Lạm phát đã là và mãi mãi là một vấn đề lớn của thời đại chúng ta. Dù ở thể nào, nó cũng bào mòn, thậm chí cuốn đi tiền tài và giá cả, đồng lương và những khoản thu nhập khác, thậm chí cả những gia sản. Tóm lại là tất cả mọi giá trị, những thứ mà con người muốn giữ được.
Người ta e ngại nó, thậm chí “vạch mặt chỉ tên” nó thì cũng chẳng có gì đáng trách. Vấn đề là chúng ta không thể chỉ xét riêng mình nó, tách riêng nó ra. Làm sao có thể gạt lạm phát ra khỏi những vấn đề cũng nhức nhối như sự tăng trưởng và nạn thất nghiệp? Lạm phát không phải một vấn đề đơn giản, nó có tác động lớn tới nền kinh tế và ngược lại môi trường kinh tế cũng là mảnh đất cho lạm phát sinh sôi. Không thể chỉ nhìn riêng vào tỉ lệ lạm phát để đo lường lạm phát, cần xem xét cùng với tỉ lệ tăng trưởng quốc gia. Và ở mỗi quốc gia lại định ra một mức tỉ lệ lạm phát khác nhau, do điều kiện kinh tế xã hội khác biệt.
Qua những phân tích ở phần nội dung, chúng ta đã nắm được phần nào các lý thuyết về lạm phát, bản chất và nguyên nhân của lạm phát, cơ chế của nó và các giải pháp phòng chống, khắc phục hậu quả lạm phát. Từ đó, có thể thấy chế ngự lạm phát là một công việc rất khó khăn. Tính khốc liệt của nó đã được bàn luận, tranh cãi nhiều và cũng gây ra nhiều phản ứng đối địch. Lạm phát đặt ra vấn đề chính trị, như trong nền dân chủ, cần giành thắng lợi cho lợi ích chung trên một khối những lợi ích bộ phận được cấu kết với nhau một cách không hoà nhịp. Nền kinh tế của giai đoạn này đòi hỏi chúng ta cần hiệp đồng giữa các nhóm đối tác khác nhau. Mục đích là để thoả thuận với nhau một số hy sinh nhằm giữ thế ổn định của đồng tiền- một báu vật. Chỉ trong điều kiện như vậy mới làm giảm nhẹ được hậu quả, tác động tiêu cực khắc phục của lạm phát.
33 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở những mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì thì không dễ cũng như khó có thể đi đến một định nghĩa thống nhất. Theo tiếng Latinh Inflatio xuất phát từ chữ Inflare, nghĩa là một chỗ sưng phồng. Nếu một cơ bắp bị căng phồng hoặc một phủ tạng bị sưng to đều không phải là biểu hiện của bệnh beó bệu, thì mọi sự tăng trưởng của một khối lượng kinh tế lại càng không phải là lạm phát. Lạm phát là một sự phình ra gồm 2 đặc tính bất thường và gây tổn thất cho nền kinh tế. Khẳng định coi lạm phát là một sự tăng phổ biến của giá cả cần nắm rõ 4 điểm sau:
- Tính từ phổ biến phải được hiểu một cách hợp lý: không phải mọi giá đều tăng lên. Trong khung cảnh chung giá đang tăng lên, có những giá vẫn ổn định thậm chí lại có những giá hạ xuống. Cũng không phải là các giá tăng lên cùng một lúc và với tỉ lệ % giống nhau. Trong mọi động thái phổ biến của giá cả thì sự phân tán là quy luật.
- Việc ước tính tỷ lệ lạm phát là khó khăn. Nó có giá trị như giá trị các trị số được sử dụng thời kỳ càng dài thì giới hạn sai lạc của các công cụ không hoàn hảo ấy càng tăng. Ngay trong điều kiện sử dụng thuận lợi nhất, tức là ở ngay trong cùng một nước và trong thời gian ngắn, chỉ số giá cả cũng chỉ thể hiện áng chừng sự thay đổi sức mua của đồng tiền. Chỉ số giá cả sẽ được trình bày rõ hơn ở phần tiếp theo.
- Mọi sự gia tăng trên một loạt giá cả không nhất thiết đã là lạm phát. Để được gọi là lạm phát thì sự gia tăng đó phải tác động bằng một quá trình mạnh mẽ-sự vận hành với các diễn biến nối tiếp, liên tục và cần có một thời gian nhất định. Chỉ một lần nâng mặt bằng giá cả có thể không phải là lạm phát.
- Lạm phát không chỉ bao hàm một tính chất thuần tuý tiền tệ. Cần thiết phải kể đến các yếu tố khác như yếu tố hiện vật, tâm lý và trọng lượng của các yếu tố xã hội.
1. 1. 2 Tỷ lệ lạm phát
Mục trên chúng ta đã xem xét Lạm phát về mặt định tính, còn về mặt định lượng thì sao? Làm thế nào để đo lường được sự gia tăng của giá cả? Lạm phát được đo bằng chỉ tiêu nào?
- Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm hàng hoá, thể hiện là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát thường được đo bằng chỉ số giá cả.
