Bài tổng quan này giới thiệu một số kỹ thuật trong chẩn đoán
tự động bệnh SR dựa trên phân tích hình ảnh tế bào máu. Trong
đó, điểm lại vắn tắt các thuật toán, kỹ thuật và phương pháp nhận
biết KSTSR qua phân tích hình ảnh có sự hỗ trợ của máy tính và
chỉ ra những hạn chế hiện có. Để thực hiện chẩn đoán SR qua hình
ảnh vết máu trên lam kính, hệ thống chẩn đoán tự động đòi hỏi
5 giai đoạn quan trọng là thu nhận hình ảnh, tiền xử lý hình ảnh,
phân đoạn KST, trích xuất và phân loại tính năng với khả năng xác
định sự hiện diện của KSTSR trong mẫu máu bằng cách phân biệt
giữa các vật nhuộm màu không phải KST (hồng cầu, bạch cầu, tiểu
cầu) và KSTSR. Để xác định nhiễm trùng nếu mẫu máu được chẩn
đoán là dương tính, cần thực hiện một quá trình bổ sung xác định
các giai đoạn phát triển KSTSR và bệnh bằng cách phân biệt các
loài KST và các giai đoạn phát triển của chúng. Tuy nhiên, phần
lớn các nghiên cứu phân tích hình ảnh để chẩn đoán SR hiện tại
chưa đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Điều này cũng mở ra cơ
hội cho các nhà nghiên cứu cải tiến các kỹ thuật ngày càng tốt hơn.
Gần đây, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào y khoa là một
trong những lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng nổi trội nhất [65].
Không chỉ riêng Việt Nam mà ở nhiều quốc gia trên thế giới, các
sản phẩm thực tế từ ứng dụng AI đều thu hút được sự quan tâm của
các nhà đầu tư. Hiện nay, việc phát hiện KSTSR bằng xét nghiệm
lam máu nhuộm Giemsa trên kính hiển vi vẫn được coi là phương
pháp chính để chẩn đoán SR. Do vậy, phương pháp phân tích hình
ảnh này cần được xem xét nghiên cứu để áp dụng AI vào thực tế.
Ứng dụng AI trong chẩn đoán SR sẽ là hướng tiếp cận mới,
hiện đại. Công nghệ AI kết hợp với dịch vụ dữ liệu di động có thể
giúp cải thiện hiệu quả phát hiện SR vì có thể áp dụng để hỗ trợ các
kỹ thuật viên chỉ được đào tạo cơ bản và thậm chí cả những cán bộ
y tế không chuyên sâu, thông qua việc sử dụng thiết bị di động để
chụp hình ảnh tế bào máu nhuộm Giemsa trên lam kính, chuyển
hình ảnh qua mạng viễn thông đến trung tâm lưu trữ dữ liệu và xử
lý hình ảnh bằng công nghệ AI. Phần mềm ứng dụng công nghệ AI
có thể đưa ra gợi ý giúp xác định các trường hợp bình thường hoặc
bất thường ngay sau đó, với độ chính xác cao, rất tiện lợi và giảm
thiểu chi phí cho những vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là các khu vực
biên giới hạ lưu sông Mekong. Hướng nghiên cứu này đòi hỏi sự
tham gia của các nhà khoa học thị giác máy tính lẫn các nhà nghiên
cứu bệnh học, cũng như các lập trình viên, xây dựng phần mềm để
đạt được sự hợp tác giữa các bên và cùng nhau phát triển.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật chẩn đoán sốt rét tự động bằng phân tích hình ảnh xét nghiệm máu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4862(8) 8.2020
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
Giới thiệu
Bệnh SR ở người là căn bệnh truyền nhiễm do KST thuộc chi
Plasmodium gây ra. KST xâm nhập vào máu qua vết đốt của muỗi
cái Anopheles. Người nhiễm bệnh thường có những triệu chứng
SR điển hình như ớn lạnh, sốt, đổ mồ hôi [1]. Để chẩn đoán bệnh
SR cũng như xác định sự hiện diện của KST trong cơ thể người
bệnh, các cơ quan y tế thường thực hiện một kỹ thuật cơ bản, cổ
điển gọi là xác định hình thái của KSTSR. Kỹ thuật này dựa trên
phương pháp Romanovski, bao gồm các bước: (i) thu thập tiêu
bản lam máu với hai vết máu mỏng và dày, (ii) tiêu bản được đem
nhuộm Giemsa, (iii) soi tiêu bản dưới kính hiển vi quang học để
xác định mẫu máu có bị nhiễm KSTSR hay không [2].
Nhược điểm của các kỹ thuật xác định hình thể KSTSR là kết
quả không khách quan và phụ thuộc vào trình độ, khả năng của kỹ
thuật viên. Các kỹ thuật viên không thường xuyên thực hiện công
việc xét nghiệm hoặc không tham gia các khóa đào tạo định kỳ
có thể quên hình thể của KSTSR, dẫn đến tình trạng kết quả xét
nghiệm kém chính xác. Tuy nhiên, với tình trạng thiếu thiết bị chẩn
đoán hiện đại, đặc biệt tại các bệnh viện địa phương quy mô nhỏ,
thì phương pháp chẩn đoán xét nghiệm KSTSR này vẫn có những
giá trị nhất định.
Phương pháp phân tích hình ảnh tế bào máu có hỗ trợ của máy
tính đã mở ra một hướng mới để phát hiện sớm bệnh SR, khắc
phục được nhược điểm của phương pháp soi mẫu tiêu bản máu trên
kính hiển vi thủ công. Dựa trên phân tích và tổng hợp các nghiên
cứu gần đây của việc xử lý và nhận diện hình ảnh (thị giác máy
tính), bài báo này cung cấp cho các nhà nghiên cứu đang quan tâm
tới phương pháp chẩn đoán SR bằng phân tích hình ảnh tế bào máu
những kiến thức cơ sở. Các nội dung chính trong bài tổng quan
này gồm: tổng quan về bệnh SR; thực trạng nhiễm SR ở Việt Nam;
kỹ thuật chẩn đoán bệnh SR dùng kính hiển vi; kiến thức chung
về chẩn đoán SR bằng phân tích hình ảnh tế bào máu; tóm tắt kết
quả điển hình các nghiên cứu phát triển gần đây ứng dụng hỗ trợ
máy tính để phân tích hình ảnh tế bào máu và chẩn đoán SR; thách
thức đang tồn tại và hướng nghiên cứu ứng dụng trong tương lai
tại Việt Nam.
