
Đã từng xảy ra sự ngộ nhận về phương pháp
hát cộng minh. Hoặc là coi phương pháp hát
cộng minh Bel canto châu Âu là không dân tộc,
làm cho tiếng hát “nhồm nhoàm”, “ồn ào” không
rõ lời. Ngược lại, có thái độ sùng bái cách hát
cộng minh Bel canto châu Âu một cách nô lệ,
mù quáng và coi cách hát truyền thống dân tộc là
thiếu khoa học.
Các nghệ nhân Việt Nam rất có ý thức trong
việc sử dụng kỹ thuật này từ dân gian. Ở nghệ
thuật Tuồng, các xoang vang (Cộng minh) được
gọi bằng thuật ngữ hơi như hơi hòm, hơi hàm,
hơi hầu, hơi mũi, hơi óc, hơi mé... Ở nghệ thuật
Chèo, lại có những tên gọi như: hơi hầu âm, hơi
mé... Nghĩa là, trong kỹ thuật ca hát cổ truyền,
cha ông ta đã từng biết kết hợp, sử dụng tất cả
các xoang vang tự nhiên cần thiết làm cho giọng
hát được tăng lên, phóng ra xa hơn, vang to hơn.
Việc biết kết hợp sự cộng hưởng âm thanh đối
với các xoang vang của ông cha ta như vậy đâu
phải ngẫu nhiên mà thực chất xuất phát từ sự
hiểu biết và cảm nhận có cơ sở khoa học về âm
học hết sức đáng lưu ý.
Như vậy, khi đề cập đến “hát theo phương
pháp cộng minh” theo kỹ thuật Bel canto cổ điển
châu Âu, chúng ta càng sáng tỏ thêm sự nhận
thức về tính khoa học được đúc kết, sàng lọc qua
kinh nghiệm thực tiễn của cha ông ta trong kỹ
thuật thanh nhạc cổ truyền dân tộc. Những cụm
tính từ : “Tròn vành - Rõ chữ ” thực chất là sự
cụ thể hóa các biện pháp kỹ thuật về hơi thở, về
cộng hưởng âm thanh hay cộng minh, vị trí cũng
vậy, những quan điểm đó tạo nên tiêu chí thẩm
mỹ thẩm âm của người Việt, phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý, ngôn ngữ Việt Nam từ ngàn
xưa đến nay.
Từ khi tiếp cận với kỹ thuật bel canto, nhiều
nhạc sĩ, nghệ sĩ Việt Nam đã có ý thực vận dụng
với kỹ thuật hát của dân tộc. Hai nhạc sĩ Việt
Nam đã kết hợp nguyên lý tròn vành rõ chữ kết
hợp với kỹ thuật Bel canto châu Âu để sáng tác
đầu tiên các vở opera nổi tiếng là Đỗ Nhuận với
Opera Cô Sao sáng tác năm 1964 công diễn lần
đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội nhân dịp hai
mươi năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
2/9/1965 và Người tạc tượng năm 1971. Nhạc
sĩ Nhật Lai cũng đã viết Opera Bên bờ Krongpa
năm 1968 được giới âm nhạc Việt Nam đánh giá
cao.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
49SỐ 8 - THÁNG 8/2015
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình giảng dạy Thanh nhạc - Đại học - Trung học, Thư viện Nhạc viện Hà Nội - 1991.
[2] Mai Khanh, Sách học Thanh nhạc, NXB Văn hóa, Hà Nội.
[3] Nguyễn Trung Kiên (2004), Nghệ thuật Opera Viện Âm nhạc, Hà Nội.
[4] Nguyễn Trung Kiên (2001), Phương pháp sư phạm Thanh nhạc, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
[5] Nguyễn Trung Kiên (2014), Những vấn đề sư phạm Thanh nhạc, Nxb Âm nhạc.
[6] Nguyễn Trung Kiên (1968), Tìm hiểu và phát triển giọng hát, NXB Vụ Văn hóa quần chúng.
[7] Hồ Mộ La (2005), Lịch sử nghệ thuật Thanh nhạc phương Tây, NXB Từ điển Bách khoa.
[8] Lô Thanh (1996), Giáo trình Đại học Thanh nhạc 5 năm, Đại học Nghệ thuật Huế.
[9] Lô Thanh (1991), Xây dựng và phát triển nghệ thuật Thanh nhạc Việt Nam.
[10] Lô Thanh (1998), Thanh nhạc Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975, Trường Đại học Nghệ
thuật Huế
[11] Trương Ngọc Thắng (2001), Công tác đào tạo Thanh nhạc tại Trường đại học Nghệ thuật
Huế, Luận văn cao học, Nhạc viện Hà Nội.
[12] Trương Ngọc Thắng (2007), Ca hát chuyên nghiệp Việt Nam, quá trình hình thành và phát
triển, Luận án Tiến sĩ, Nhạc viện Hà Nội.
Dẫu chỉ mới dừng ở mức độ thể nghiệm,
nhưng bước đầu việc vận dụng kỹ thuật mang
tính kinh điển của thế giới và kỹ thuật dân gian
Việt Nam vẫn được xem là thành công đầy hứa
hẹn.
Kết luận
Không còn nghi ngờ gì nữa, kỹ thuật Bel
canto là thành tựu, đỉnh cao kỹ thuật thanh nhạc
của nhân loại. Nó là giá trị trường tồn, là mẫu
mực cho ca hát chuyên nghiệp. Công tác đào tạo
thanh nhạc với các kỹ thuật bel canto kết hợp
với nghệ thuật hát truyền thống Việt Nam vẫn
đang phát triển ở Học viện âm nhạc Quốc gia
Hà Nội, Nhạc viện TP.HCM, Học viện âm nhạc
Huế, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân
đội, các Trường cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật
ở các tỉnh, thành phố trong cả nước. Kỹ thuật
thanh nhạc Bel canto vẫn chiếm ưu thế trong
phần lớn các ca sĩ đang hoạt động trong lĩnh vực
ca hát chuyên nghiệp Việt Nam. Trong xu hướng
thị trường âm nhạc hiện nay có nhiều lưa chọn,
các phong trào có tuổi đời ngắn, dài khác nhau.
Dù sao thì kỹ thuật bel canto vẫn có chỗ đứng.
Nó góp phần nâng cao trình độ thẩm mỹ âm nhạc
cho công chúng. Sứ mệnh ấy thuộc các cơ sở đào
tạo thanh nhạc.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
50 SỐ 8 - THÁNG 8/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_thuat_bel_canto_trong_dao_tao_thanh_nhac_viet_nam.pdf