Kiến nghị hoàn thiện kỹ thuật “một
luật sửa nhiều luật”
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu
trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần luật hóa các trường hợp
một luật sửa nhiều luật trong dự thảo Luật
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015;
bổ sung quy định về quy trình một luật sửa
nhiều luật kể từ giai đoạn lập đề nghị đến
soạn thảo, thông qua dự án luật loại này.
Thứ hai, cần quy định cụ thể về các
yêu cầu liên quan đến nguyên tắc áp dụng
soạn thảo, viện dẫn, hiệu lực từng phần.
trong dự luật một luật sửa nhiều luật.
Thứ ba, tăng cường trách nhiệm phối
hợp giữa các cơ quan trong việc soạn thảo,
thẩm tra, chỉnh lý, ban hành một luật luật
sửa nhiều luật; hạn chế phố biến việc áp
dụng kỹ thuật này.
Thứ tư, cần bố trí, tăng cường nguồn
lực (kinh phí, nhân lực, cơ sở vật chất) cho
việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, nhất là đối với việc xây dựng,
ban hành luật áp dụng kỹ thuật một luật sửa
nhiều luật
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật “một luật sửa nhiều luật” : Thực trạng và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KỸ THUẬT “MỘT LUẬT SỬA NHIỀU LUẬT” : THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
Tóm tắt:
Để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, 10 năm qua,
kỹ thuật một luật sửa nhiều luật được đưa vào và áp dụng ở Việt
Nam. Thực tiễn thi hành cho thấy, bên cạnh những ưu điểm, việc
áp dụng kỹ thuật một luật sửa nhiều luật còn tồn tại một số hạn
chế, bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện.
Bùi Thu Hằng*
Đoàn Thị Trang**
* Ths. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp.
** Ths. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp.
Abstract
The technique of a single law amending several laws has been
introduced and applied in Vietnam over the past 10 years to ensure
the consistency of the legal system. Practical implementation
shows that, besides the advantages, the technical application of
a law to amend several laws still has some shortcomings and
barrier that need to be reviewed for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Kỹ thuật một luật sửa nhiều
luật, văn bản quy phạm pháp luật, Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/10/2019
Biên tập : 07/10/2019
Duyệt bài : 10/10/2019
Article Infomation:
Keywords: Technique of a single law
amending several laws, legal documents,
Law on Promulgation of Legal
Documents
Article History:
Received : 01 Oct. 2019
Edited : 07 Oct. 2019
Approved : 10 Oct. 2019
Một luật sửa nhiều luật là hình thức ban hành một văn bản luật để sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi
bỏ nội dung của nhiều văn bản luật khác.
Hình thức một luật sửa nhiều luật lần đầu
tiên được vận dụng vào quy trình ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của nước ta từ
năm 2008. Sau khi nước ta gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), để đáp ứng
nhu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật phù hợp với tiểu chuẩn của WTO,
khoản 3 Điều 9 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2008 quy
định: Một văn bản quy phạm pháp luật có
thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ nội dung trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng
một cơ quan ban hành. Quy định này được
nhắc lại tại khoản 3 Điều 12 Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015.
Để hướng dẫn thi hành Luật năm
2015, Điều 36 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP
ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định 04
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 21(397) T11/2019
trường hợp được áp dụng kỹ thuật một văn
bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ nhiều
văn bản quy phạm pháp luật: (1) Khi cần
hoàn thiện pháp luật để kịp thời thực hiện
Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên; (2) Khi cần
sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ đồng thời
nhiều văn bản mà nội dung được sửa đổi,
bổ sung, thay thế, bãi bỏ thuộc cùng một
lĩnh vực hoặc có mối liên quan chặt chẽ để
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với văn
bản mới được ban hành; (3) Trong văn bản
đề nghị ban hành có nội dung liên quan đến
một hoặc nhiều văn bản khác do cùng một
cơ quan ban hành mà trong văn bản đề nghị
ban hành có quy định khác với văn bản đó;
(4) Để thực hiện phương án đơn giản hóa
thủ tục hành chính được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
1. Thực trạng áp dụng kỹ thuật “một luật
sửa nhiều luật”
1.1. Kết quả đạt được
Tính từ 1/1/2009 đến trước ngày
1/7/2016 (7 năm), Quốc hội đã ban hành
161 luật, trong đó có 32/1611 luật áp dụng
kỹ thuật một luật sửa nhiều luật. Trong khi
đó, chỉ trong vòng 3 năm kể từ khi Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
có hiệu lực đến nay, Quốc hội đã ban hành
29 luật nhưng có tới 11/292 luật áp dụng kỹ
thuật một luật sửa nhiều luật. Đặc biệt, tại
kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV đã thông
qua 7 dự án luật, trong đó có đến 6/7 luật
áp dụng kỹ thuật “một luật sửa nhiều luật”.