Tổng quan về bệnh SR
Đặc điểm chung về bệnh SR
SR là một căn bệnh phổ biến ở các quốc gia thuộc khu vực
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đối tượng mắc bệnh SR không giới hạn
nhóm tuổi. Có 3 yếu tố liên quan đến sự lây truyền của bệnh SR:
mầm bệnh (KSTSR); vector truyền bệnh (muỗi truyền bệnh SR);
khối thụ thể (người bình thường mang mầm bệnh). Số ca nhiễm
bệnh và mức độ lây lan bệnh SR ở mỗi khu vực phụ thuộc vào điều
kiện môi trường như: lượng mưa, khu vực muỗi sinh sản và sự hiện
diện của các loài muỗi mang mầm bệnh. Bên cạnh đó, các yếu tố
xã hội cũng ít nhiều ảnh hưởng đến sự lây lan KST và có thể khiến
dịch bệnh bùng phát. Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên lẫn điều
kiện xã hội, ở một số khu vực, người ta ghi nhận số ca mắc bệnh
SR ổn định quanh năm, trong khi đó, ở một số vùng khác, dịch SR
Kỹ thuật chẩn đoán sốt rét tự động
bằng phân tích hình ảnh xét nghiệm máu
Nguyễn Chí Thiện1, La Ngọc Thùy Vân2, Phạm Kiều Nguyệt Oanh3, Nguyễn Lê Đình Quý1*
1Viện Nghiên cứu và Đào tạo Việt - Anh, Đại học Đà Nẵng
2Khoa Sinh học - Công nghệ sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh
3Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài 1/6/2020; ngày gửi phản biện 10/6/2020; ngày nhận phản biện 21/7/2020; ngày chấp nhận đăng 28/7/2020
Tóm tắt:
Sốt rét (SR) là một bệnh truyền nhiễm đe dọa tính mạng con người do ký sinh trùng (KST) Plasmodium gây ra, lây
truyền qua vết đốt của muỗi Anopheles bị nhiễm bệnh. Kỹ thuật phổ biến nhất trong phát hiện KSTSR là xét nghiệm
máu thông qua lam kính mỏng được nhuộm Giemsa rồi soi trên kính hiển vi quang học. Tuy nhiên, phương pháp soi
trên kính hiển vi thường tốn nhiều thời gian, kết quả phân tích phụ thuộc nhiều vào khả năng của người đọc mẫu và
rất khó để kiểm chứng lại. Nhiều nghiên cứu dựa trên sự hỗ trợ của thị giác máy tính đã được đề xuất nhằm thay thế
kỹ thuật chẩn đoán này. Thông qua bài tổng quan dưới đây, các tác giả trình bày vắn tắt những kết quả điển hình về
các hướng phát triển gần đây trong lĩnh vực máy tính nhằm hỗ trợ chẩn đoán KSTSR. Quá trình chẩn đoán và xác
định bệnh SR bao gồm: chuẩn hóa hình ảnh, phân tách tế bào máu và KST, trích xuất và phân loại các tính năng
đặc trưng cũng được giới thiệu trong bài báo. Cuối cùng, các tác giả thảo luận các thách thức đang tồn tại cũng như
đề xuất các hướng nghiên cứu nhằm ứng dụng phương pháp chẩn đoán tự động KSTSR ở Việt Nam.
Từ khóa: hồng cầu, ký sinh trùng sốt rét, phân loại, vết máu.
Chỉ số phân loại: 2.6
*Tác giả liên hệ: Email: quy.nguyen@vnuk.edu.vn
4962(8) 8.2020
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
xảy ra theo mùa và thường bùng phát vào mùa mưa [1, 3].
Tác nhân gây bệnh SR được xác định là KST thuộc chi
Plasmodium. Chi này có hơn 170 loài gây bệnh trên động vật có
vú, lưỡng cư, chim và bò sát, trong đó 5 loài gây bệnh trên người
(hình 1). Ở Việt Nam, 3 trong số 5 loài này đã được phát hiện và P.
falciparum chiếm tỷ lệ gây bệnh cao nhất (80-85%). Vector truyền
bệnh SR đã được xác định là muỗi Anopheles thuộc họ Culicidae.
Trên thế giới, có trên 420 loài muỗi thuộc giống Anopheles, trong
đó khoảng 70 loài là gây bệnh trên người. Các khu vực khác nhau
có các loại vector truyền bệnh SR khác nhau. Tại Việt Nam, tính tới
thời điểm hiện nay, 59 loài Anopheles đã được phát hiện, trong đó
có 3 loài truyền bệnh chính là Anopheles minimus (An. minimus),
An. dirus và An. sundaicus (nay là An. epiroticus). An. minimus
phân bố chủ yếu ở miền Bắc, trong khi đó An. dirus tập trung chủ
yếu ở khu vực miền Trung, đặc biệt là ở Tây Nguyên [1, 3-5]. Người
là ổ chứa KSTSR duy nhất của bệnh SR ở người (bệnh nhân, người
bình thường mang KST). Tuy nhiên, mới đây ở Malaysia, người ta
đã phát hiện một ca người nhiễm KST từ khỉ [6].
Hình 1. Hình thể các loài gây bệnh trong chi Plasmodium.
Thời gian ủ bệnh - thời gian bắt đầu từ lúc muỗi mang KSTSR
đốt người đến khi người đó có triệu chứng bệnh SR - tùy thuộc vào
loại KST nhiễm vào cơ thể: P. falciparum 9-14 ngày, trung bình 12
ngày; P. vivax 12-17 ngày, trung bình 14 ngày. Đối với các trường
hợp nhiễm bệnh do truyền máu, thời gian ủ bệnh ít hơn vài ngày
tùy theo số lượng KSTSR hiện diện trong máu truyền vào. Về lâm
sàng, bên cạnh các bệnh nhân biểu hiện triệu chứng điển hình, thì
những trường hợp sốt không đặc trưng, chưa được xét nghiệm máu
hoặc kết quả xét nghiệm âm tính nhưng có 4 biểu hiện sau vẫn bị
nghi ngờ nhiễm SR: (i) sốt trên 37,5oC hoặc có sốt trong 3 ngày
trở lại; (ii) không giải thích được tình trạng bệnh bằng các bệnh lý
gây sốt khác; (iii) đang cư trú hoặc di chuyển gần khu vực có SR
trong thời gian 9 tháng gần đây; (iv) đang điều trị SR trong vòng
3 ngày [2].
The computer-aided diagnosis
of malaria parasites by blood
testing images
Chi Thien Nguyen1, Ngoc Thuy Van La2,
Kieu Nguyet Oanh Pham3, Le Dinh Quy Nguyen1*
1VN-UK Institute for Research and Executive Education, University of Danang
2Faculty of Biology and Biotechnology, University of Science,
Vietnam National University, Ho Chi Minh city
3Hospital for Tropical Diseases, Ho Chi Minh city
Received 1 June 2020; accepted 28 July 2020
Abstract:
Malaria caused by Plasmodium parasites is a life-
threatening disease in humans, transmitted through
the bite of an infected Anopheles mosquito. The most
common technique for detecting malaria parasites is
Giemsa stained blood smear on optical microscopes.
However, conventional microscopy has proved inefficient,
because this technique is often time-consuming while the
results of the analysis are dependent on the technical’s
level and difficult to reproduce. Many studies have
been proposed to replace diagnostic techniques based
on the support of computer vision. In this review, the
authors briefly presented the typical results of recent
developments in the computer field to support the
diagnosis of malaria parasites. The process of diagnosis
and identification of malaria parasites, which included
image standardisation, segmentation of blood cells and
parasites, feature extraction and classification of specific
features, was also introduced in this paper. Finally,
the authors discussed existing challenges together
with proposing research directions to apply automatic
diagnostic methods of malaria parasites in Vietnam.
Keywords: blood smear, malaria parasite, parasite
segmentation, red blood cells.
Classification number: 2.6
5062(8) 8.2020
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
KSTSR có thể phát triển theo hai hình thức: vô tính hoặc hữu
tính. Trong hình thức vô tính, chu kỳ phát triển của KST được
tính từ thời điểm muỗi nhiễm KST đốt người. Chúng xâm nhập
vào gan qua đường máu, phát triển trong tế bào gan, sau đó phá
vỡ tế bào gan trở lại đường máu, đồng thời giải phóng thêm các
KST non (hình 2). KST non đi vào hồng cầu, tiếp tục sinh trưởng,
phá vỡ hồng cầu và giải phóng thêm nhiều KST non dẫn đến cơn
SR. Một số phát triển thành giao bào đực và cái. Giao bào có thể
truyền sang cơ thể muỗi khi muỗi hút máu người, trở thành giao
tử đực và cái, phát triển theo chu kỳ hữu tính trong dạ dày muỗi,
tạo ra các thoa trùng. Thoa trùng theo tuyến nước bọt muỗi có thể
lây truyền bệnh SR cho người bị muỗi đốt. Sau 2-3 ngày từ cơn sốt
đầu tiên, giao bào xuất hiện trong máu bệnh nhân nhiễm P. vivax,
P. malariae hoặc P. ovale, và sau 7-10 ngày nếu bệnh nhân nhiễm
P. falciparum [1, 3].
Hình 2. Vòng đời của KSTSR.