+ Mức giá trung bình thường lấy mức giá cả của những mặt hàng tiêu dùng làm cơ sở (các nhóm chính là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư y tế). Tính chỉ số giá tiêu dùng để từ đó đo Lạm phát. Công thức tính chỉ số giá tiêu dùng có thể được viết như sau:
CPI=ồcpi. d
CPI ( Consumer Price Index ) chỉ số giá tiêu dùng của cả giỏ hàng hoá cpi: Chỉ số giá cả của từng loại hàng hoá trong giỏ hàng hoá đó. d: Tỷ trọng mức tiêu dùng trong từng loại hàng hoá, nhóm hàng hoá trong giỏ. Hay:
CPI t =
Pt gạo
x 100 x
phần chi cho gạo
+
pt chất đốt
x 100 x
phần chi cho chất đốt
+
Những thay đổi của giá cả được tính với các mặt hàng khác
p0 gạo
p0 chất đốt
Trong đó:
CPIt : giá trị của CPI trong năm t
pt gạo : giá gạo trong năm t
po gạo : giá gạo trong năm gốc
Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Nhược điểm của CPI là chỉ số này không phản ánh được sự chuyển động của mọi giá cả vì trong đó nặng về giá của hàng hoá hơn là giá của dịch vụ. Trong khi đó, cầu của người tiêu dùng lại ngả về phía giá dịch vụ vì nhữmg loại giá này tăng nhanh hơn giá hàng hoá. Mặc dù có nhược điểm như vậy, chỉ số giá tiêu dùng vẫn được sử dụng rộng rãi hơn cả. Vì họ thấy ở đấy trị số giá sinh hoạt, về phía các nghiệp đoàn thường dựa vào đó trong các yêu sách về tiền lương của họ. Chỉ số này thường có giá trị kỹ thuật cao hơn các chỉ số giá khác và được xây dựng, công bố thường xuyên, đều đặn.
+ Ngoài chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số thứ hai thường được sử dụng là chỉ số giá bán buôn_giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index). PPI phản ánh sự biến động của giá cả đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Nó được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế. Song PPI lại quá chuyên môn, chỉ liên quan tới nguyên liệu và các bán thành phẩm mà loại trừ sản phẩm hoàn chỉnh, dịch vụ. Do đó nó không thể biểu thị cho sức mua, không phân biệt loại hàng của đồng tiền.
+Bên cạnh đó, chỉ số giảm phát GNP cũng được sử dụng trong đo lường lạm phát. Chỉ số này toàn diện hơn CPI vì nó bao gồm giá của tất cả các loại hàng hoá dịch vụ trong GNP.
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa/GDP thực tế
- Triệu chứng của lạm phát không chỉ nằm trong lĩnh vự giá cả. Trong nhiều trường hợp, tỷ suất tiền lương được nâng lên so với mức tăng trưởng trung bình của năng suất cũng có đặc điểm như giá cả lên cao. Vì các chi phí về nhân công lên cao là báo hiệu chắc chắn của xu hướng lạm phát sắp tới.
Một trong những khó khăn về kỹ thuật của việc đo lường hiện tượng lạm phát là sự lựa chọn điểm xuất phát dùnglàm căn cứ. Vào thời điểm được chọn lại chẳng có gì chứng tỏ là giá cả đã được cân đối. Nhất là với sự tác động của thuế hoặc các chính sách khác về kiểm soát giá cả, làm cho việc lựa chọn những năm gốc thành bấp bênh. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hoá như hiện nay, chỉ số giá tiêu dùng khác nhau từ nước này sang nước kia, còn chỉ số giá sản xuất chỉ mang tính bộ phận và đầu cơ. Do vậy, cái chuẩn tốt nhất có lẽ là chỉ số giá các sản phẩm công nghiệp thường được dùng làm hàng trao đổi rộng rãi giữa các quốc gia. Bởi nó biểu thị rõ những biến động của chi phí sản xuất cũng như những biến động trong sức mua của người tiêu dùng.
Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến động của nó phản ánh xu hướng và quy mô của lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát được tính theo công thức:
Trong đó:
gp : tỷ lệ lạm phát(%)
Ip : chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên c0ứu
Ip-1: chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.
Khi lạm phát xảy ra thì đồng nghĩa với việc tăng lên của chỉ số giá cả, nên mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua khối lượng hàng hoá cần thiết đã dự định. Như vậy thực chất của mức cầu tiền là cầu về cán cân tiền tệ thực tế.
Nhưng trong thực tế thì lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh hơn cả do vậy tỉ lệ lạm phát cũng được tính bằng mức tăng lượng cung tiền danh nghĩa trừ đi mức tăng nhu cầu tiền thực tế.
Theo lý thuyết định lượng đơn giản nói rằng: Do thu nhập thực tế và lãi suất thường chỉ thay đổi nhỏ một vài phần trăm mỗi năm nên nhu cầu tiền thực tế thường cũng chỉ thay đổi một cách chậm chạp. Khi lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó kéo theo sự tăng nhanh của giá cả để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ. Lập luận cơ bản của lý thuyết định lượng về tiền tệ là ở chỗ các biến số thực tế thường thay đổi một cách chậm chạp do đó những thay đổi rất lớn trong một biến danh nghĩa (lượng tiền danh nghĩa) phải kéo theo những thay đổi rất lớn trong các đại lượng danh nghĩa khác (giá cả và tiền lương) để duy trì lượng cung tiền thực tế tại những giá trị cân bằng của chúng.