Trước đây, một luật chỉ sửa nhiều nhất là 7
luật thì từ sau khi luật năm 2015 có hiệu lực,
một luật sửa tới 37 luật.
Thực tiễn cho thấy, có hai hình thức
“một luật sửa nhiều luật” được áp dụng:
Thứ nhất, hình thức một luật trong
đó sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ nhiều
luật. Ví dụ, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126
1 Số liệu do các tác giả tự tổng kết để phục vụ cho bài viết.
2 Số liệu do các tác giả tự tổng kết để phục vụ cho bài viết.
Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan
đến đầu tư xây dựng cơ bản; Luật sửa đổi,
bổ sung một số Điều của Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều các luật về thuế; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng,
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản
lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của 37 luật có liên quan đến quy hoạch; Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh
doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ v.v..
Bản chất của hình thức này được thể
hiện ngay trong chính tên gọi và bố cục của
luật. Theo đó, tên gọi của luật thường bao
gồm tên của các luật sẽ được sửa liên quan
đến một vấn đề hoặc lĩnh vực nào đó như
quy hoạch, thuế v.v.. Bố cục của hình thức
này cũng khá rõ ràng, theo đó, mỗi điều quy
định sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ một
số điều của một hoặc một số luật. Hình thức
này cho phép “gom” tất cả các luật có liên
quan vào một luật để cùng sửa một lần. Cách
làm này tiết kiệm rất nhiều thời gian, công
sức cho cơ quan chủ trì soạn thảo cũng như
các cơ quan trong quá trình thẩm định, thẩm
tra, xem xét, thông qua luật. Hình thức này
cũng dễ áp dụng quy định về viện dẫn và
thực hiện hợp nhất luật. Hình thức này đúng
nhất với bản chất của khái niệm “một luật
sửa nhiều luật”. Quy trình xây dựng luật theo
hình thức này đòi hỏi phải thực hiện tuần tự
các bước như xây dựng một luật mới (phải
lập đề nghị xây dựng luật, đưa vào chương
trình sau đó mới tiến hành soạn thảo, thẩm
định, thẩm tra, xem xét, thông qua). Với quy
trình phức tạp và phải trải qua nhiều công
đoạn, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ
nhiều luật được thực hiện cẩn trọng hơn. Tuy
nhiên, trên thực tế, hình thức này ít được áp
dụng hơn hình thức còn lại.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 21(397) T11/2019
Thứ hai, hình thức một luật mới được
ban hành, trong đó sửa đổi, bổ sung, thay
thế, bãi bỏ một hoặc một số Điều của các
luật hiện hành. Ví dụ, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Di sản văn hóa sửa
đổi, bổ sung điều 65 của Luật Thi đua, khen
thưởng; Luật Nuôi con nuôi, bãi bỏ Chương
VIII, Điều 105 và sửa đổi, bổ sung một số
Điều của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều
2 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp bãi
bỏ một loạt các nội dung quy định về thuế
thu nhập doanh nghiệp trong các luật như
Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm y tế,
Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển giao công
nghệ, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động
Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, Luật
Bảo hiểm xã hội, Luật Trợ giúp pháp lý,
Luật Giáo dục đại học, Luật Người khuyết
tật, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp.
Khác với hình thức thứ nhất, hình thức
này chỉ sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ một
số điều, khoản của các luật có liên quan trong
luật mới ban hành. Do tính chất đơn giản, cơ
quan chủ trì soạn thảo chỉ cần rà soát và đề
xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ một
hoặc một số điều khoản của các luật khác
để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ
thống pháp luật. Thông thường, các luật mới
được ban hành sẽ có một điều hoặc một số
điều ở Chương điều khoản thi hành hoặc điều
khoản chuyển tiếp quy định về việc sửa đổi,
bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số điều của các
luật có liên quan. Trong trường hợp này, quy
trình một luật sửa nhiều luật tương đối đơn
giản và thường được đề xuất ở giai đoạn cuối
của quy trình xây dựng luật.
Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng kỹ
thuật một luật sửa nhiều luật có những ưu
điểm sau đây:
3 Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 50 của Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11; Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13; Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thú y số 79/2015/
QH13; Sửa đổi, bổ sung điều 58 của Luật Dự trữ quốc gia số 22/2012/QH13; Sửa đổi, bổ sung điều 8 của Luật Giáo
dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13; Bổ sung khoản 5 vào điều 82 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 40/2009/QH12;
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Viễn thông số 41/2009/QH12; Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí số 44/2013/QH13.