Bản thân người bệnh cũng là nguồn lan truyền bệnh SR. P.
vivax và P. ovale tồn tại ở trạng thái ngủ trong gan có thể làm tái
phát bệnh SR sau nhiều tháng, thậm chí lên đến 36 tháng sau.
Những bệnh nhân không điều trị đúng quy cách cũng có thể mang
KSTSR trong cơ thể vài năm, cụ thể là 3 năm đối với P. malariae,
2 năm đối với P. vivax và 1 năm đối với P. falciparum. Máu dự trữ
có chứa KSTSR còn khả năng gây bệnh SR cho người nhận trong
thời gian 1 tháng [1, 3].
Bệnh SR lan truyền theo 4 phương thức: muỗi đốt (phương
thức chủ yếu), truyền máu có chứa KSTSR, mẹ truyền qua con khi
nhau thai bị tổn thương (hiếm), tiêm chích bằng ống tiêm có dính
máu mang KSTSR. Chính vì vậy, phòng chống muỗi, tác nhân
trung gian truyền bệnh là con đường chính để ngăn ngừa và làm
giảm sự lây truyền bệnh SR. Các biện pháp can thiệp nhằm phòng
chống tác nhân trung gian truyền bệnh trong một khu vực càng phổ
biến, khả năng bảo vệ cộng đồng tại khu vực đó khỏi dịch bệnh SR
càng cao. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng đưa ra khuyến cáo
với những người có nguy cơ mắc bệnh SR nên thực hiện biện pháp
phòng chống vector truyền bệnh SR (muỗi SR). Hai hình thức
phòng chống muỗi SR hiệu quả nhất trong các biện pháp là ngủ
màn có tẩm hóa chất diệt muỗi và phun tồn lưu trong nhà [1, 3, 7].
Tình hình nhiễm bệnh SR và kháng thuốc ở Việt Nam
Bệnh SR vẫn là một vấn đề y tế nhận được nhiều quan tâm
của cộng đồng, không chỉ riêng Việt Nam mà ở nhiều quốc gia
khác. Theo số liệu báo cáo về SR của WHO, năm 2015 ước tính
trên toàn thế giới có trên 200 triệu người mắc SR và 438.000 ca tử
vong vì SR. Bệnh SR tồn tại ở 91 nước với hơn 3 tỉ người trên toàn
thế giới vẫn đang bị đe dọa bởi SR, chủ yếu ở châu Phi và Đông
Nam Á. Riêng tại các quốc gia Đông Nam Á, ước tính có 20 triệu
người bệnh SR và 32.000 người đã chết vì căn bệnh này [1]. Việt
Nam nằm ở khu vực nhiệt đới, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
sự phát triển của muỗi. Ở Việt Nam, tính đến năm 2015 có tổng
cộng 6.207 người nhiễm bệnh SR và 1 ca tử vong, tỷ lệ KSTSR
tập trung cao nhất tại các tỉnh miền núi và giáp ranh khu vực biên
giới như Bình Phước, Gia Lai, Ninh Thuận, Đắc Nông, Khánh
Hòa, Phú Yên, Đắk Lắk, Quảng Bình, Kon Tum, Bình Thuận. Gần
đây, KSTSR kháng thuốc, muỗi SR kháng hóa chất, tình trạng
giao lưu của người dân thuộc khu vực biên giới và di dân biến
động lớn giữa các vùng lưu hành bệnh SR khiến cho chủng KST P.
falciparum đa kháng thuốc lan truyền, đặc biệt là tại biên giới các
quốc gia Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Lào. Tất cả
điều này có thể đe dọa các thành quả và làm thất bại mục tiêu loại
trừ SR, khiến dịch SR trở lại với diễn biến phức tạp hơn [3, 7, 8].
Kỹ thuật chẩn đoán SR
Theo khuyến cáo của WHO, tất cả các trường hợp có nghi ngờ
mắc bệnh SR phải được xác nhận bằng xét nghiệm chẩn đoán KST
(xét nghiệm chẩn đoán nhanh hoặc xét nghiệm mẫu máu bằng kính
hiển vi) sau đó mới điều trị [9]. Nhiều kỹ thuật đã được nghiên
cứu phát triển và ứng dụng để chẩn đoán SR như phân tích tiêu
bản lam máu có nhuộm Giemsa, xét nghiệm chẩn đoán nhanh phát
hiện kháng nguyên hoặc xét nghiệm bằng kỹ thuật sinh học phân
tử (PCR hoặc real-time PCR)... Tuy nhiên, xét nghiệm lam máu
nhuộm Giemsa trên kính hiển vi vẫn được coi là một tiêu chuẩn
vàng để xác nhận bệnh SR.
Chẩn đoán bằng kính hiển vi
WHO cung cấp chi tiết hướng dẫn xét nghiệm lam máu nhuộm
Giemsa trên kính hiển vi để xác định bệnh SR. Bộ quy trình này
cũng được đề cập trong “Sổ tay xét nghiệm bệnh truyền nhiễm”
của Bộ Y tế [2]. Nhuộm màu Giemsa làm nổi bật hình thể KSTSR
dưới kính hiển vi khi so sánh với hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu.
Sau đó, các vật thể được nhuộm màu có thể được chia thành hai
nhóm, tức là KST và không KST. Phương pháp này có ưu điểm là
phân biệt được các loài thuộc chi Plasmodium, định lượng KST,
quan sát được các giai đoạn vô tính của chúng cũng như chi phí
vật liệu thấp. Tuy nhiên, một số yếu điểm vẫn còn tồn tại. Kết quả
xét nghiệm phụ thuộc vào kỹ năng và trình độ chuyên môn của kỹ
thuật viên. Do đó, một hệ thống phân tích hình ảnh lam máu có hỗ
trợ từ máy tính sẽ cải thiện đáng kể hiệu quả, hạn chế được vấn đề
phụ thuộc của kết quả vào kỹ năng chuyên môn của kỹ thuật viên
để chẩn đoán chính xác hình ảnh máu.
Chẩn đoán bằng kỹ thuật sinh học phân tử (PCR và real-
time PCR)
Các kỹ thuật chẩn đoán phân tử như PCR và real-time PCR
(PCR định lượng) được nghiên cứu và áp dụng ngày càng nhiều
để chẩn đoán bệnh SR. Kỹ thuật này dựa trên việc nhận diện và
5162(8) 8.2020
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
khuếch đại trình tự đặc hiệu của chi Plasmodium trong mẫu máu
của bệnh nhân, do đó có độ nhạy cao hơn các phương pháp khác
[10]. Kỹ thuật PCR có thể phân biệt P. falciparum và P. vivax, do
đó hỗ trợ việc khảo sát sự phân bố của hai loài KST gây bệnh này
[11]. Nested PCR (PCR lồng) còn được nghiên cứu để phân biệt
các dòng KST thông thường và các dòng mang gene kháng thuốc
nhằm tăng hiệu quả cho việc xác định và điều trị bệnh SR ở bệnh
nhân cũng như kiểm soát tình trạng lây lan của dịch bệnh [12]. Tuy
nhiên, các kỹ thuật này đòi hỏi trang thiết bị hiện đại cũng như thao
tác tỉ mỉ, chính xác để giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm chéo, dẫn đến
kết quả không chính xác.
