Lạc nội mạc tử cung vào cơ thành bụng sau mổ lấy thai và u tiểu khung được phát hiện tại trung tâm chẩn đoán hình ảnh Amtic
triệu chứng:
Tất cả các trường hợp có đau theo chu kì kinh
nguyệt, 3 trường hợp có sờ thấy u thành bụng. Theo
tác giả Blanco (2003) hồi cứu 12 trường hợp LNMTC
ở thành bụng sau phẫu thuật lấy thai trong vòng 7 năm
thì triệu chứng gồm: khối u thành bụng (n-12), đau bụng
theo chu kì kinh (n-5) và đau không theo chu kì (n-7) [1].
Như vậy, triệu chứng lâm sàng chính của LNMTC ở vết
mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy thai là thấy khối u
thành bụng kèm đau.
Hình ảnh: Trên siêu âm là khối giảm âm không
đồng nhất, tăng sinh mạch trên siêu âm Doppler, phù
hợp với hình ảnh điển hình của LNMTC (theo y văn).
Giá trị của chụp CLVT còn hạn chế do tỉ trọng của khối
khó phân biệt với cơ thành bụng và ranh giới của khối
khó xác định. Chụp cộng hưởng từ đánh giá tốt nhất
về cấu trúc tín hiệu của khối, ranh giới và mức độ xâm
nhập của LNMTC vào cơ thành bụng hay mô dưới da.
LNMTC ở vết mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy
thai không phải là bệnh lý quá hiếm gặp (tỉ lệ mắc là
khoảng 2% các trường hợp phẫu thuật lấy thai) nhưng
chưa thấy báo cáo trong nước đề cập đến bệnh lý này,
có thể do bỏ sót tổn thương hoặc nhầm lẫn với các
bệnh lý ngoại khoa khác và chưa được quan tâm.
Theo Blanco (2003) hồi cứu trên 12 trường hợp
LNMTC ở vết mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy thai thì
chẩn đoán đúng (n=4), thoát vị vết mổ (n=4), u thành
bụng (n=2) và thoát vị bẹn (n=2) [1].
Trường hợp mổ u buồng trứng có LNMTC ở thành
bụng, chúng tôi nghĩ có thể đó là nang LNMTC buồng
trứng hơn là do nguyên nhân khác như do đường máu,
biến đổi tế bào, di trú trong y văn cũng đã nêu 1 số
trường hợp như vậy. Trên chẩn đoán hình ảnh, hình
LNMTC sau mổ cũng tương tự như hình LNMTC không
có tiền sử mổ. Trường hợp minh họa: N.T.H 36 tuổi,
thường xuyên đau bụng nhiều khi có kinh. Khối dưới
lớp cơ thành bụng, ngoài phúc mạc, có mạch máu của
LNMTC. Điều trị phẫu thuật.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lạc nội mạc tử cung vào cơ thành bụng sau mổ lấy thai và u tiểu khung được phát hiện tại trung tâm chẩn đoán hình ảnh Amtic, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201262
diỄn đàn
MediCAL ForUM
giỚi thiỆU
7 BN nữ độ tuổi từ 26-41 đã có mổ lấy thai trước
đó, 1 sau mổ u nang buồng trứng. BN đến khám vì đau
ở dưới vết mổ thành bụng có liên quan tới chu kì kinh
nguyệt. Khám lâm sàng thấy khối dưới sẹo mổ, một vài
BN có thể tự sờ thấy. Siêu âm thấy khối giảm âm không
đồng nhất trong thành bụng bên trái dưới sẹo mổ, chụp
cắt lớp vi tính (CLVT) thấy khối giảm tỉ trọng so với cơ,
chụp CHT thấy khối tăng tín hiệu trên T1W-T2W-FAT
SAT và ngấm thuốc đối quang từ. Chẩn đoán giải phẫu
bệnh xác nhận là lạc nội mạc tử cung.