1. 1. 3 Phân loại lạm phát
Có rất nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức sẽ cho một hướng nhìn riêng về lạm phát. Người ta phân biệt lạm phát lan dần biểu hiện ở sự tăng giá cả liên tục, thường xuyên và lạm phát lan nhanh trong đó giá cả tăng lên vùn vụt và nhảy vọt. Tùy theo quá trình lạm phát bao trùm khu vực này hay khu vực khác mà lạm phát được chia thành lạm phát thế giới bao trùm một nhóm nước và lạm phát cục bộ chỉ phát triển trong phạm vi một nước.
- Phổ biến là phân loại lạm phát về mặt định lượng. Tuỳ theo mức độ của tỉ lệ % lạm phát tính theo năm mà người ta chia lạm phát thành ba loại sau:lạm phát vừa phải(một con số mỗi năm), lạm phát phi mã (hai con số mỗi năm) và siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải.
Lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng lên chậm ở mức một con số hay ở mức dưới 10%/năm. Hiện ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa đang có lạm phát vừa phải. Trong điều kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương hoặc cao hơn một chút. Do vậy đồng tiền không bị mất giá hoặc mất giá không lớn. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế. Lạm phát vừa phải chính là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được.
Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số trong một năm. Mức lạm phát 2 chữ số thấp (11, 12, 13%/năm) nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 con số cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập. Lạm phát sẽ gây ra những biến dạng kinh tế, gây mất ổn định XH nghiêm trọng. Khi các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số giá hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó, nếu lạm phát xảy ra với sự tăng lên rất nhanh của chỉ số giá cả làm cho đồng tiền mất giá so với các chỉ số giá hoặc đồng ngoại tệ đó sẽ làm cho các chủ doanh nghiệp, các chủ hợp đồng. . . có thể ²phất² lên và trái lại cũng có các chủ doanh nghiệp, các ngành nghề suy sụp thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
Siêu lạm phát
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, ở mức 3 con số. Siêu lạm phát thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lưu thông tiền tệ, lưu thông hàng hoá gặp nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế suy sụp trì trệ không thể phát triển được. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh siêu lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới: giá cả tăng từ một đến mười triệu lần; ở Việt Nam điển hình của siêu lạm phát là thời kỳ 1986-1988 (nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp) lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao.
Nếu được phép nói ẩn dụ thì có một động vật học trong lạm phát. Nếu phát triển nhẹ nhàng thì như loài bò sát, nếu tiến mạnh hơn thì như loài ngựa, lạm phát có thể chỉ bò đi hoặc trở thành phi mã. Trong cái vườn thú ấy còn phải dành chỗ cho loài dê có những bước nhảy bất thường.
- Bên cạnh đó, người ta cũng tiến hành phân loại lạm phát xét về mặt định tính.
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
+ Lạm phát cân bằng: khi mà tỷ lệ lạm phát tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
+ Lạm phát không cân bằng: khi mà tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường xảy ra nhất.
Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
+ Lạm phát dự đoán trước: đó là lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vây, người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này.
+ Lạm phát bất thường: là lạm phát xảy ra co tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
1. 2 Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.2.1. Lạm phát do tiền tệ
1.2.1.1. Lý thuyết về lượng của tiền tệ
- Hình thức hoá thông thường nhất của lý thuyết đó là công thức Irving Fisher: M. V=P. T
Trong đó M là khối lượng tiền tệ lưu thông
V là tốc độ lưu thông của tiền tệ
P là mặt bằng chung của giá cả
T là khối lượng giao dịch phải bảo đảm
ý nghĩa của công thức đó là mọi sự tăng tiền tệ cao hơn tăng sản xuất thực tế đều được thể hiện (đối với một tốc độ lưu thông không đổi của tiền tệ) ra bằng sự hiệu chỉnh giá cả chung, sao cho giá trị tổng thể của trao đổi bằng giá trị của khối lượng tiền tệ mới đang lưu thông. Trong thời han ngắn hoặc trong trường hợp bộ máy sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tăng lên, biến động của giá cả sẽ tỷ lệ thuận với biến động của khối lượng tiền tệ.
- Một cách diễn đạt mới của quan hệ về lượng được gọi là Phương trình Cambridge _ gắn với các công trình của Marshall: M = k. P. Y
Trong đó M là khối lương tiền tệ lưu thông
Y là thu nhập thực tế của quốc gia
P là mặt bằng chung của giá cả
k là hệ số biểu thị tỉ số giữa khối lượng tiền tệ và thu nhập phụ thuộc vào nhiều yếu tố không đơn thuần là một hệ số kỹ thuật.
Sự tiếp cận này là lý thuyết về lượng với ý nghĩa độ lớn của khối lượng tiền tệ quyết định giá trị của thu nhập quốc gia, nhưng nếu nó tìm cách đưa tiền tệ vào nền kinh tế thì lại bỏ qua các quan hệ giữa cung và cầu của tiền tệ .