Chẩn đoán thông qua hỗ trợ của máy tính
Máy tính đóng vai trò quan trọng trong nhiều ứng dụng chẩn
đoán y tế như X-quang kỹ thuật số, chụp cộng hưởng từ (MRI),
chụp cắt lớp điện toán (CT-scan), siêu âm và nhiều ứng dụng khác.
Chẩn đoán SR thông qua hỗ trợ của máy tính là một kỹ thuật chẩn
đoán dựa trên cơ sở sử dụng thị giác máy tính để thu thập thông
tin từ hình ảnh kính hiển vi và áp dụng phương pháp học máy để
phân tích kết quả. Nó có thể được sử dụng để hỗ trợ các phương
pháp truyền thống hoặc phát triển thành một kỹ thuật chẩn đoán
hoàn toàn tự động, thay thế cho việc kiểm tra bằng kính hiển vi
thủ công. Phương pháp này nhận được nhiều quan tâm nghiên cứu
nhằm cung cấp giải pháp phát hiện KSTSR nhanh chóng và chính
xác. Tek và cs [13] đã trình bày tổng hợp các tài liệu đánh giá nhằm
đề xuất quy trình chẩn đoán SR tự động dựa trên thị giác máy tính
bằng hình ảnh của mẫu máu trên lam kính. Một hệ thống chẩn
đoán SR tự động có thể được thiết kế dựa trên hiểu biết chuyên
môn về chẩn đoán (kiến thức về huyết học) và áp dụng các kiến
thức đó vào các thuật toán xử lý hình ảnh và nhận dạng mẫu. Về
nguyên tắc, hệ thống này có thể phân biệt được tế bào bị nhiễm
KSTSR và các thành phần máu khỏe mạnh. Nhìn chung, có 5 bước
chính để phân tích hình ảnh hiển vi là: thu nhận hình ảnh, tiền xử
lý, phân đoạn, trích xuất và phân loại tính năng [13].
Thu nhận hình ảnh: hầu hết các nghiên cứu về phát hiện SR
đã được thực hiện trên hình ảnh phết máu mỏng; trong khi đó chỉ
có một vài nghiên cứu sử dụng hình ảnh phết máu dày. Theo Ross
và cs [14], hình ảnh thu được của các lam kính mỏng từ máy ảnh
kết nối điện tích (CCD) với độ phóng đại 4X kết nối với kính hiển
vi độ phóng đại 1000X. Hình ảnh được lưu trữ ở định dạng JPEG
với độ phân giải tối đa của máy ảnh, 2048x1536 pixel. Một quy
trình tương tự đã được ghi nhận ở một số nghiên cứu khác, trong
đó hình ảnh được thu nhận từ máy ảnh kết nối điện tích (CCD) với
kính hiển vi. Bên cạnh đó, hình ảnh lam kính cũng được tải xuống
từ các trang web có sẵn miễn phí để phục vụ cho mục đích nghiên
cứu. Gitonga và cs [15] đã thu được hình ảnh phết máu mỏng từ
Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và Viện Nghiên
cứu y tế Kenya (KEMRI).
Các xử lý chuẩn bị: mục đích chính của bước tiền xử lý là tạo
ra hình ảnh có độ tương phản cao, độ nhiễu thấp để xử lý trong
bước tiếp theo. Những thay đổi màu của vết máu do điều chỉnh
máy ảnh, hay do việc chiếu sáng hình ảnh kính hiển vi sẽ gây khó
khăn trong quá trình phân loại các tế bào máu. Nguyên do là khó
có thể xử lý các phân đoạn thích hợp của các vật thể có màu sắc
khá giống nhau. Các phương pháp khác nhau đã được đề xuất để
xử lý các vấn đề tiền xử lý [16] như chiếu sáng, giảm nhiễu... Việc
kết hợp các bộ lọc khác nhau cũng có thể giảm hiệu ứng chiếu sáng
từ cả hai mặt kính hiển vi và camera. Các giải pháp bộ lọc khác
nhau đã được đề xuất bởi các nhà nghiên cứu để giải quyết các vấn
đề tăng cường độ nét và nhiễu trong chẩn đoán SR tự động [17].
Mặc dù các kỹ thuật này ít nhiều khắc phục được vấn đề về ánh
sáng, nhưng yếu tố con người vẫn liên quan đến việc chuẩn bị các
lam kính máu và gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh. Các
kỹ thuật tiền xử lý được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu khác nhau
trong chẩn đoán SR tự động được tóm tắt trong bảng 1.
Bảng 1. Kỹ thuật tiền xử lý hình ảnh được áp dụng trong nhiều
nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo Kỹ thuật tiền xử lý Nhận xét tác dụng
P. Rakshit và K. Bhowmik
[16]
Bộ lọc Wiener Được sử dụng để loại bỏ mờ
trong hình ảnh do chuyển động
tuyến tính hoặc quang học
không tập trung
M.I. Khan và cs [18] Bộ lọc thông thấp Loại bỏ các thành phần lặp lại
N.E. Ross và cs [14], C. Di
Ruberto và cs [19], F.B. Tek
và cs [20], Díaz và cs [21],
M.-H. Tsai và cs [22]
Bộ lọc hình thái Hữu ích để loại bỏ các đặc
điểm không mong muốn trên
hình ảnh
A.S. Abdul-Nasir và cs [23] Tăng cường độ tương phản
dựa trên kỹ thuật biến đổi toàn
cục và biến đổi tuyến tính độ
tương phản
Hữu ích để tăng độ tương phản
của hình ảnh
S.W. Sio và cs [17], C. Di
Ruberto và cs [19], Purwar
và cs [24], Sheeba và cs [25],
Punitha và cs [26]
Cân bằng biểu đồ thích ứng
hoặc cân bằng biểu đồ cục bộ
Hiệu quả cho hình ảnh có độ
phân giải thấp
Kaewkamnerd và cs [27],
S. Savkare và S. Narote [28]
Bộ lọc Laplacian Được sử dụng để làm sắc nét
các cạnh trong hình ảnh
M.I. Khan và cs [18],
N. Ahirwar và cs [29]
Lọc không tuyến tính: SUSAN Hữu ích cho việc lọc nhiễu, tìm
cạnh và tìm góc
Das và cs [30] Bộ lọc trung bình hình học Loại bỏ nhiễu Gaussian để bảo
toàn các cạnh.
Somasekar và cs [31] Bộ lọc thông thấp Gaussian Hiệu quả để loại bỏ nhiễu
Gaussian
Phân tách tế bào máu và KST: phân tách được định nghĩa là
quá trình phân vùng một hình ảnh thành một tập hợp các vùng
không chồng lấp mà liên kết toàn bộ hình ảnh. Trong quy trình
chẩn đoán tự động để phân loại các loài KSTSR, giai đoạn quan
trọng và khó khăn nhất là phân tách chính xác hình ảnh phết máu
thành các yếu tố khác nhau như hồng cầu, bạch cầu, KSTSR và
phân đoạn có KST kết hợp với hồng cầu. Để trích xuất hồng cầu
bị nhiễm bệnh, trước tiên cần xác định chúng dựa trên sự kết hợp
hình ảnh của KSTSR và hồng cầu, sau đó phân tách chúng khỏi
nền. Phân chia tế bào có thể được tiến hành theo hướng quy nạp
hoặc suy diễn. Trong quy nạp, các đối tượng nhuộm màu được
định vị đầu tiên bằng cách sử dụng các giá trị cường độ màu, sau
đó các vùng chứa màu được phân tách. Ngược lại, theo phương
pháp suy diễn, hình ảnh trước tiên được phân tách khỏi nền và tiền
cảnh, sau đó đối tượng nhuộm màu mới được phân tách [13]. Phân
tách đầy đủ có thể dẫn đến phát hiện và phân loại KSTSR một cách
hiệu quả. Quá trình phân tách để phát hiện hồng cầu và KST được
thể hiện trong hình 3.
