Giới thiệu
Năm 2010 kinh tế Việt Nam một lần nữa lại chứng kiến sự biến động mạnh của lạm phát
và những bất ổn đi kèm. Tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vào cuối năm đã ở mức
hai con số so với cùng kì năm trước, đồng thời nó đặt các hoạch định chính sách trước bài
toán nan giải phải cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng với bình ổn lạm phát, lãi suất, và tỉ giá.
Ngoại trừ năm 2009, khi lạm phát ở mức thấp phần lớn nhờ vào sự suy giảm của tổng cầu
cộng với sự rớt giá nguyên nhiên liệu đầu vào do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, những năm
gần đây lạm phát ở Việt Nam luôn ở mức hai con số và vượt xa mục tiêu đặt ra của chính phủ.1
Việc lạm phát cao và vượt xa mục tiêu đề ra liên tiếp trong những năm gần đây cho thấy
việc xác định mục tiêu và công tác điều hành chính sách tiền tệ trong việc đạt được mục tiêu
đó còn có những bất cập nhất định. Việc thực thi chính sách tiền tệ có vẻ như còn thiếu một
cơ sở lý luận vững chắc do vậy thường dẫn đến những phản ứng thụ động, không hiệu quả,
hoặc gây sốc cho nền kinh tế. Trong bài viết này, trước tiên chúng tôi chúng tôi cố gắng phân
rã CPI thành nhiều thành phần khác nhau. Việc phân rã này góp phần làm rõ xu hướng biến
động từng thành phần và từ đó đưa ra những gợi ý phản ứng chính sách thích hợp và chủ
động hơn. Tiếp theo, các quy tắc chính sách tiền tệ cũng được thảo luận trong việc theo đuổi
mục tiêu kiểm soát lạm phát, tránh những phản ứng không cần thiết gây sốc thanh khoản cho
nền kinh tế.
Mục lục
Giới thiệu . 2
Cơ cấu rổ hàng tính CPI . 2
Lạm phát tổng thể và lạm phát cơ bản . 4
Phân rã lạm phát . 5
Các quy tắc chính sách tiền tệ 7
Tài liệu tham khảo . 10
13 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1990 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lạm phát và các quy tắc chính sách tiền tệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài thảo luận chính sách CS-05
Lạm phát và các quy tắc chính sách tiền tệ
Phạm Thế Anh
© 2011 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài thảo luận chính sách CS-05
Lạm phát và các quy tắc chính sách tiền tệ
Phạm Thế Anh†
Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất thiết
phản ánh quan điểm của VEPR.
† Tiến sĩ Kinh tế, Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân. Email: Pham.TheAnh@yahoo.com.
1
Mục lục
Giới thiệu ................................................................................................................................... 2
Cơ cấu rổ hàng tính CPI ............................................................................................................. 2
Lạm phát tổng thể và lạm phát cơ bản ....................................................................................... 4
Phân rã lạm phát ......................................................................................................................... 5
Các quy tắc chính sách tiền tệ .................................................................................................... 7
Tài liệu tham khảo ................................................................................................................... 10
2
Giới thiệu
Năm 2010 kinh tế Việt Nam một lần nữa lại chứng kiến sự biến động mạnh của lạm phát
và những bất ổn đi kèm. Tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vào cuối năm đã ở mức
hai con số so với cùng kì năm trước, đồng thời nó đặt các hoạch định chính sách trước bài
toán nan giải phải cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng với bình ổn lạm phát, lãi suất, và tỉ giá.