1.2.1.2. Cung ứng tiền tệ và lạm phát
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, sự tiếp cận của các nhà tiền tệ học bước vào thời kỳ mới, đặc biệt với công trình của Friedman. Ông đã định rõ nhu cầu tiền tệ nhờ hàm Md/P = f(y, w, RM, RB, RE, Gp, u). Trong đó
Md biểu thị nhu cầu tiền tệ
P là mặt bằng giá
y là thu nhập dự kiến tính bằng bình quân thu nhập hiện tại và quá khứ đã chỉnh lý
w là tỷ lệ giữa thu nhập từ thiết bị và con người
RM, RB, RE là hiệu suất danh nghĩa dự kiến của tiền tệ, trái phiếu và cổ phần.
Gp là tỷ lệ lạm phát dự kiến
u là biến lượng biểu thị tất cả những yếu tố khác có thể giải thích những nhu cầu cá nhân và tiền tệ
Theo ông nhịp điệu tăng trưởng của tiền tệ phải cùng nhịp điệu tăng trưởng của nền sản xuất đích thực duy trì trong một thời gian dài và bảo đảm một nền kinh tế không lạm phát. Nếu làm khác đi, nghĩa là nếu phát hành tiền quá nhiều, những người muốn gửi tiền mặt tồn quỹ xác định bằng sức mua của nó(tiền mặt tồn quỹ thực tế là M/P) và hàm của các biến thành phần ổn định sẽ biến một phần tièn mặt tồn quỹ đó thành nhu cầu của cải để giữ nguyên cấu trúc tài sản của họ. Hiệu ứng tiền mặt tồn quỹ thực tế sẽ gây nên một nhu cầu quá mức, kéo giá cả tăng lên.
Cung ứng tiền tệ và lạm phát tiền tệ
Chúng ta xem xét kết quả của việc cung tiền tệ tăng lên kéo dài ở đồ thị 1. Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng đạt mức sản lượng tự nhiên Yn, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P1 (điểm giao nhau của đường tổng cung AS1 và đường tổng cầu AD1). Khi cung tiền tệ tăng lên đều đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế sẽ chuyển động đến điểm 1’ và sản phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên, tức là đạt tới Y1(Y1>Yn). Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiê, tiền lương tăng lên và làm giảm tổng cung-đường tổng cung dịch chuyển vào đến AS2. Tại đây, nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn. Điểm cân bằng mới 2, mức giá đã tăng từ P1 lên P2. Cung tiền tệ tiếp tục tăng lên, đường tổng cầu lại dịch chuyển ra đến AD3, đường tổng cung tiếp tục dịch chuyển vào AS3, nền kinh tế đạt mức cân bằng mới là điểm 3. Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển của đường tổng cầu và tổng cung như trên lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn. Khi mà cung tiền tệ còn tăng thì quá trình này sẽ tiếp tụcvà lạm phát sẽ xảy ra. .
Trong cách phân tích này của phái tiền tệ, cung tiền tệ được coi là nguyên nhân duy nhất làm di chuyển đường tổng cầu, do vậy không co cái gì nữa có thể làm nền kinh tế chuyển từ điểm 1 sang 2 và 3 và xa hơn. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ( trong đó có Friedman) , khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát.
Theo phân tích của phái Keynes thì ngoài cung tiền tệ còn có những nhân tố khác ảnh hưởng đến đường tổng cầu và tổng cung(như là các chính sách tài chính và các cú sốc cung tiền tệ). Tăng chi tiêu chính phủ hoặc cắt giảm thuế cũng làm tăng tổng cầu do đó đẩy giá lên cao. Nhưng những vấn đề của chính sách tài khoá lại có giới hạn của nó, chính phủ không có thể chi hơn 100% GNP. Vì vây, việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ là tạm thời. Phân tích khác là về tác động của những cú sốc tiêu cực lên tổng cung(như việc tăng giá dầu do hậụ quả của lệnh cấm vận dầu mỏ, đấu tranh của công nhân đòi tăng lương) cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Song nếu cung tiền tệ không tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở lại vị trí ban đầu. Do vậy, tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng nhất thời mà thôi.
Rõ ràng là quan điểm của phái Keynes và phái tiền tệ tương đối thống nhất nhau. Họ đều tin rằng lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao.
1.2.2. Lạm phát do nhu cầu
1.2.2.1. Tiền tệ và nhu cầu quá mức
Quan hệ tiền tệ và nhu cầu quá mức đặc biệt chặt chẽ khi thừa nhận định luật Say cổ xưa. Theo định luật này, sự cung cấp sản phẩm tạo ra nhu cầu chính nó, nghĩa là nhu cầu tổng thể được tạo nên bởi toàn bộ thu nhập được phân phối vào dịp sản xuất. Nhu cầu quá mức chỉ có thể có do sự tăng không kiểm soát được các phương tiện chi trả trong tay những người có nhu cầu.