Kết luận: Trong trường hợp BN nữ trong độ tuổi
sinh sản có sưng đau dưới sẹo mổ lấy thai hay phẫu
thuật phần phụ cần nghĩ đến LNMTC trong thành
bụng. Hình ảnh trên siêu âm, CLVT và đặc biệt là cộng
hưởng từ cho kết quả chẩn đoán đúng. Phẫu thuật
lấy bỏ hoàn toàn khối LNMTC là phương pháp điều trị
hiệu quả nhất.
MỞ đẦU
LNMTC là sự hiện diện của biểu mô tuyến và mô
đệm nội mạc tử cung ở vị trí ngoài buồng tử cung [7,
8, 5]. LNMTC ước tính xảy ra ở 10% tổng số phụ nữ
và hầu như chỉ xuất hiện ở độ tuổi sinh sản. LNMTC
thường gặp nhất ở vùng chậu, ngoài ra xuất hiện ở
TÓM TẮT
Mục đích: Tìm hiểu đặc điểm hình ảnh chung của 7 trường hợp lạc nội mạc tử cung (LNMTC).
Đối tượng: 6 bệnh nhân (BN) có vết mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy thai, 1 BN mổ u nang buồng trứng được
phát hiện ở trung tâm AMTIC - Hà Nội năm 2010.
Phương pháp và kết quả: Hình siêu âm là khối ít âm, có thể có dịch và có hình mạch bên trong. Trên cộng hưởng
từ (CHT) khối tăng tín hiệu trên T1W, T2W, FATSAT và lấy thuốc đối quang. Giải phẫu bệnh xác định tổn thương.
Kết luận: BN trong tuổi sinh nở có tiền sử mổ lấy thai đau vết mổ nên nghĩ đến LNMTC. Siêu âm, chụp cắt lớp
vi tính nhất là CHT cho chẩn đoán dễ dàng. Phẫu thuật là phương pháp hiệu quả nhất.
SUMMARY
Aim: Study the common caracteristic imaging after caesarian operation of 7 cases affected with endometriosis.
Material: 6 patients at 26-41 y.o. have had caesarian operation,1 ovarian cyst remove coming for pain at the
abdominal scar relating to mensus.
Methode and result: USG found a hypoechoic mass in the abdominal wall, on CT scanner the mass is
hypodense comparing to the soft tissue. On MRI the mass is hypersignal on the sequenses T1W, T2W and Fatsat
which taking contrast agent. The anatopathology had confirmed the diagnosis.
Conclusion: patient in fecondation time with history of cesarian operation suffered pain at the scar must be
thinking about secondary endometriosis. UGS, CT scanner and MRI can easy investigated. The surgical ablation is
the most effective methode.
LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG VÀO CƠ THÀNH BỤNG
SAU MỔ LẤY THAI VÀ U TIỂU KHUNG
ĐƯỢC PHÁT HIỆN TẠI TRUNG TÂM
CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH AMTIC
Lê Hùng*, Trần Tuấn Lưu*, Vũ Long**
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh, BV Thanh Nhàn
**Trung tâm CĐHA AMTIC, 11 Phan Chu Trinh Hà Nội
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 2012 63
DiỄn ĐÀn
ruột, lách, thận, cơ hoành, phổi và thành bụng [10].
LNMTC dưới vết mổ thành bụng là một vị trí hiếm gặp
và triệu chứng lâm sàng đa dạng nên có thể bỏ sót tổn
thương hoặc chẩn đoán nhầm với các bệnh lý ngoại
khoa khác.
Theo tác giả Klammash trong giai đoạn từ 1997-
2002 ở Bệnh viện Đại học Adulla, Jordan có 14 trường
hợp LNMTC ở vết mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy
thai, tỉ lệ mắc 0,2% [6]. Các báo cáo khác đưa ra tỉ lệ
mắc trong khoảng 0,03-0,4% [3, 9].