Ngoại trừ năm 2009, khi lạm phát ở mức thấp phần lớn nhờ vào sự suy giảm của tổng cầu
cộng với sự rớt giá nguyên nhiên liệu đầu vào do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, những năm
gần đây lạm phát ở Việt Nam luôn ở mức hai con số và vượt xa mục tiêu đặt ra của chính phủ.1
Việc lạm phát cao và vượt xa mục tiêu đề ra liên tiếp trong những năm gần đây cho thấy
việc xác định mục tiêu và công tác điều hành chính sách tiền tệ trong việc đạt được mục tiêu
đó còn có những bất cập nhất định. Việc thực thi chính sách tiền tệ có vẻ như còn thiếu một
cơ sở lý luận vững chắc do vậy thường dẫn đến những phản ứng thụ động, không hiệu quả,
hoặc gây sốc cho nền kinh tế. Trong bài viết này, trước tiên chúng tôi chúng tôi cố gắng phân
rã CPI thành nhiều thành phần khác nhau. Việc phân rã này góp phần làm rõ xu hướng biến
động từng thành phần và từ đó đưa ra những gợi ý phản ứng chính sách thích hợp và chủ
động hơn. Tiếp theo, các quy tắc chính sách tiền tệ cũng được thảo luận trong việc theo đuổi
mục tiêu kiểm soát lạm phát, tránh những phản ứng không cần thiết gây sốc thanh khoản cho
nền kinh tế.
Cơ cấu rổ hàng tính CPI
Thước đo lạm phát tổng thể ở Việt Nam được tính toán theo sự thay đổi của CPI. Rổ
hàng hóa được sử dụng để tính CPI của Việt Nam hiện nay bao gồm 11 nhóm hàng chính.
Việc xây dựng rổ hàng hóa này được dựa trên trên kết quả khảo sát thị trường tại các tỉnh và
thành phố trực thuộc trung ương, kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình và điều tra quyền số
CPI do Tổng cục Thống kê thực hiện trong năm 2008. Theo kế hoạch, rổ hàng hóa này được
sử dụng trong giai đoạn 2009-1014. Chi tiết về rổ hàng và các chỉ số thống kê đơn giản về giá
cả của các thành phần trong rổ hàng được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1 cho thấy cả tốc độ tăng lẫn sự biến động của CPI đang có xu hướng gia tăng
trong giai đoạn gần đây. Trung bình trong giai đoạn 2008-2010, chỉ số CPI hàng tháng tăng
khoảng 13,08% so với cùng kì, cao gần gấp đôi với con số 6,09 của giai đoạn 2003-2007.
Đồng thời mức độ biến động, đo lường theo độ lệch chuẩn, của CPI cũng tăng từ 2,39% trong
1 Lạm phát các năm 2007, 2008 và 2010 lần lượt là 12,6%, 19,9% và 11,8%.
3
giai đoạn 2003-2007 lên tới 8,26% trong giai đoạn 2008-2010. Điều này cho thấy CPI theo
tháng của Việt Nam trong những năm gần đây không chỉ tăng cao hơn mà còn biến động thất
thường mạnh hơn so với những năm trước. Phân tách theo từng nhóm hàng chúng ta có thể
thấy nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đóng vai trò chi phối lớn nhất trong sự biến động của
giá cả. Nhóm hàng này chiếm tỉ trọng lên tới xấp xỉ 40% trong rổ hàng, đồng thời luôn có
mức tăng cũng như biến động cao hơn so với các nhóm hàng còn lại. Cụ thể, trong giai đoạn
2003-2007, giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống có mức tăng trung bình cao gần gấp đôi,
đồng thời có mức độ biến động cao hơn gấp ba lần so với con số tương ứng của các nhóm
hàng còn lại. Trong giai đoạn 2008-2010, giá cả nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống thậm chí
còn tăng cao và biến động mạnh hơn. Trung bình giai đoạn này giá cả nhóm hàng ăn và dịch
vụ ăn uống tăng 18,85% với độ lệch chuẩn lên tới 14,59%. Trong số các nhóm hàng còn lại,
nhà ở và vật liệu xây dựng, chiếm tỉ trọng 10.01%, và giao thông, chiếm tỉ trọng 8,87%, là
những nhóm hàng có mức tăng cao và biến động vượt trội.
Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng theo tháng giai đoạn 2003-2010 (%)
2003-2007 2008-2010
Tỉ trọng
(%)
Trung
bình
Lệch
chuẩn
Trung
bình
Lệch
chuẩn
CPI 6.99 2.39 13.08 8.26
Hàng ăn và dịch vụ ăn
uống 39.93 9.22 4.59 18.85 14.59
Đồ uống và thuốc lá 4.03 4.71 0.99 9.53 2.20
May mặc, mũ nón, giầy
dép 7.28 4.52 1.48 8.72 2.30
Nhà ở và vật liệu xây
dựng 10.01 8.32 2.46 12.95 8.20
Thiết bị và đồ dùng gia
đình 8.65 4.04 1.86 7.67 2.73
Dược phẩm, y tế 5.61 8.52 5.44 6.15 2.69
Giao thông và Bưu điện 11.60 4.19 4.00 7.29 9.47
Giáo dục 5.72 2.85 1.97 6.81 4.48
Văn hoá, thể thao, giải trí 3.83 1.68 1.75 5.10 2.68
Đồ dùng và dịch vụ khác 3.34 5.57 1.68 12.06 1.10
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên nguồn số liệu của Tổng Cục Thống Kê
Ngoài tổng cầu, sự biến động giá cả của một nhóm hàng nào đó còn có thể do nhiều
nguyên nhân khác như do tính mùa vụ cao, hệ thống cung ứng mang tính độc quyền, hoặc
công tác quản lý giám sát thị trường chưa tốt. Việc phân tích sự biến động của từng nhóm
hàng giúp chúng ta có được một bức tranh chi tiết về tình hình biến động giá cả ở mỗi ngành
hàng. Các nhà quản lý cần thấy được các nhóm hàng có giá cả biến động cao và thường
xuyên để đưa ra được các chính sách quản lý thị trường hiệu quả hơn, tránh các hiện tượng
4
đầu cơ đẩy giá. Đồng thời, hệ thống cung ứng và phân phối những mặt hàng đó cần phải
được thay đổi theo hướng khuyến khích nhiều doanh nghiệp tham gia cạnh tranh hơn.
Lạm phát tổng thể và lạm phát cơ bản
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ là phải
dự đoán được xu hướng thay đổi của lạm phát để đưa ra những phản ứng chính sách thích
hợp. Những phân tích ở trên cho thấy thước đo lạm phát của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều
vào sự biến động giá cả của nhóm hàng hàng ăn và dịch vụ ăn uống. Nhóm hàng này chiếm tỉ
trọng rất lớn và có giá cả phụ thuộc nhiều và điều kiện thời tiết và tính chất mùa vụ trong
nông nghiệp. Ngoài ra, nhà ở, điện, khí đốt & vật liệu xây dựng và giao thông cũng là những
nhóm hàng có tỉ trọng khá cao và giá cả của chúng bị chi phối bởi sự biến động của giá
nguyên nhiên liệu thế giới. Tuy nhiên, những thay đổi bất thường về thời tiết hay biến động
giá trên thị trường nguyên nhiên liệu thế giới nhiều khi chỉ mang tính tạm thời và nằm ngoài
tầm kiểm soát của chính sách tiền tệ. Nếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh chính
sách tiền tệ theo những biến động giá cả tạm thời này thì đôi khi sẽ là không cần thiết và dễ
mắc sai lầm. Chính vì lý do này, bên cạnh thước đo lạm phát tổng thể ở trên, các cơ quan
thống kê trên thế giới thường tính toán thêm thước đo lạm phát cơ bản (Core inflation), loại
trừ những thay đổi tạm thời của của giá lương thực & thực phẩm và năng lượng. Bên cạnh
lạm phát tổng thể, lạm phát cơ bản cũng được ngân hàng trung ương các nước theo dõi để
đưa ra những phản ứng chính sách tiền tệ thích hợp.