Tính đặc thù của quan điểm giải thích lạm phát do nhu cầu, so với quan điểm của phái tiền tệ là ở chỗ việc phát hành tiền tệ chỉ dẫn đến lạm phát trong trường hợp bộ máy sản xuất không thể đáp ứng mức tăng của nhu cầu. Thế là hiệu chỉnh cung-cầu được thực hiện bằng giá cả thay cho số lượng. Lạm phát xảy ra khi khi nhu cầu quá mức lại nảy sinh và không có yếu tố nào(năng lực sản xuất vật chất tăng, tuyển thợ mới, thêm nguyên liệu mới) can thiệp vào để làm tăng mức cung ứng tổng thể đủ để thoả mãn nhu cầu.
1.2.2.2. Lạm phát cầu kéo
Trong chính sách kinh tế vĩ mô, Chính phủ vì muốn đạt được mục đích của mình(công ăn việc làm cao) nên phải áp dụng một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao và xảy ra lạm phát. Chính các nhà hoạch định theo đuổi các chính sách làm đường tổng cầu di chuyển ra dẫn đến lạm phát cầu kéo.
Ngay cả khi công ăn việc làm đầy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột trên thị trường. Vì vậy tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm ổn định-tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ lớn hơn không. Sự ấn định tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tự nhiên dẫn tới diễn biến như thế nào?Chúng ta sẽ chỉ ra điều đó thông qua phân tích đồ thị tổng cung tổng cầu sau đây
Lạm phát cầu kéo
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với mức sản phẩm tiềm năng Yn. Các nhà hoạch định chính sách đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản phẩm lơn hơn mức sản lượng tiềm năng, mức chỉ tiêu cần đạt dó là Yt (Yt > Yn). Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu và làm tăng tổng cầu, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD2, nền kinh tế dịch chuyển đến điểm 1’. Đó là giao điểm giữa đường tổng cầu mới AD2 và đường tổng cung ban đầu AS1. Sản lượng bây giờ đã đạt tới mức Yt, mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được. Cũng chính vì vậy tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang điểm 2’. Nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1.
Đến lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu mà các nhà hoạch định cần đạt được. Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng đường tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn. Nhưng vì giới hạn của những chính sách tài chính(giới hạn trong tăng chi tiêu chính phủ và giảm thuế) nên họ phải áp dụng chính sách tiền tệ bành trướng, nghĩa là liên tục tăng cung tiền tệ và dẫn tới một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Họ không thu được điều tốt của một mức sản phẩm thường xuyên cao mà lại gây nên điều xấu là một cuộc lạm phát. Lạm phát cầu-kéo cũng là một hiện tượng tiền tệ.
1.2.3. Lạm phát do chi phí
1.2.3.1. Quan điểm về lạm phát do chi phí
Theo ý kiến lạm phát do nguyên nhân chi phí sản xuất, lạm phát phát sinh từ chỗ tăng tiền chi cho các yếu tố sản xuất cao hơn khả năng sản xuất của chúng. Sự tăng đó đã kích động các chủ doanh nghiệp tăng giá sản phẩm của họ(hàng hoá hoặc dịch vụ) bán cho các doanh nghiệp, gia đình. Những người này lại có xu hướng tăng giá của họ hoặc yêu cầu tăng tiền lương. Cứ thế từ thời kỳ này qua thời kỳ khác, quá trình lạm phát được hình thành và duy trì. Vậy, nguồn gốc của lạm phát là ở trong quá trình hình thành chi phí và cung cấp.
1.2.3.2. Lạm phát phí đẩy
Tương tự như lạm phát cầu kéo, cũng từ chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao, lạm phát phí đẩy xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoăc do công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên.
Lạm phát phí đẩy
Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1, với mức sản lượng tự nhiên Y’ và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương. Vì tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được chấp nhận. ảnh hưởng của việc tăng lương( cũng giống như ảnh hưởng của những cú sốc cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2. Nền kinh tế sẽ xhuyển từ điểm 1 đến 1’- giao điểm của đường tổng cung AS2 và đường tổng cầu AD1. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y’ ( Y’ < Yn ) và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đồng thời mức giá cả tăng lên đến P1’. Vì mục đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại, Chính phủ sẽ thực hiện các chính điều chỉnh năng động nhằm tác động lên tổng cầu, làm tăng tổng cầu, lúc này đường tổng cầu AD1 dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân bằng mới-điểm 2, mức giá cả tăng lên đến P2.
Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi tăng lương lên cao hơn. Đồng thời, những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự chênh lệch mức lương trong tầng lớp công nhân. Tình trạng đòi tăng lương lại tiếp tục diễn ra, kết quả là đường tổng cung lại di chuyển vào AS3, thất nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên. Chính phủ phải tiếp tục thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động( chính sách điều hoà) làm dịch chuyển đường tổng caàu ra AD3 để đưa nnền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu qua trình này cứ tiếp tục được tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả. Đây chính là tình trạng lạm phát phí đẩy.