- Giải quyết được mâu thuẫn, chồng
chéo giữa các quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật
trở nên rõ ràng, dễ hiểu, dễ tiếp cận;
- Tăng hiệu quả của công tác xây dựng
pháp luật, thể hiện ở việc sửa đổi, bổ sung
văn bản quy phạm pháp luật nhanh chóng,
kịp thời, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và
tiết kiệm thời gian, chi phí cho hoạt động
xây dựng pháp luật. Áp dụng kỹ thuật một
luật sửa nhiều luật cũng sẽ làm giảm chi phí
cho Quốc hội, các bộ do giảm số lượng các
luật riêng lẻ phải soạn thảo, thảo luận và
thông qua;
- Giảm rủi ro và giảm chi phí cho
doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh để từ đó tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi sự thống nhất
trong hệ thống pháp luật được tăng lên, chi
phí cho việc tìm hiểu pháp luật của doanh
nghiệp cũng giảm đi đáng kể. Số lượng các
vụ kiện trước tòa án và khiếu nại trước cơ
quan hành chính nhà nước cũng sẽ giảm đi.
Chi phí cho các vụ kiện, vụ khiếu nại (nếu
có) cũng sẽ giảm đi nhờ hệ thống pháp luật
rõ ràng, minh bạch, dễ tiếp cận.
1.2. Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, kỹ
thuật một luật sửa nhiều luật vẫn còn bộc lộ
những hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, chưa có sự thống nhất về
cách hiểu và cách áp dụng kỹ thuật “một luật
sửa nhiều luật”. Như chúng tôi đã phân tích
ở trên, có hai hình thức áp dụng kỹ thuật một
luật sửa nhiều luật. Tuy nhiên, việc áp dụng
hình thức nào, trong trường hợp nào vẫn
chưa có hướng dẫn cụ thể. Luật Quy hoạch
năm 2017 là một ví dụ, Luật đã sửa đổi, bổ
sung, bãi bỏ một số điều, khoản của một
luật khác3. Để bảo đảm tính đồng bộ của hệ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 21(397) T11/2019
thống pháp luật, Quốc hội đã ban hành 2 luật
sửa đổi 48 luật có liên quan đến quy hoạch4.
Thứ hai, việc sửa đổi cùng một lúc
nhiều luật trong một luật mới làm cho hệ
thống pháp luật trở nên rất khó kiểm soát,
thiếu ổn định, gây khó khăn cho doanh
nghiệp và làm giảm khả năng thu hút nguồn
vốn đầu tư vào Việt Nam. Thực tế cho thấy,
có luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật “tuổi thọ
rất ngắn”. Ví dụ, Luật sửa đổi, bổ sung các
luật về đầu tư xây dựng cơ bản5 năm 2009
vừa được sửa đổi nhưng ngay sau đó, Luật
Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm
2014, Luật Đấu thầu năm 2013 lại được tách
ra sửa đổi toàn diện. Tuổi thọ của luật sửa đổi,
bổ sung các luật thuế cũng tương tự như vậy.
Ngoài ra, việc áp dụng kỹ thuật một
luật sửa nhiều luật còn gây khó khăn trong
việc tra cứu và hợp nhất văn bản. Việc sửa
Luật Đất đai và Luật Nhà ở là một ví dụ điển
hình. Ngày 18/6/2009, Quốc hội ban hành
Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật
Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai. Tuy
nhiên, ngày 19/6/2009, Quốc hội ban hành
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan
đến đầu tư xây dựng cơ bản, trong đó cũng
sửa đổi một số điều của Luật Đất đai và Luật
Nhà ở. Như vậy, trong cùng một kỳ họp,
Quốc hội thông qua 02 luật cùng sửa đổi, bổ
sung một số quy định của 02 luật.
Thứ ba, quy định 04 trường hợp được
áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn
bản như hiện nay là quá rộng và khó kiểm
soát, đặc biệt là với trường hợp: (1) Trong
văn bản đề nghị ban hành có nội dung liên
quan đến một hoặc nhiều văn bản khác do
cùng một cơ quan ban hành mà trong văn
bản đề nghị ban hành có quy định khác với
văn bản đó; (2) Để thực hiện phương án đơn
4 Luật số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018 sửa đổi, bổ sung 11 luật có liên quan đến quy hoạch; Luật số 35/2018/QH14,
ngày 20/11/2018, sửa đổi, bổ sung 37 luật có liên quan đến quy hoạch; Luật số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018 sửa đổi,
bổ sung 11 luật có liên quan đến quy hoạch.
5 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến Đầu tư xây dựng cơ bản (Luật số 38/2009/QH12).
6 Số liệu do các tác giả tự tổng kết trên cơ sở thống kế các văn bản luật do Quốc hội ban hành từ năm 2008 đến nay.
giản hóa thủ tục hành chính được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
Thứ tư, việc ban hành một luật sửa
đổi, bổ sung nhiều luật đang có xu hướng
gia tăng một cách đáng quan ngại. Nếu như
trước năm 2016, việc áp dụng kỹ thuật một
luật sửa nhiều luật chỉ chiếm tỷ lệ 19% tổng
số luật được ban hành thì trong vòng 3 năm
kể từ khi Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 có hiệu lực đến nay, tỷ
lệ này là 40,7%6.