CA LâM Sàng
Các BN nữ độ tuổi từ 26-41 đã có mổ lấy thai trước
đó khoảng thời gian từ 1-5 năm. BN đến khám vì sưng
đau ở vết mổ thành bụng có liên quan tới chu kì kinh
nguyệt.
Siêu âm ổ bụng thấy khối trong thành bụng vùng
bên trái của vết mổ, ranh giới thường không rõ với cơ
thành bụng và lớp mỡ dưới da, kích thước khối khoảng
15-45mm. Cấu trúc các khối giảm âm không đồng nhất
và tăng sinh mạch trên siêu âm Doppler (hình 1).
Hình 1. Các khối giảm âm không đồng nhất trong thành bụng - tăng sinh mạch trên siêu âm Doppler,
bên trái của vết mổ lấy thai. Kích thước khoảng 15-45mm
Chụp CLVt trước tiêm thuốc đối quang cho thấy khối giảm tỉ trọng ít so với cơ thành bụng, ranh giới khối không
rõ, nhất là với lớp mỡ dưới da. Khối ngấm thuốc sau tiêm cản quang tĩnh mạch.
Chụp cộng hưởng từ với các chuỗi xung khác nhau, khối tăng tín hiệu trên T1W, T2W và T1W FAT SAT
(hình 2). Khối ngấm thuốc đối quang từ sau tiêm (hình 3).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201264
DiỄn ĐÀn
Hình 2. Khối tăng tín hiệu trên T1W, T2W và T1W FAT SAT
Hình 3. Khối ngấm thuốc mạnh sau tiêm đối quang từ Hình 4. GPB đại và vi thể
Hình 5. BN N.T,N.30 tuổi. Khối giảm âm không đồng nhất trong cơ thành bụng sau mổ u nang buồng trứng,
đau theo chu kì kinh. Hình rỗng âm của máu loãng và tăng âm của máu cục
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 2012 65
DiỄn ĐÀn
Bàn LUận
Đây là các trường hợp LNMTC ở vết mổ thành
bụng sau phẫu thuật lấy thai và mổ phụ khoa mà trung
tâm AMTIC phát hiện được sau khi đối chiếu với kết quả
phẫu thuật và giải phẫu bệnh. Theo các tài liệu y văn
trong và ngoài nước, chúng tôi thấy các BN của chúng
tôi có độ tuổi phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới.
Theo tác giả Horton (năm 2008) thì độ tuổi trung bình là
31,4 [4]. Thời gian từ khi phẫu thuật đến lúc xuất hiện
triệu chứng từ 1-5 năm, theo Horton (2008) thời gian
trung bình là 3,6 năm [4] và theo Gunes (2005) là 5,72
năm [2].
triệu chứng:
Tất cả các trường hợp có đau theo chu kì kinh
nguyệt, 3 trường hợp có sờ thấy u thành bụng. Theo
tác giả Blanco (2003) hồi cứu 12 trường hợp LNMTC
ở thành bụng sau phẫu thuật lấy thai trong vòng 7 năm
thì triệu chứng gồm: khối u thành bụng (n-12), đau bụng
theo chu kì kinh (n-5) và đau không theo chu kì (n-7) [1].
Như vậy, triệu chứng lâm sàng chính của LNMTC ở vết
mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy thai là thấy khối u
thành bụng kèm đau.
Hình ảnh: Trên siêu âm là khối giảm âm không
đồng nhất, tăng sinh mạch trên siêu âm Doppler, phù
hợp với hình ảnh điển hình của LNMTC (theo y văn).
Giá trị của chụp CLVT còn hạn chế do tỉ trọng của khối
khó phân biệt với cơ thành bụng và ranh giới của khối
khó xác định. Chụp cộng hưởng từ đánh giá tốt nhất
về cấu trúc tín hiệu của khối, ranh giới và mức độ xâm
nhập của LNMTC vào cơ thành bụng hay mô dưới da.