Theo cách phân tích của phái Keynes , sự di chuyển đầu tiên của đường tổng cầu đến AD2 chắc chắn có thể đạt được bằng sự tăng lên “ một đợt “ của chi tiêu chính phủ hoặc giảm xuông “ một đợt “ của thuế. Song vì giới hạn của chi tiêu và giảm thuế, chính sách này gây ra những tác động làm tăng tổng cầu trong thời gian ngắn. Việc di chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền tệ liên tục. Nên lạm phát phí đẩy cũng là một hiện tượng tiền tệ vì nó không có thể xảy ra mà không có chính sách điều hoà, được các nhà chức trách tiền tệ đồng ý một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn.
1.2.4. Lạm phát do một số nguyên nhân khác
1.2.4.1. Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Khi ngân sách của 1 quốc gia thâm hụt, để bù đắp sự thâm hụt này Nhà nước phát hành tiền hoặc phát hành trái phiếu chính phủ.
Với các nước đang phát triển, thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là rất khó thực hiện. Chủ yếu là trang trải bằng cách in tiền, làm tăng trực tiếp cơ số tiền tệ do đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát. Khi thâm hụt còn dai dẳng quá trình này sẽ tiếp tục và đưa đến lạm phát kéo dài. Nếu thêm hụt tạm thời thì không gây nên lạm phát do chỉ diễn ra “ một đợt “, chỉ gây nên sự tăng lên một đợt trong mức giá cả, lạm phát không mở rộng.
Với các nước có nền kinh tế phát triển giải pháp bù đắp thâm hụt ngân sách thường là phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường tài chính để vay vốn trong dân chúng. Một khối lượng lượng lớn trái phiếu chính phủ có thể được bán ra, nguồn vốn vay này sẽ bù vào phần thâm hụt. Tuy nhiên, nếu chính phủ cứ tiếp tục phát hàng trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng do đó lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường, Ngan hàng TƯ sẽ phải mua vào các trái phiếu đó, điều này lại làm cho cung tièn tệ tăng.
Như vậy, trong mọi trường hợp tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước nếu cao va kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền tệ gây lạm phát.
1.2.4.2. Tỷ giá hối đoái và lạm phát
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá. Trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái. Đồng thời, tỷ giá tăng cũng khiến giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí về phía nguyên liệu tăng lênm lại quay về lạm phát phí đẩy. Việc tăng giá cả hàng hoá nhập khẩu và nguyên liệu thường gây ra phản ứng dây chuyền. Nó làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hoá khác, đặc biệ là hàng hoá ở những ngành sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau( như nguyên liệu ngành này là sản phẩm ngành kia)
Vậy, nguyên nhân cảu lạm phát rất đa dạng và được hiểu theo nhiều cách nhìn khác nhau. Lạm phát xuất phát từ những nguyên nhân như: nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm hụt ; bội chi ngân sách cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức ; hệ thống chính trị bị khủng hoảng làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ bị xói mòn, sức mua và uy tín của đồng tiền bị giảm sút ; nguyên nhân chủ quan là việc nhà nước chủ động sử dụng lạm phát như là một công cụ để thực thi chính sách kinh tế của mình. . . Lạm phát vừa là một phạm trù kinh tế khách quan, vừa là một công cụ kinh tế. Rõ ràng là lạm phát mang bản chất kinh tế xã hội sâu sắc chứ không phải là một hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Lạm phát không phải lúc nào cũng là một tai hoạ, đối với mọi người , đối với mọi quan điểm. Nó cũng có những tác động tích cực tới nền kinh tế. Nó kích khích việc sử dụng nhân công hoặc ít ra cũng trùng với việc ấy, lạm phát kéo theo sự tăng trưởng của các năng lực sản xuất. Lạm phát có tác dụng đòn bẩy với khả năng sinh lợi tài chính. Hiển nhiên, vì nó giảm bớt trọng lượng công nợ nên càng thúc đẩy các doanh nghiệp tìm vốn đầu tư bên ngoài khi tỷ lệ lợi nhuận trong nước cao hơn lãi suất vốn đi vay, vì một tình trạng như vậy nâng cao doanh lợi của tài sản tự có của họ.
Song cái bề mặt sáng sủa chỉ là giả tạo. Ngoại trừ lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải còn có tác động tích cực tới nền kinh tế, nói chung lạm phát gây ra nhiều cái bất lợi nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế xã hội.
2.1. Lạm phát tác động tới lãi suất
Lạm phát tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia. Đáng kể đầu tiên là tác động lên lãi suất. Với hệ thống ngân hàng, để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, nó luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có. Nghĩa là luôn luôn cần giữ cho lãi suất thực ổn định.
Ta biết rằng Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn giữ cho lãi suất thực ổn định, không còn cách nào khác là lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Trong một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường vấn đề lãi suất là cực kỳ quan trọng và có tác đông mạnh mẽ. Tăng lãi suất danh nghĩa dẫn tới hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
2.2. Lạm phát và thu nhập
2.2.1. Lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập thực tế
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động
Ví dụ như với 600000 đồng tiền lương/ tháng, một công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo giá 3000đồng/kg. Vào năm sau nếu tiền lương của người công nhân này không dổi, nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng thêm 50% so với năm trước. Tức là giá gạo tăng lên thành 4500đồng/kg, với số tiền lương nhận được trong 1 tháng, người công nhan này chỉ mau được 133, 3 kg gạo.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi ( tức tiền mặt ) mà còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi. Tức là giảm thu nhập thực tế từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao, mặc dù thuế suất vẫn không tăng. Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), thu nhập thực(sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát) mà người cho vay nhận được giảm đi. Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Từ đó, những hậu quả về chính trị xã hội có thể xảy ra.