5262(8) 8.2020
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
Hình 3. Hình ảnh phân tách của phết máu. (A) Hình gốc, (B) Phân
đoạn hồng cầu, (C) KSTSR.
Các nghiên cứu với các kỹ thuật phân tách khác nhau được tóm
tắt trong bảng 2.
Bảng 2. Kỹ thuật phân tách tế bào máu và KST.
Tài liệu tham khảo Kỹ thuật phân tách Chú thích
S.W. Sio và cs [17] Cách tiếp cận dựa trên quy
tắc (phát hiện viền ảnh, liên
kết viền ảnh và tách cụm)
Rất hiệu quả cho việc phân tách
hình ảnh bị chồng chéo nhưng
thông tin hình dạng có thể bị
bóp méo
M.I. Khan và cs [18], N. Ahirwar
và cs [29], Das và cs [30]
Đánh dấu kiểm soát lằn
giáp ranh với phương pháp
hình thái
Hiệu quả cho phân tách tế bào
chồng lấp và có thể thất bại với
phân tách tế bào có phân khúc
chồng lấp cao
Tek và cs [20] Xử lý hình thái trên ảnh Hữu ích trong điều kiện chiếu sáng
không đồng đều
A.S. Abdul-Nasir và cs [23] Phân cụm K-mean Thu được nhiều vùng đồng
nhất hơn
Purwar và cs [24] Phân khúc Chan-Vese Không hữu ích cho phân tách tế
bào chồng chéo
M.-T. Le và cs [32],
K. Chakrabortya và cs [33],
L.B. Damahe và cs [34]
Ngưỡng biểu đồ Zack Đánh giá các giá trị ngưỡng tối ưu
Gual-Arnau và cs [35],
V. Makkapati và cs [36]
Phân đoạn cơ sở đường viền
hoạt động
Hạn chế nếu hình ảnh chứa nhiều
đối tượng chồng chéo
R.R. Devi và cs [37] Biến đổi lằn giáp ranh Hoạt động tốt cho các đối tượng
chồng chéo
L. Zou và cs [38] Biến đổi tròn Hough Yêu cầu kiến thức cần thiết về bán
kính của tế bào máu
Kale và cs [39-42] Tỷ lệ góc vòng Chỉ hữu ích cho hình tròn
M.L. Chayadevi và G. Raju [43] Phân đoạn cơ sở quy tắc mờ Thiết kế cơ sở quy tắc rất phức tạp
S. Suryawanshi và V. Dixit [44] Ngưỡng phân phối Poisson Không hiệu quả cho phân tách tế
bào chồng lấp
Yunda và cs [45] Độ dốc hình thái và
K-Median
Không phụ thuộc giá trị ban đầu
của K
Sheeba và cs [25], S. Savkare và
S. Narote [28], H. Lee và Y. Chen
[46], J. Gatc và cs [47], Anggraini
và cs [48]
Ngưỡng Otsu Phân loại các điểm ảnh thông qua
giá trị ngưỡng tối ưu
Somasekar và cs [31], J.E. Arco
và cs [49], S.F. Toha và U.K. Ngah
[50], Prasad và cs [51], I. Suwalka
và cs [52], N. Linder và cs [53]
Xác định ngưỡng dựa trên
biểu đồ Histogram
Lựa chọn ngưỡng là rất quan
trọng, lựa chọn sai có thể dẫn đến
phân tách sai vị trí
M.-H. Tsai và cs [22], Y.-W. Hung
và cs [54]
Phương pháp nhận diện theo
vùng hình ảnh
Phương pháp nhanh và đáng tin
cậy, cho hình ảnh đồng nhất, tuy
nhiên kỹ thuật này không nhất
quán khi hình ảnh có độ biến
thiên lớn
P. Rakshit và K. Bhowmik [16],
S. Jalari và B.E. Reddy [55],
B. Maiseli và cs [56]
Thuật toán phát hiện viền Cho hình ảnh có độ tương phản
cao hơn giữa các đối tượng
Trích xuất các tính năng quan trọng: trích xuất tính năng là quá
trình thể hiện hình ảnh ở dạng không trực quan. Bước này không
thể thiếu trong hầu hết các giải thuật xử lý hình ảnh, bởi vì nó đánh
dấu bước chuyển từ hình ảnh sang biểu diễn dữ liệu khác (ma trận
số) [57]. KSTSR và các thành phần được nhuộm màu khác là các
đối tượng linh hoạt với các biến thể lớn về hình dạng, kích thước và
hình thái. Thông tin màu sắc có giá trị nhưng không đủ để phân biệt
giữa các vật thể nhuộm màu khác và KSTSR và cả trong các loài
khác nhau. Các đặc điểm nổi bật giúp phân biệt tế bào bình thường
hay tế bào nhiễm bệnh được xác định là bộ tính năng. Hầu hết các
nghiên cứu đã báo cáo cả kết cấu cũng như các đặc trưng hình học
để mô tả các giai đoạn nhiễm SR.
Các đặc trưng hình học: đặc điểm này rất quan trọng đối với
việc nhận dạng các hình ảnh phức tạp, nhiều nhà nghiên cứu đã
sử dụng chúng để nhận dạng KSTSR. Diện tích và chu vi là các
tính năng được sử dụng để thể hiện kích thước của các ô, trong khi
các tính năng hình dạng có thể được nhóm lại dựa trên khu vực và
ranh giới. Để trích xuất các tính năng, hình ảnh ô được chuyển đổi
thành hình ảnh nhị phân, trong đó các điểm ảnh ở mỗi ô được biểu
thị bằng giá trị khác 0. Trong bối cảnh chẩn đoán tự động KSTSR,
các đặc điểm hình học được dùng để phân chia các loài KSTSR và
giai đoạn sống của mỗi loài liên quan đến hình dạng của KST. Tuy
nhiên, các đặc điểm hình học không được sử dụng để phân loại
hồng cầu bị nhiễm và hồng cầu không bị nhiễm.
Đặc trưng kết cấu: kết cấu của một hình ảnh mô tả sự phân bố
về mặt không gian dựa trên cường độ hoặc màu sắc trong một khu
vực cụ thể. Kết cấu của một tế bào hồng cầu khỏe mạnh cho thấy
cường độ đồng đều trên bề mặt tế bào dưới hình ảnh hiển vi. Các
đặc điểm kết cấu được thảo luận bên dưới được sử dụng để xác
định xem các hồng cầu có bị nhiễm KSTSR hay không và phân loại
chúng thành hai lớp (bị nhiễm hoặc không bị nhiễm). Tuy nhiên,
việc phân loại các loài KSTSR và giai đoạn sống của chúng bằng
cách chỉ sử dụng các đặc điểm kết cấu không dễ dàng. Để phân
loại các loài KST, các đặc trưng hình học phụ thuộc giai đoạn sống
được sử dụng cùng với đặc điểm kết cấu và màu sắc. Kết cấu hình
ảnh được mô tả tốt bởi các thuộc tính như sự đồng nhất, hình dạng
đơn giản, bề mặt thô nhám và đều đặn.
Các đặc trưng được sử dụng trong phân tích tế bào hồng cầu có
thể được nhóm lại thành các dạng đặc trưng hình học và đặc trưng
kết cấu như trong bảng 3.
Bảng 3. Các đặc tính để phân loại hồng cầu và KSTSR.