Để tính toán lạm phát cơ bản, một cách đơn giản nhất người ta thường làm đó là loại bỏ
các nhóm hàng thường xuyên có giá cả biến động lên xuống tạm thời như lương thực, thực
phẩm, và năng lượng ra khỏi rổ hàng tính CPI. Tuy nhiên, có một nhược điểm lớn đối với
cách làm này là không phải sự biến động giá cả nào của các nhóm hàng trên cũng mang tính
tạm thời. Trong trường hợp đó, việc loại bỏ chúng sẽ khiến cho thước đo lạm phát cơ bản sẽ
không phản ánh đúng xu hướng giá cả trong nền kinh tế. Hai chỉ số lạm phát tổng thể và lạm
phát cơ bản lúc đó sẽ đi theo những xu hướng ngược nhau và gây nhiễu thông tin đối với các
nhà hoạch định chính sách.
Điều quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ là phải thấy rõ được đâu là
biến động mang tính chất mùa vụ, biến động chu kì, và xu hướng dài hạn của thước đo lạm
phát nhằm đưa ra những phản ứng chính sách kịp thời và hợp lý. Những kĩ thuật phân rã
chuỗi thời gian đơn giản có thể cho phép chúng ta làm được điều này.
5
Phân rã lạm phát
Nhằm thấy được rõ xu hướng biến động của lạm phát chúng tôi thực hiện phân rã nó
theo các thành phần khác nhau. Việc phân rã này sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách biết
được tốc độ tăng CPI của một tháng nào đó có bao nhiêu phần là do những yếu tố nền tảng
dài hạn, và bao nhiêu phần là do những yếu tố ngắn hạn như mùa vụ, chu kì, và ngẫu nhiên.
Nhờ đó, những phản ứng chính sách thích hợp có thể được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu
mong muốn.
Để phân rã chuỗi lạm phát chúng tôi sử dụng một trong những phương pháp phổ biến
nhất đó là phương pháp phân rã số nhân (Multiplicative Decomposition Method). Theo
phương pháp này, tỉ lệ lạm phát có thể được phân rã theo các thành phần như sau:
ߨ௧ ൌ ݂ሺܶ, ܥ, ܵ, ݁ሻ (1)
Trong đó πt là tỉ lệ lạm phát của tháng t đo lường theo tốc độ tăng CPI so với cùng kì, f là
hàm số toán học của xu hướng dài hạn T, thành phần chu kì C, thành phần mùa vụ S, và sai số
ngẫu nhiên e. Trước tiên chúng tôi bóc tách thành phần mùa vụ bằng phương pháp trung bình
trượt trọng tâm (Centered Moving Average). Tiếp theo xu hướng dài hạn T và thành phần chu
kì C có thể được bóc tách thông qua phương pháp lọc HP (Hodrick-Prescott Filter). Lưu ý
rằng, theo phương pháp này thành phần chu kì C sẽ được bóc tách với sai số ngẫu nhiên e.2
Kết quả phân rã thước đo lạm phát CPI so với cùng kì năm trước được trình bày trong Hình 1.
Hình 1 cho thấy thành phần dài hạn của lạm phát đã có xu hướng giảm kể từ những
tháng trong quý 3 năm 2008 khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra và khi các điều
chỉnh chính sách tiền tệ trước đó của Việt Nam bắt đầu phát huy tác dụng. Các điều chỉnh này
bao gồm việc nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, hút tiền về qua thị trường mở, và
thậm chí là phát hành tín phiếu bắt buộc. Đường xu hướng dài hạn này của lạm phát sẽ cho
chúng ta những thông tin tương đối về hiện trạng lạm phát thực của nền kinh tế. Nói một cách
cụ thể hơn, tỉ lệ lạm phát thực của nền kinh tế sẽ xoay quanh, thấp hơn hoặc cao hơn, đường
xu hướng này tùy thuộc vào các yếu tố mùa vụ và chu kì. Về cơ bản, xu hướng dài hạn của
lạm phát phụ vào tốc độ tăng trưởng cung tiền hàng năm của nền kinh tế. Hình 1 cũng cho
thấy mối tương quan chặt chẽ giữa hai biến số này. Sự gia tăng nhanh của cung tiền, đạt đỉnh
vào khoảng gần 50% trong năm 2007, đã kéo theo thước đo lạm phát dài hạn đạt mức cao
nhất vào những tháng giữa năm 2008. Kể từ năm 2008 đến nay, hai thước đo tăng trưởng
2 Chi tiết phương pháp này có thể tham khảo trong Eviews5 User’s Guide, 1994–2004 Quantitative Micro
Software, LLC.