2.2.2. Lạm phát khiến phân phối thu nhập không bình đẳng
Nhìn một cách xác thực thì khi lạm phát xảy ra thì người bị thiệt hại là người làm công ăn lương, những người cho vay là bị thiệt hại, còn những người có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi. Điều này tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay, giữa công nhân và nhà tư bản. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy, càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao. Để tránh thiệt hại đáng tiếc xảy ra thì chúng ta phải làm như thế nào, điều đó đã được một số nhà kinh tế đưa ra bài toán lãi suất cần phải được điều chỉnh sao cho phù hợp với đúng tỉ lệ lạm phát.
Một cách tổng quan hơn là khi có dự đoán về lạm phát thì người làm ăn kinh tế ngầm dự trữ vàng, đầutư vào bất động sản và ngồi chờ lạm phát xảy ra và nhờ bất động sản đã giàu lên nhanh chóng. . Và ngược lại khi giá vàng bị đẩy lùi trở lại thì những kẻ dự trữ vàng vẫn không bị thiệt hại gìTrong trường hợp lạm phát tăng cao, người thừa tiền và giàu có vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản. Khi ấy, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao hơn. Còn những người làm công ăn lương đã nghèo nay càng nghèo hơn. Họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá thiết yếu trong khi những kẻ đầu cơ ngày càng giàu có hơn. tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, mức sống giữa người nghèo và người giàu.
2.3. Tác động của lạm phát đối với công ăn việc làm và ngân sách nhà nước
Khi có lạm phát xảy ra nói chung nó có tác động làm tăng trưởng nền kinh tế và tạo ra công ăn việc làm, đó là đối với nền kinh tế thi trường, còn đối với nền kinh tế bao cấp thì sao? Đó sẽ là điều hoàn toàn ngược lại, vì việc sản xuất nhiều hay ít đều do Nhà nước quy định quy định, chỉ tiêu gía cả được Nhà nước ấn định, nên sự thúc đẩy của lạm phát với gia tăng sản xuất là không có. Nhìn chung ở giai đoạn hiện nay mọi người đều có chỗ làm cả nhưng không đủ việc để làm. Đây là một dạng thất nghiệp trá hình.
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát đồng nghĩa với cung tín dụng lớn lên quá nhanh chóng, nó tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh để đầu tư thêm, công ăn việc làm cũng được tạo ra. Nhưng khi lạm phát giảm thì lao động và vốn bị bỏ không, không sử dụng hết năng lực của nền kinh tế. Lúc này các món nợ của ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ dàng thu lại được, nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ không bị thiệt hại gì cả mà chỉ có người gửi tiền mới bị thệt hại. Nhưng nếu ngân hàng là của Nhà nước chủ yếu hoạt động bằng vốn ngân sách thì thật là một nguy cơ khi có lạm phát, vốn được cấp sẽ bị hao mòn dần, càng bổ sung thêm vốn thì tốc độ lạm phát càng tăng lên nhanh. Tất nhiên lạm phát tăng lên thì có khuynh hướng tăng tiền lương và chi phí sản xuất. Những khoản chi tiêu công( tiền công, tiền lương) thường tăng nhiều và nhanh hơn những khoản thu nhập về thuế. Sự mất cân đối tự phát ấy của ngân sách nhà nước làm tăng sự phồng lên của tiền tệ do những đợt "bơm" tiền mặt kho bạc thực hiện. Trong điều kiện bao cấp do kinh tế phát triển không phù hợp với mức tăng của lạm phát nên tài sản quốc gia sẽ bị mất mát đáng kể và đến khi Nhà nước sử dụng các biện pháp để đẩy lùi lạm phát thì lập tức nhiều món tiền cho vay của Nhà nước khó được hoàn trả (nợ khó đòi tăng lên).
Tất nhiên, nhà nước cũng thấy, qua tính toán thực là số tiền để trả nợ trong nước có nhỏ dần đi. Nhưng tầm quan trọng của sự giảm nhẹ này tuỳ thuộc vào sô tiền nợ so với các khoản thu vào ngân sách. Và lạm phát càng kéo dài thì số nợ này càng bị cán mỏng thêm.
Vậy, lạm phát chỉ lúc đầu mang lại thu nhập cho ngân sách qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân. Sau đó do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của ngân sách (chủ yếu là thuế) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, nhiều cty giải thể. . . trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Tóm lại: hậu quả mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế là rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của một nước. Lạm phát làm cho việc phân phối lại thu nhập và sản phẩm xã hội trong nền kinh tế qua giá cả đã khiến quá trình phân hoá giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho một nhóm này thu được lợi lộc còn nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng suy cho đến cùng gánh nặng lạm phát lại đè lên vai người lao động. Chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát.