Tài liệu tham khảo Đặc điểm Tính năng đặc trưng
N.E. Ross và cs [14], L. Gitonga và cs [15], C. Di
Ruberto và cs [19], Das và cs [30], R.R. Devi và cs
[37], H. Lee và Y.-P.P. Chen [46], F.B. Tek và cs
[20, 58], S. Savkare và S. Narote [28, 59],
S. Raviraja và cs [60], S.K. Kumarasamy và cs [61]
Đặc trưng hình học Diện tích, chu vi, tỷ lệ diện
tích, diện tích lồi, độ rắn, yếu tố
hình thức, khoảnh khắc, độ nén,
độ lệch tâm, số thùy, độ tròn,
hướng, hình chữ nhật, đối xứng,
độ dốc và độ giãn dài
L. Gitonga và cs [15], M.I. Khan và cs [18], Díaz
và cs [21], Das và cs [30], Gual-Arnau và cs [35],
M.L. Chayadevi và G. Raju [43], Yunda và cs [45],
H. Lee và Y.-P.P. Chen [46], F.B. Tek và cs [20, 58],
S. Savkare và S. Narote [28, 59], S. Widodo [62]
Đặc trưng
kết cấu hoặc
màu sắc
Giá trị trung bình, phương
sai, độ lệch chuẩn (standard
deviation), sai số trung bình
bình phương (mean squared
error), chất lượng hình ảnh và
màu sắc
Phân loại: quá trình phân loại trong chẩn đoán SR tự động
thường được áp dụng cho hai mục đích: để quyết định liệu hồng
cầu có bị nhiễm hay không và để phân loại các loài KSTSR cũng
như giai đoạn sống của chúng. Danh sách các thuật toán phân loại
được sử dụng bởi các nghiên cứu đã công bố để phân loại các tế
bào bị nhiễm bệnh hoặc giai đoạn sống và các loài KST được mô
tả trong bảng 4.
5362(8) 8.2020
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
Bảng 4. Tổng hợp các kỹ thuật phân loại khác nhau.
Tài liệu tham khảo Kỹ thuật phân loại Ghi chú
N.E. Ross và cs [14], M.I. Khan và cs [18],
F.B. Tek. và cs [20], M.L. Chayadevi
và G. Raju [43]
Back propagation neural network
(BPNN)
Khắc phục những hạn chế của mạng
một lớp
L. Gitonga và cs [15], Yunda và cs [45],
H. Lee và Y.-P.P. Chen [46]
Artificial Neural Network (ANN) Hiệu suất và độ chính xác của phân
loại phụ thuộc vào cấu trúc mạng và số
lượng đầu vào
Purwar và cs [24] Phân cụm K-mean Phân cụm K-means là thuật toán học
không giám sát (unsupervised learning).
Kỹ thuật này trích xuất được những
thông tin quan trọng dựa trên mối liên
quan giữa các điểm dữ liệu
Das và cs [30] Naive Bayes Naive Bayes có thời gian huấn luyện và
kiểm tra rất nhanh
S. Suryawanshi và V. Dixit [44] Cây quyết định sử dụng khoảng
cách Euclide
Việc tính toán khoảng cách có thể phụ
thuộc vào từng loại dữ liệu.
S.P. Premaratne và cs [63] Feed Forward neural network Các node được kết nối một chiều duy
nhất từ đầu đến cuối mà không có suy
luận ngược lại
Díaz và cs [21], Gual-Arnau và cs [35],
F.B. Tek và cs [20, 58], L. Malihi và cs [64]
K-nearest neighbors classifier (KNN) Phân loại K lân cận (K-nearest neighbors
classifier) là một thuật toán có giám sát
(supervised learning)
Díaz và cs [21], Das và cs [30],
M.L. Chayadevi và G. Raju [43], N. Linder
và cs [53], S. Savkare và S. Narote [28, 59],
S.K. Kumarasamy và cs [61], S. Widodo [62],
L. Malihi và cs [64]
Support Vector Machine (SVM) Máy vector hỗ trợ (SVM) có thể làm
việc với dữ liệu gần tách biệt tuyến tính
như mô hình hồi quy logistic
F.B. Tek. và cs [20], L. Malihi và cs [64] Hàm phân lớp tuyến tính của Fisher
(Fisher linear discriminant - FLD)
FLD là phương pháp giảm chiều dữ liệu
mà vẫn giữ lại những đặc trưng quan
trọng nhất cho việc phân loại.
L. Malihi và cs [64] Phân loại trung bình gần nhất
(Nearest mean classifier)
Hữu ích trong các trường hợp lượng mẫu
ít nhưng lại có nhiều đặc trưng
Kết luận
Bài tổng quan này giới thiệu một số kỹ thuật trong chẩn đoán
tự động bệnh SR dựa trên phân tích hình ảnh tế bào máu. Trong
đó, điểm lại vắn tắt các thuật toán, kỹ thuật và phương pháp nhận
biết KSTSR qua phân tích hình ảnh có sự hỗ trợ của máy tính và
chỉ ra những hạn chế hiện có. Để thực hiện chẩn đoán SR qua hình
ảnh vết máu trên lam kính, hệ thống chẩn đoán tự động đòi hỏi
5 giai đoạn quan trọng là thu nhận hình ảnh, tiền xử lý hình ảnh,
phân đoạn KST, trích xuất và phân loại tính năng với khả năng xác
định sự hiện diện của KSTSR trong mẫu máu bằng cách phân biệt
giữa các vật nhuộm màu không phải KST (hồng cầu, bạch cầu, tiểu
cầu) và KSTSR. Để xác định nhiễm trùng nếu mẫu máu được chẩn
đoán là dương tính, cần thực hiện một quá trình bổ sung xác định
các giai đoạn phát triển KSTSR và bệnh bằng cách phân biệt các
loài KST và các giai đoạn phát triển của chúng. Tuy nhiên, phần
lớn các nghiên cứu phân tích hình ảnh để chẩn đoán SR hiện tại
chưa đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Điều này cũng mở ra cơ
hội cho các nhà nghiên cứu cải tiến các kỹ thuật ngày càng tốt hơn.
Gần đây, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào y khoa là một
trong những lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng nổi trội nhất [65].
Không chỉ riêng Việt Nam mà ở nhiều quốc gia trên thế giới, các
sản phẩm thực tế từ ứng dụng AI đều thu hút được sự quan tâm của
các nhà đầu tư. Hiện nay, việc phát hiện KSTSR bằng xét nghiệm
lam máu nhuộm Giemsa trên kính hiển vi vẫn được coi là phương
pháp chính để chẩn đoán SR. Do vậy, phương pháp phân tích hình
ảnh này cần được xem xét nghiên cứu để áp dụng AI vào thực tế.
Ứng dụng AI trong chẩn đoán SR sẽ là hướng tiếp cận mới,
hiện đại. Công nghệ AI kết hợp với dịch vụ dữ liệu di động có thể
giúp cải thiện hiệu quả phát hiện SR vì có thể áp dụng để hỗ trợ các
kỹ thuật viên chỉ được đào tạo cơ bản và thậm chí cả những cán bộ
y tế không chuyên sâu, thông qua việc sử dụng thiết bị di động để
chụp hình ảnh tế bào máu nhuộm Giemsa trên lam kính, chuyển
hình ảnh qua mạng viễn thông đến trung tâm lưu trữ dữ liệu và xử
lý hình ảnh bằng công nghệ AI. Phần mềm ứng dụng công nghệ AI
có thể đưa ra gợi ý giúp xác định các trường hợp bình thường hoặc
bất thường ngay sau đó, với độ chính xác cao, rất tiện lợi và giảm
thiểu chi phí cho những vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là các khu vực
biên giới hạ lưu sông Mekong. Hướng nghiên cứu này đòi hỏi sự
tham gia của các nhà khoa học thị giác máy tính lẫn các nhà nghiên
cứu bệnh học, cũng như các lập trình viên, xây dựng phần mềm để
đạt được sự hợp tác giữa các bên và cùng nhau phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] WHO (2016), Eliminating Malaria, https://www.who.int/malaria/publications/atoz/
eliminating-malaria/en/.