6
cung tiền và lạm phát cùng có xu hướng giảm. Tuy nhiên có thể thấy rằng, mặc dù mức lạm
phát dài hạn này đang giảm nhưng vẫn ở mức cao, khoảng 8% vào cuối năm 2010. Với tốc độ
tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 7-8%, nếu chính phủ muốn đạt được mục tiêu lạm phát
xoay quanh 7% thì tốc độ tăng trưởng cung tiền chỉ nên giới hạn trong khoảng 15%/năm.3
Với việc cho phép cung tiền tiếp tục tăng trên 20% như hiện nay thì rõ ràng mục tiêu kiểm
soát lạm phát ở mức một con số gần như là điều không thể.
Hình 1: Phân rã lạm phát giai đoạn 2003-2010
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên nguồn số liệu của Tổng Cục Thống Kê
Thành phần chu kì phản ánh sự lên xuống của lạm phát gây ra bởi những sự kiện hoặc
chính sách nào đó. Trong khi đó, thành phần mùa vụ phản ánh những dao động ở những thời
điểm nhất định trong năm gây ra bởi các sự kiện như mùa vụ trong nông nghiệp, kì nghỉ lễ
tết,… Sự khác nhau giữa chúng đó là thành phần mùa vụ sẽ lặp đi lặp lại vào những thời điểm
nhất định trong năm, trái lại thành phần chu kì có thể dài ngắn tùy thuộc vào các chu kì kinh
tế khác nhau. Ngoài ra, thành phần chu kì theo phương pháp này còn bao gồm những biến đổi
ngẫu nhiên không giải thích được.
3 Mối quan hệ trong dài hạn giữa lạm phát và tăng trưởng cung tiền có thể được xem xét thông qua phương trình
số lượng tiền tệ, MV = PY, của trường phái cổ điển. Với tốc độ lưu chuyển tiền tệ V ổn định, tốc độ tăng giá P
sẽ xấp xỉ bằng với chênh lệch giữa tốc độ tăng cung tiền M và tốc độ tăng trưởng sản lượng Y.
00
05
10
15
20
25
30
Lạm phát CPI
‐02
‐02
‐01
‐01
00
01
01
02
Thành phần mùa vụ
‐15
‐10
‐05
00
05
10
15
20
Thành phần chu kì
,0
10,0
20,0
30,0
40,0
50,0
00
03
06
09
12
15 Tăng trưởng M2 - trục phải
Xu hướng dài hạn - trục trái
7
Những tính toán với số liệu của Việt Nam cho thấy chu kì tăng giá cao nhất thường diễn
ra từ tháng 12 đến tháng 3 hàng năm. Đây là những tháng có nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong
khi đó sản xuất thường chậm lại do có nhiều ngày nghỉ lễ tết. Ngược lại, thời gian từ tháng 8
đến tháng 10 lại là giai đoạn có chỉ số mùa vụ thấp nhất. Hình 1 cho thấy yếu tố mùa vụ có
thể làm cho CPI tăng cao hơn hoặc thấp hơn trong vòng khoảng 0,5% so với xu hướng dài
hạn. Những diễn biến của thành phần mùa vụ cũng cho thấy CPI còn có thể tăng cao trong
tháng 1 và tháng 2 tới. Tuy nhiên, những thay đổi giá cả có tính mùa vụ chỉ mang tính tạm
thời, giá cả sẽ nhanh chóng trở lại xu hướng dài hạn khi mùa vụ (Thay đổi thời tiết hay kì
nghỉ lễ tết) qua đi. Do vậy, khi đưa ra những quyết định chính sách, NHNN cần cân nhắc
tránh phản ứng theo những yếu tố mùa vụ này.