2. Kiến nghị hoàn thiện kỹ thuật “một
luật sửa nhiều luật”
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu
trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần luật hóa các trường hợp
một luật sửa nhiều luật trong dự thảo Luật
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015;
bổ sung quy định về quy trình một luật sửa
nhiều luật kể từ giai đoạn lập đề nghị đến
soạn thảo, thông qua dự án luật loại này.
Thứ hai, cần quy định cụ thể về các
yêu cầu liên quan đến nguyên tắc áp dụng
soạn thảo, viện dẫn, hiệu lực từng phần....
trong dự luật một luật sửa nhiều luật.
Thứ ba, tăng cường trách nhiệm phối
hợp giữa các cơ quan trong việc soạn thảo,
thẩm tra, chỉnh lý, ban hành một luật luật
sửa nhiều luật; hạn chế phố biến việc áp
dụng kỹ thuật này.
Thứ tư, cần bố trí, tăng cường nguồn
lực (kinh phí, nhân lực, cơ sở vật chất) cho
việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, nhất là đối với việc xây dựng,
ban hành luật áp dụng kỹ thuật một luật sửa
nhiều luật
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 21(397) T11/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kỹ thuật lập pháp một luật sửa nhiều luật, Ngô Đức Mạnh, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 52 tháng 5 năm
2005;
2. Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), Bộ Tư pháp
năm 2007;
3. Báo cáo nghiên cứu “Vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật”, Nhà
xuất bản Tư pháp năm 2010;
4. Tài liệu Hội thảo “Vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật”, Thành
phố Hồ Chí Minh ngày 26, 27 tháng 6 năm 2008;
5. Báo cáo đánh giá 3 năm thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Báo cáo số 08/BC-
BTP ngày 11/01/2019 của Bộ Tư pháp);
6. Báo cáo kinh nghiệm nước ngoài dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015, ngày 21/8/2019;
7. Study Paper Possible Use of the Omnibus Legislative Technique for Implemetation of Vietnam's WTO
Obligations and Commitments, Institute of Law Science The World Bank, March 2006;
8. Omnibus Bills; Frequently Asked Question, 1 October 2012, Michel Bedard, Legal and Legislative Afairs
Division, Parlimentory Information and Research Service;
9. Omnibus Bills in Theory and Practice, Louis Massicotte, Canadian parliamentary review/spring 2013;
10. Omnibus Law-Making Technique and Making Technique and Its Application to the Works of the Its
Application to the Works of the National Assembly National Assembly, Ngo Duc Manh.
QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM...
(Tiếp theo trang 17)
biệt là vấn đề phòng, chống tội phạm công
nghệ cao và an ninh mạng. Có thể nói, đây
là một trong những yêu cầu căn bản và cấp
thiết nhất ở mọi quốc gia hiện nay, khi phải
giải bài toán “cách mạng công nghệ 4.0”.
Hiện nay, một số website chuyển sách viết
thành sách nói để đến với độc giả nhanh
nhất (miễn phí)11; sau đó kêu gọi người nghe
đến các hiệu sách mua ủng hộ tác giả bởi
nên biết ơn đối với những lợi ích mà cuốn
sách (dưới dạng audio) đã mang lại cho bạn.
Điều này là những giải pháp rất “hình thức”
và không hiệu quả khi con người bị cuốn
theo những bận rộn của công việc thường
ngày nhất là khi hiện nay nhiều người theo
đuổi cách sống tối giản nên họ hạn chế mua
thêm đồ đạc (trong đó sách) để mang về nhà.
Vì vậy, chúng ta cần thực hiện các giải pháp
11 Trang youtube: Kho sách nói
công nghệ nhằm quản lý việc tiếp cận thông
tin từ phía bạn đọc đối với sách điện tử và có
cơ chế thanh toán online ngay.
Mục đích của hoạt động quản lý, khai
thác tác phẩm trong các cơ sở giáo dục đại
học chính là truyền tải tri thức, lan tỏa, chia
sẻ tri thức của các tác giả là giảng viên, các
nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong các lĩnh
vực chuyên sâu và cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 sẽ là môi trường tối ưu cho việc
hiện thực hoá mục đích này. Do vậy, việc
nắm bắt về các quyền và phạm vi bảo hộ của
pháp luật đối với các tác phẩm tại các cơ sở
giáo dục và đào tạo sẽ góp phần thúc đẩy
hoạt động nghiên cứu sáng tạo, nâng cao
chất lượng dạy và học của các cơ sở này
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 21(397) T11/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_thuat_mot_luat_sua_nhieu_luat_thuc_trang_va_kien_nghi.pdf