[2] Cục Y tế Dự phòng - Bộ Y tế (2016), Sổ tay xét nghiệm bệnh truyền nhiễm.
[3] Nguyễn Thị Thu Vân (2019), Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến nhiễm ký sinh
trùng sốt rét ở vùng dân di biến động tại Bình Phước, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Khoa học và
Công nghệ.
[4] Báo điện tử Chính phủ (2011), Phấn đấu đến năm 2030 sẽ loại trừ bệnh sốt rét, http://
baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Phan-dau-den-nam-2030-loai-tru-sot-ret/66091.vgp.
[5] Viện Sốt rét Quy Nhơn (2008), “Đánh giá kết quả phòng chống sốt rét 2001-2008, định
hướng kế hoạch phòng chống sốt rét (2009-2013) khu vực miền Trung và Tây Nguyên”, Hội nghị
Phòng chống sốt rét khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
[6] Nguyễn Văn Chương, Huỳnh Hồng Quang (2013), “Sốt rét do ký sinh trùng khỉ
Plasmodium knowlesi tại Việt Nam: tổng hợp và cập nhật y văn thế giới”, Tạp chí Y học Dự
phòng, 23(10), tr.47.
[7] Lục Tiểu Nguyên (2005), “Tình hình sốt rét ở nhóm dân đi rừng ngủ rẫy và một số biện
pháp can thiệp tại xã Sơn Thái, huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa”, Tạp chí Y học Thực hành,
511, tr.110-114.
[8] Nguyễn Đức Hảo (2010), Xác định tỷ lệ mắc và thực trạng sử dụng thuốc tự điều trị sốt
rét cho người ngủ rẫy tại xã Đắk R’Măng, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông năm 2010, Luận văn
Thạc sỹ, Trường Đại học Tây Nguyên.
[9] WHO (2010), Basic Malaria Microscopy - Part I: Learner’s Guide, https://www.who.
int/malaria/publications/atoz/9241547820/en/.
[10] B. Grabias, E. Essuman, I.A. Quakyi, S. Kumar (2019), “Sensitive real-time PCR
detection of Plasmodium falciparum parasites in whole blood by erythrocyte membrane protein 1
gene amplification”, Malar. J., 18(116), DOI: 10.1186/s12936-019-2743-9.
[11] N. Siwal, et al. (2018), “Malaria diagnosis by PCR revealed differential distribution of
mono and mixed species infections by Plasmodium falciparum and P. vivax in India”, PLOS ONE,
13(3), DOI: 10.1371/journal.pone.0193046.
[12] K.B. Beshir, N. Diallo, C.J. Sutherland (2018), “Identifying recrudescent Plasmodium
falciparum in treated malaria patients by real-time PCR and high resolution melt analysis of
genetic diversity”, Sci. Rep., 8, DOI: 10.1038/s41598-018-28179-2.
[13] F.B. Tek, A.G. Dempster, I. Kale (2009), “Computer vision for microscopy diagnosis of
malaria”, Malar. J., 8, DOI: 10.1186/1475-2875-8-153.
[14] N.E. Ross, C. Pritchard, D. Rubin, A. Duse (2006), “Automated image processing
method for the diagnosis and classification of malaria on thin blood smears”, Med. Biol. Eng.
Comput., 44, pp.427-436.
[15] L. Gitonga, D. Maitethia Memeu, K. Kaduki, M. Kale, N. Muriuki (2014),
“Determination of plasmodium parasite life stages and species in images of thin blood smears
using artificial neural network”, Open J. Clin. Diagnostics, 4, pp.78-88.
[16] P. Rakshit and K. Bhowmik (2013), “Detection of presence of parasites in human
RBC in case of diagnosing malaria using image processing”, 2013 IEEE Second International
Conference on Image Information Processing (ICIIP-2013), pp.329-334.
[17] S.W. Sio, et al. (2007), “MalariaCount: an image analysis-based program for the
accurate determination of parasitemia”, J. Microbiol. Methods, 68(1), pp.11-18.
[18] M.I. Khan, B. Acharya, B. Kumar, J. Soni, B. Singh (2011), “Content based image
retrieval approaches for detection of malarial in blood images”, Int. J. Biometrics Bioinformatics
(IJBB), 5(2), pp.97-110.
[19] C. Di Ruberto, A. Dempster, S. Khan, B. Jarra (2002), “Analysis of infected blood cell
images using morphological operators”, Image Vis. Comput., 20, pp.133-146.
5462(8) 8.2020
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
[20] F.B. Tek, A. Dempster, I. Kale (2010), “Parasite detection and identification for
automated thin blood film malaria diagnosis”, Comput. Vis. Image Underst., 114, pp.21-32.
[21] G. Díaz, F.A. González, E. Romero (2009), “A semi-automatic method for quantification
and classification of erythrocytes infected with malaria parasites in microscopic images”, J.
Biomed. Inform., 42(2), pp.296-307.
[22] M.-H. Tsai, S.-S. Yu, Y.-K. Chan, C.-C. Jen (2015), “Blood smear image based malaria
parasite and infected-erythrocyte detection and segmentation”, J. Med. Syst., 39(10), DOI:
10.1007/s10916-015-0280-9.
[23] A.S. Abdul-Nasir, M.Y. Mashor, Z. Mohamed (2013), “Colour image segmentation
approach for detection of malaria parasites using various colour models and K-means clustering”,
WSEAS Trans. Biol. Biomed., 10(1), pp.41-55.
[24] Y. Purwar, S. Shah, G. Clarke, A. Almugairi, A. Muehlenbachs (2011), “Automated
and unsupervised detection of malaria parasites in microscopic images”, Malar. J., 10, DOI:
10.1186/1475-2875-10-364.
[25] F. Sheeba, R. Thamburaj, J. Mammen, A. Nagar (2013), “Detection of plasmodium
falciparum in peripheral blood smear images”, Proceedings of Seventh International Conference
on Bio-Inspired Computing: Theories and Applications (BIC-TA 2012), pp.289-298.
[26] S. Punitha, P. Logeshwari, P. Sivaranjani, S. Priyanka (2017), “Detection of malarial
parasite in blood using image processing”, Asian Journal of Applied Science and Technology
(AJAST), 1(2), pp.211-213.
[27] S. Kaewkamnerd, C. Uthaipibull, A. Intarapanich, M. Pannarut, S. Chaotheing, S.
Tongsima (2012), “An automatic device for detection and classification of malaria parasite species
in thick blood film”, BMC Bioinformatics, 13, Suppl. 17, DOI: 10.1186/1471-2105-13-S17-S18.
[28] S. Savkare and S. Narote (2015), “Automated system for malaria parasite identification”,
Proc. of Int. Conf. Commun. Inf. Comput. Technol., DOI: 10.1109/ICCICT.2015.7045660.
[29] N. Ahirwar, S. Pattnaik, B. Acharya (2012), “Advanced image analysis based system
for automatic detection and classification malarial parasite in blood images”, Int. J. Inf. Technol.
Knowl. Manag., 5(1), pp.59-64.
[30] D.K. Das, M. Ghosh, M. Pal, A.K. Maiti, C. Chakraborty (2013), “Machine learning
approach for automated screening of malaria parasite using light microscopic images”, Micron,
45, pp.97-106.
[31] J. Somasekar, B.E. Reddy, E.K. Reddy, C.H. Lai (2011), “An image processing approach
for accurate determination of parasitemia in peripheral blood smear images”, International
Journal of Computer Applications, 1, pp.23-28.