LNMTC ở vết mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy
thai không phải là bệnh lý quá hiếm gặp (tỉ lệ mắc là
khoảng 2% các trường hợp phẫu thuật lấy thai) nhưng
chưa thấy báo cáo trong nước đề cập đến bệnh lý này,
có thể do bỏ sót tổn thương hoặc nhầm lẫn với các
bệnh lý ngoại khoa khác và chưa được quan tâm.
Theo Blanco (2003) hồi cứu trên 12 trường hợp
LNMTC ở vết mổ thành bụng sau phẫu thuật lấy thai thì
chẩn đoán đúng (n=4), thoát vị vết mổ (n=4), u thành
bụng (n=2) và thoát vị bẹn (n=2) [1].
Trường hợp mổ u buồng trứng có LNMTC ở thành
bụng, chúng tôi nghĩ có thể đó là nang LNMTC buồng
trứng hơn là do nguyên nhân khác như do đường máu,
biến đổi tế bào, di trú trong y văn cũng đã nêu 1 số
trường hợp như vậy. Trên chẩn đoán hình ảnh, hình
LNMTC sau mổ cũng tương tự như hình LNMTC không
có tiền sử mổ. Trường hợp minh họa: N.T.H 36 tuổi,
thường xuyên đau bụng nhiều khi có kinh. Khối dưới
lớp cơ thành bụng, ngoài phúc mạc, có mạch máu của
LNMTC. Điều trị phẫu thuật.
Hình 6. BN P.T. N 36 tuổi. LNM thành bụng sau mổ
u buồng trứng
Phẫu thuật cắt u là phương pháp điều trị được lựa
chọn nhằm làm giảm tỉ lệ tái phát. Theo Horton (2008)
thì tỉ lệ tái phát sau phẫu thuật tận gốc là 4,3% [4].
KẾt LUận
LNMTC ở vết mổ thành bụng nên được nghĩ đến
ở một phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, có sưng đau ở vết
mổ lấy thai qua đường bụng hoặc trước đó có phẫu
thuật sản khoa hay phụ khoa. Hình ảnh của siêu âm và
đặc biệt là MRI cho thấy chẩn đoán đúng.
Phẫu thuật tận gốc là một lựa chọn tối ưu nhằm
giảm tỉ lệ tái phát.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201266
DiỄn ĐÀn
Blanco, R. G., parithivel, V. S., Shah, A. K., 1.
Gumbs, M. A., Schein, M. & Gerst, p. H. (2003).
“Abdominal wall endometriomas”. Am J Surg, 185(6),
596-598.
Gunes, M., Kayikcioglu, F., Ozturkoglu, E. & 2.
Haberal, A. (2005). “Incisional endometriosis after
cesarean section, episiotomy and other gynecologic
procedures”. JObstet Gynaecol Res, 31(5), 471-475.
Goel p, Sood SS, Dalal A, Romilla (2005). 3.
“Cesarean scar endometriosis: Report of two case”.
Horton, J. D., Dezee, K. J., Ahnfeldt, E. p. & 4.
Wagner, M. (2008). “Abdominal wall endometriosis: a
surgeon’s perspective and review of 445 cases”. Am J
Surg, 196(2), 207-212.
Jonathan S. Berek MD, M. (2007). Berek & 5.
Novak’s Gynecology, 14th Edition. In T. M. D’Hooghe
(Ed.), Endometriosis copyright©2007 Lippincott
Williams & Wilkins.
Khammash, M. R., Omari, A. K., Gasaimeh, 6.
G. R. & Bani-Hani, K. E. (2003). “Abdominal wall
endometriosis”. “An overlooked diagnosis”. Saudi Med
J, 24(5), 523-525.
Kinkel K, Frei KA, Balleyguier c, chapron c 7.
(2006). “Diagnosis of endometriosis with imaging”.
Olive DL, Schwartz LB (1993). “Endometriosis”. 8.
N Engl J Med 328: 1759-1769.
tài LiỆU thAM KhẢo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
lac_noi_mac_tu_cung_vao_co_thanh_bung_sau_mo_lay_thai_va_u_t.pdf