Cuối cùng, thành phần chu kì là khó dự đoán nhất. Để bình ổn được lạm phát, nhiệm vụ
quan trọng của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ là phải dự đoán được xu hướng biến đổi
của thành phần này nhằm có được những phản ứng chính sách mang tính đón đầu. Sự phản
ứng chậm trễ có thể làm giá cả tăng theo phản ứng dây truyền và khó kiểm soát. Kết quả phân
rã của những năm gần đây cho thấy thành phần chu kì bắt đầu giai đoạn giảm kể từ sau tháng
8/2008 khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra. Giá cả các yếu tố đầu vào giảm mạnh cộng
với sự suy giảm của tổng cầu khiến CPI của Việt Nam giảm nhanh. Giai đoạn sụt giảm này
kết thúc vào tháng 9/2009. Kể từ tháng 9/2010, thành phần chu kì bắt đầu dương và gia tăng
mạnh do sự mất giá của đồng nội tệ cũng như sự gia tăng trở lại của giá cả thế giới. Tuy
nhiên, chính sách tiền tệ chỉ bắt đầu phản ứng kể từ đầu tháng 11/2010 khi NHNN đồng thời
nâng lãi suất cơ bản lên 9% và hạn chế lượng tiền bơm ra trên thị trường mở. Những phản
ứng chậm trễ này khiến cho thành phần chu kì không được kiểm soát kịp thời, kết hợp với
yếu tố mùa vụ cao của những tháng cuối năm, tốc độ tăng CPI của Việt Nam đã kết thúc năm
ở mức hai con số.
Các quy tắc chính sách tiền tệ
Quy tắc chính sách là cách thức ra quyết định sử dụng những thông tin theo cách nhất
quán và có thể dự đoán được. Để xây dựng được quy tắc và thực hiện nó một cách hiệu quả,
trước tiên ngân hàng trung ương các nước phải xác định mục tiêu hợp lý và cam kết theo đuổi
mục tiêu đó. Các quy tắc chính sách được sử dụng phổ biến bởi ngân hàng trung ương các
nước bao gồm:
(1) Mục tiêu cung tiền: Quy tắc này được ủng hộ bởi các nhà kinh tế tiền tệ, điển hình là
Milton Friedman. Các nhà kinh tế tiền tệ tin rằng nguyên nhân chính gây ra các biến động
8
của nền kinh tế là biến động của cung tiền. Với quy tắc này, ngân hàng trung ương sẽ ấn
định mức tăng trưởng cung tiền hàng năm ở mức thấp và ổn định nhằm duy trì sự ổn định
của sản lượng, việc làm, và giá cả. Thông thường tốc độ tăng trưởng cung tiền được ấn
định ở mức lớn hơn đôi chút so với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Ví dụ như
Milton Friedman đề xuất mức tăng trưởng cung tiền hàng năm là 3% cho nền kinh tế Mĩ.
Mặc dù quy tắc chính sách tiền tệ này đáng lẽ có thể giúp cho nền kinh tế tránh khỏi
nhiều biến động trong quá khứ tuy nhiên hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng nó không
phải là tối ưu. Sự ổn định của cung tiền chỉ giúp ổn định tổng cầu nếu như tốc độ lưu
chuyển của tiền là không đổi. Trong thực tế, nhiều cú sốc kinh tế gây ra sự biến động của
cầu tiền và do vậy là tốc độ lưu chuyển. Các nhà kinh tế tin rằng tăng trưởng cung tiền
cần phải được điều chỉnh linh hoạt, chứ không nên cố định, để trung hòa các cú sốc này.
(2) Mục tiêu GDP danh nghĩa: Đây là quy tắc được các nhà kinh tế ủng hộ rộng rãi, đặc biệt
là ở Mĩ. Theo quy tắc này, ngân hàng trung ương sẽ công bố mức mục tiêu của GDP danh
nghĩa – tức là GDP tính theo giá hiện hành. Nếu GDP danh nghĩa thấp hơn mức mục tiêu
này, ngân hàng trung ương sẽ tăng cung tiền nhằm kích thích tổng cầu và ngược lại. Do
mục tiêu GDP danh nghĩa cho phép chính sách tiền tệ phản ứng với những thay đổi của
tốc độ lưu chuyển tiền tệ nên hầu hết các nhà kinh tế tin rằng nó có thể mang lại sự ổn
định về sản lượng và giá cả tốt hơn so với quy tắc của các nhà kinh tế tiền tệ.