[32] M.-T. Le, T. Bretschneider, C. Kuss, P. Preiser (2008), “A novel semi-automatic image
processing approach to determine Plasmodium falciparum parasitemia in Giemsa-stained thin
blood smears”, BMC Cell Biol., 9(1), DOI: 10.1186/1471-2121-9-15.
[33] K. Chakrabortya (2015), “A combined algorithm for malaria detection from thick smear
blood slides”, J. Heal. Med. Informatics, 6(1), pp.645-652.
[34] L.B. Damahe, R. Krishna, N. Janwe (2011), “Segmentation based approach to detect
parasites and RBCs in blood cell images”, Int. J. Comput. Sci. Appl., 4(2), pp.71-81.
[35] X. Gual-Arnau, S. Herold-García, A. Simó (2015), “Erythrocyte shape classification
using integral-geometry-based methods”, Med. Biol. Eng. Comput., 53(7), pp.623-633.
[36] V. Makkapati and R. Rao (2009), “Segmentation of malaria parasites in peripheral blood
smear images”, IEEE International Conference on Acoustics, Speech and Signal Processing,
pp.1361-1364.
[37] R.R. Devi, V. Rajagopal, S. Mohan, M. Gopu (2011), “Computerized shape analysis of
erythrocytes and their formed aggregates in patients infected with P. vivax malaria”, Adv. Comput.
An Int. J., 2(2), pp.71-77, DOI: 10.5121/acij.2011.2207.
[38] L. Zou, J. Chen, J. Zhang, N. Garcia (2010), “Malaria cell counting diagnosis within
large field of view”, International Conference on Digital Image Computing: Techniques and
Applications, pp.172-177.
[39] C. Dallet, S.K. Reni, I. Kale (2014), “Real time blood image processing application for
malaria diagnosis using mobile phones”, IEEE International Symposium on Circuits and Systems
(ISCAS), pp.2405-2408.
[40] S.K. Reni, I. Kale, R.C.S. Morling (2012a), “Automated malaria parasite detection in
thin blood films: a hybrid illumination and color constancy insensitive, morphological approach”,
IEEE Asia Pacific Conference on Circuits and Systems, pp.240-243.
[41] S. Kareem, R.C.S. Morling, I. Kale (2011), “A novel method to count the red blood cells
in thin blood films”, IEEE International Symposium of Circuits and Systems (ISCAS), pp.1021-
1024.
[42] S.K. Reni, I. Kale, R. Morling (2012b), “Automated P. falciparum detection system
for post-treatment malaria diagnosis using modified annular ring ratio method”, UKSim 14th
International Conference on Computer Modelling and Simulation, pp.432-436.
[43] M.L. Chayadevi and G. Raju (2015), “Automated colour segmentation of malaria
parasite with fuzzy and fractal methods”, Smart Innov. Syst. Technol., 3, pp.53-63.
[44] S. Suryawanshi and V. Dixit (2013), “Improved technique for detection of malaria
parasites within the blood cell images”, Int. J. Sci. Eng. Res., 4, pp.373-375.
[45] L. Yunda, A. Alarcón, J. Millán (2012), “Automated image analysis method for P. vivax
malaria parasite detection in thick film blood images”, Sist. y Telemática, 10(20), pp.9-25.
[46] H. Lee and Y.-P.P. Chen (2014), “Cell morphology based classification for red cells in
blood smear images”, Pattern Recognit. Lett., 49, pp.155-161.
[47] J. Gatc, F. Maspiyanti, D. Sarwinda, A. Arymurthy (2013), “Plasmodium parasite
detection on red blood cell image for the diagnosis of malaria using double thresholding”,
International Conference on Advanced Computer Science and Information Systems (ICACSIS),
pp.381-385.
[48] D. Anggraini, A.S. Nugroho, C. Pratama, I.E. Rozi, V. Pragesjvara, M. Gunawan (2011),
“Automated status identification of microscopic images obtained from malaria thin blood smears
using Bayes decision: a study case in Plasmodium falciparum”, International Conference on
Advanced Computer Science and Information Systems, pp.347-352.
[49] J.E. Arco, J.M. Górriz, J. Ramírez, I. Álvarez, C.G. Puntonet ( 2015), “Digital image
analysis for automatic enumeration of malaria parasites using morphological operations”, Expert
Syst. Appl., 42(6), pp.3041-3047.
[50] S.F Toha and U.K. Ngah (2007), “Computer aided medical diagnosis for the identification
of malaria parasites”, International Conference on Signal Processing, Communications and
Networking, pp.521-522.
[51] K. Prasad, J. Winter, U. Bhat, R.V. Acharya, G. Prabhu (2011), “Image analysis
approach for development of a decision support system for detection of malaria parasites in thin
blood smear images”, J. Digit. Imaging Off. J. Soc. Comput. Appl. Radiol., 25(4), pp.542-549.
[52] I. Suwalka, A. Sanadhya, A. Mathur, M. Chouhan (2012), “Identify malaria parasite
using pattern recognition technique”, International Conference on Computing, Communication
and Applications, pp.1-4.
[53] N. Linder, et al. (2014), “A malaria diagnostic tool based on computer vision screening
and visualization of Plasmodium falciparum candidate areas in digitized blood smears”, PLOS
ONE, 9, DOI: 10.1371/journal.pone.0104855.
[54] Y.-W. Hung, et al. (2015), “Parasite and infected-erythrocyte image segmentation in
stained blood smears”, J. Med. Biol. Eng., 35(6), pp.803-815.
[55] S. Jalari and B.E. Reddy (2015), “Segmentation of erythrocytes infected with malaria
parasites for the diagnosis using microscopy imaging”, Comput. Electr. Eng., 45, pp.336-351.
[56] B. Maiseli, J. Mei, H. Gao, S. Yin (2014), “An automatic and cost-effective parasitemia
identification framework for low-end microscopy imaging devices”, International Conference on
Mechatronics and Control (ICMC), pp.2048-2053.
[57] M. Nixon and A. Aguado (2019), Feature Extraction and Image Processing for
Computer Vision, Academic Press, 629pp.
[58] F.B. Tek, A. Dempster, I. Kale (2006), “Malaria parasite detection in peripheral blood
images”, British Machine Vision Conference, pp.347-356.
[59] S. Savkare and S. Narote (2012), “Automatic system for classification of erythrocytes
infected with malaria and identification of parasite’s life stage”, Procedia Technol., 6, pp.405-410.
[60] S. Raviraja, G. Bajpai, S. Sharma (2007), “Analysis of detecting the malarial parasite
infected blood images using statistical based approach”, 3rd Kuala Lumpur International
Conference on Biomedical Engineering, pp.502-505.
[61] S.K. Kumarasamy, S. Ong, K. Tan (May 2011), “Robust contour reconstruction of red
blood cells and parasites in the automated identification of the stages of malarial infection”, Mach.
Vis. Appl., 22(3), pp.461-469.
[62] S. Widodo (2014), “Texture analysis to detect malaria tropica in blood smears image
using support vector machine”, International Journal of Innovative Research in Advanced
Engineering, pp.301-306.
[63] S.P. Premaratne, N.D. Karunaweera, S. Fernando (2006), “A neural network architecture
for automated recognition of intracellular malaria parasites in stained blood films”, Proceedings of
APAMI & CJKMI-KOSMI Conference, 4pp.
[64] L. Malihi, K. Ansari-Asl, A. Behbahani (2013), “Malaria parasite detection in giemsa-
stained blood cell images”, 8th Iranian Conference on Machine Vision and Image Processing
(MVIP), pp.360-365.
[65] T. Davenport and R. Kalakota (2019), “The potential for artificial intelligence in
healthcare”, Futur. Healthc. J., 6(2), pp.94-98.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ky_thuat_chan_doan_sot_ret_tu_dong_bang_phan_tich_hinh_anh_x.pdf