(3) Mục tiêu lạm phát: Đây cũng là quy tắc được nhiều nhà kinh tế ủng hộ và được sử dụng
phổ biến nhất bởi ngân hàng trung ương nhiều nước trên thế giới như Anh, Úc, Canada,
Thụy Điển,… Theo quy tắc này, ngân hàng trung ương sẽ công bố một mức mục tiêu đối
với tỉ lệ lạm phát và điều chỉnh cung tiền, do vậy là lãi suất, khi tỉ lệ lạm phát thực tế lệch
khỏi tỉ lệ lạm phát mục tiêu. Giống như quy tắc mục tiêu GDP danh nghĩa, quy tắc này
cũng giúp nền kinh tế trung hòa được các cú sốc về cầu tiền. Ngoài ra, quy tắc mục tiêu
lạm phát có lợi thế thêm nữa về tính minh bạch đối với công chúng.
(4) Quy tắc Taylor: Ngoài việc theo đuổi mục tiêu lạm phát ngân hàng trung ương các nước
còn có thể đồng thời theo đuổi mục tiêu đối với tỉ lệ thất nghiệp hoặc GDP thực – GDP
tính theo giá so sánh. Đây chính là quy tắc đề xuất bởi nhà kinh tế John Taylor và được
ngân hàng trung ương Mĩ thực hiện trong nhiều năm qua. Theo quy tắc này, ngân hàng
trung ương sẽ điều chỉnh cung tiền và lãi suất bất cứ khi nào lạm phát lệch khỏi mức mục
tiêu và/hoặc tỉ lệ thất nghiệp lệch khỏi mức thất nghiệp tự nhiên (Hoặc GDP lệch khỏi
mức GDP tiềm năng trong dài hạn). Do mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và thất
nghiệp khi điều chỉnh tiền tệ, nên điều quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách
là phải kết hợp hài hòa được giữa hai mục tiêu này một cách đồng thời.
9
Thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua, hàng năm NHNN đồng thời công bố hai mục
tiêu tăng trưởng cung tiền và mục tiêu lạm phát. Ví dụ như năm 2010, NHNN đồng thời đặt
mục tiêu tăng trưởng cung tiền là 20% và mục tiêu lạm phát là 8%. Đây là những quy tắc
chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Việc theo đuổi tăng trưởng cung tiền ở mức cố định sẽ khiến
cho chính sách tiền tệ mất đi tính linh hoạt trong việc kiểm soát lạm phát. Rõ ràng, chúng ta
không thể đồng thời vừa tăng cung tiền vừa cắt giảm lạm phát trong trường hợp cần thiết.
Quan trọng hơn, ấn định mục tiêu tăng trưởng cung tiền ở mức 20% là cao một cách bất hợp
lý. Trạng thái cân bằng dài hạn cho chúng ta biết tốc độ tăng cung tiền chỉ nên dao động xấp
xỉ quanh mức lạm phát mục tiêu cộng với tốc độ tăng trưởng kinh tế – khoảng 15% đối với
Việt Nam. Việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cung tiền quá cao trong thời gian dài sẽ dẫn
đến việc lạm phát thực tế vượt xa mức mục tiêu và/hoặc gây ra bong bóng giá trên thị trường
tài sản.
Để thực hiện quy tắc mục tiêu lạm phát, trong thời gian qua NHNN thường dùng công cụ
lãi suất cơ bản để từ đó tác động đến các loại lãi suất khác và tổng cầu của nền kinh tế. Tuy
nhiên, việc điều chỉnh lãi suất này thường được coi là chậm chạp, tức là chỉ phản ứng sau khi
lạm phát đã xảy ra, và thiếu tính ngăn chặn. Những thay đổi lãi suất áp dụng cho tháng tiếp
theo được đưa ra dựa trên thông tin về lạm phát của tháng hiện tại. Chúng ta có thể ước lượng
quy tắc chính sách đơn giản của NHNN qua phương trình sau:
ݎ௧ ൌ ߙ ߚߨ௧ିଵ ߝ௧ (2)
Trong đó r là lãi suất, π là tỉ lệ lạm phát, và ε là sai số. Sử dụng số liệu lãi suất huy động
hàng tháng chính thức của giai đoạn 1/2003-12/2010, chúng tôi ước lượng được α = 5,73 và β
= 0,29. Hằng số β thấp cho thấy phản ứng của lãi suất khá thụ động với diễn biến lạm phát.
Nếu lạm phát tăng 1 điểm phần trăm thì lãi suất chỉ tăng xấp xỉ 0,3 điểm phần trăm. Điều này
thể hiện rõ quan điểm khá lỏng với lạm phát và chạy theo tăng trưởng tín dụng và cung tiền
trong những năm gần đây. Hơn nữa, sự phản ứng không theo sát thị trường này còn khiến cho
các ngân hàng thương mại luôn phải tìm cách nâng lãi suất vượt trần cho phép qua nhiều hình
thức khác nhau, tạo nên sự tồn tại của cơ chế hai lãi suất.
Ngoài ra, việc thiếu một thước đo lạm phát kì vọng khiến cho NHNN mất đi nguồn
thông tin quan trọng phản ánh tương lai lạm phát của nền kinh tế, và do vậy phản ứng chính
sách không có tính đón đầu. Thông thường ở các nước trên thế giới, thông tin về kì vọng lạm
phát có thể được khai thác từ phỏng vấn điều tra hoặc qua thị trường trái phiếu. Việc phỏng
vấn điều tra các hộ gia đình, doanh nghiệp, và các chuyên gia thường tốn kém và mất thời
gian. Hơn nữa, thông tin thu thập được có thể bị sai lệch do mẫu điều tra không đại diện. Do
10
vậy, thị trường trái phiếu thường là kênh thông tin phổ biến về kì vọng lạm phát. Bằng cách
phát hành TIPS – một loại trái phiếu có coupon điều chỉnh theo lạm phát, chính phủ các nước
có thể thu được những thông tin quan trọng về lạm phát trong tương lai. Chênh lệch giữa lợi
suất của TIPS và lợi suất của các loại trái phiếu thông thường khác sẽ cho ngân hàng trung
ương những thông tin quan trọng về lạm phát trong tương lai để từ đó có những điều chỉnh
chính sách thích hợp. Trong thời gian tới Việt Nam nên cân nhắc phát hành loại trái phiếu này.
Cuối cùng, khi đã công bố mục tiêu thì các quy tắc chính sách để đạt được mục tiêu đó
cần phải được thực hiện một cách có kỉ luật. Việc thực thi một chính sách tiền tệ nhất quán sẽ
giúp NHNN lấy được lòng tin của công chúng. Lý thuyết kì vọng duy lý cho chúng ta biết
rằng hành vi của các hộ gia đình và các doanh nghiệp trong nền kinh tế không chỉ dựa trên
những thông tin trong quá khứ mà còn dựa vào các thông tin về tương lai. Khi công chúng tin
vào những công bố chính sách, NHNN chỉ cần điều chỉnh nhỏ đối với chính sách cũng có thể
đem lại những hiệu quả lớn (xem thêm Phạm Thế Anh, 2008). Trái lại, những điều chỉnh
chính sách bất nhất có thể làm cho cái giá phải trả cho việc hạ thấp tỉ lệ lạm phát lớn hơn rất
nhiều.
Tài liệu tham khảo
Phạm Thế Anh (2008), Chính sách tiền tệ và lạm phát: Cần một lộ trình kiên quyết, nhất
quán. Tạp chí Tài chính, số 3 (521) 2008.
William Poole (1999), Monetary Policy Rules, The Federal Reserve Bank of St. Louis
Review, Macrh/April, 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CS05.pdf