Chương 3 Các giải pháp khắc phục lạm phát
Khi lạm phát đã xảy ra nặng nề và nghiêm trọng thì các Chính phủ của các nước phải tìm cách để chống lại lạm phát nhằm khôi phục lại sức mua của đồng tiền. Nói như vậy có nghĩa là việc thực hiện các biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ trở thành một trong những chính sách lớn trong phát triển kinh tế của các nước.
ổn định tiền tệ nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng là việc Nhà nước áp dụng các biện pháp về kinh tế và tổ chức và kỹ thuật để ổn định sức mua của đồng tiền tạo điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. ổn định tiền tệ ngay nay là ổn định sức mua của tiền giấy trên cơ sở ngăn chặn sự leo thang của giá cả hàng hoá (kể cả vàng) bằng cách giải quyết các vế của mối quan hệ giữa tiền (T) và hàng (H). Nhưng dù có áp dụng biện pháp gì đi nữa thì các mục tiêu cơ bản vẫn phải đạt được, nếu không thì chính sách tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ không còn đầy đủ ý nghĩa của nó. Những mục tiêu đó là ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm... Như vậy việc áp dụng các biện pháp đó có thể bao gồm các biện pháp có tính chất chiến lược cùng các biện pháp cấp bách trước mắt.
3.1. Những biện pháp cấp bách trước mắt
Biện pháp cấp bách trước mắt để ổn định tiền tệ và chống đỡ lạm phát được thực hiện trong hoàn cảnh lạm phát xảy ra nghiêm trọng, cơn sốt lạm phát cao thì sẽ có tác dụng nhanh chóng hơn. Những biện pháp như vậy được gọi là biện pháp tình thế để đối phó với thực trạng báo động của tình hình tiền tệ giá cả.
3.1.1. Chính sách tiền tệ
Sức đẩy của lạm phát khiến người ta lại quan tâm tới chủ nghĩa tiền tệ. Biện pháp bắt nguồn từ quan điểm cho rằng lạm phát bao giờ cũng là hiện tượng của tiền tệ, nên biện pháp ổn định tiền tệ và chống lạm phát phải bắt đầu từ lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Do đó nó dựa trên sự thông báo và sự tuân thủ của chính quyền về ba phương hướng:
- Giữ ở một giới hạn việc tăng thêm các khối tiền; cho dù sau này lãi suất có biến động ra sao, thì nhà chức trách tiền tệ cũng không chùn tay.
- Cố duy trì sự cân đối của ngân sách quốc gia; đó là điều kiện để giữ được thế trung lập của nó.
- Thả cho tỉ lệ hối đoái tự do trôi nổi "theo đúng nghĩa" để nó tự tìm được mức cân đối.
Các phương tiện kìm hãm trên là toàn bộ các biện pháp mà các nhà chức trách tiền tệ hy vọng điều tiết được việc phát hành tiền và chủ yếu là tín dụng, thành phần chính của nó.
Những hoạt động thực thi nhiều nhất là:
- Quản lý chặt chẽ việc cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng bằng tiền tệ.
- Quản lý hạn chế thật mạnh khả năng "Tạo tiền" của ngân hàng thương mại bằng cách tăng tỷlệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng...
- Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế - xã hội, nhờ đó làm giảm lượng tiền cung ứng, mặt khác nâng cao lãi suất tín dụng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
- Trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, phát hành tiền mới thu đổi tiền cũ để lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ.
Cái lợi của các biện pháp tiền tệ là công việc được thực thi nhanh chóng. Nhà cầm quyền dễ dàng thay đổi luôn và không có thời hạn tỉ suất chiết khấu hoặc những quy tắc về khả năng thanh toán của các ngân hàng. Nhưng kinh nghiệm đã chứng minh là chính sách tiền tệ cũng đụng phải những trở lực to lớn.
3.1.2. Chính sách ngân sách
áp dụng biện pháp về tài chính ngân sách có ý nghĩa quan trọng và then chốt, bởi vì người ta đều đồng ý rằng sự khủng hoảng của hệ thống tài chính Nhà nước, ngân sách bị thâm hụt là nguyên nhân chính của lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát sẽ được kiểm soát. Chính sách ngân sách là vận dụng các khoản thu cũng như các khoản chi để nén bớt mặt cầu lại, nhưng cũng phải làm sao để mặt cung không bị sa sút. Nhưng do các khoản chi công thường phần nhiều không thể nén lại được, vì vậy chỉ còn cách tăng thuế. Theo cách gọi chung là chính sách "thuế", chúng ta có thể phải chú ý tới ba vấn đề.
Một là, trong khi thực thi, rất khó "dân chủ". Nếu cần phải hạn chế tiêu dùng, thì không phải chỉ hạn chế những tiêu dùng loại sang mà cũng phải hạn chế cả những tiêu dùng của đông đảo quần chúng. Theo cách đó thì một loại thuế có hiệu suất cao là thuế giá trị gia tăng, thu nhanh, thường là một tháng sau khi bán được hàng. Đó là một biện pháp có hiệu lực mạnh để làm cho chi dùng ăn khớp với số thuế phải nộp.
Vấn đề thứ hai là dựa vào loại thuế nào. Mỗi thứ thuế có hiệu quả khác nhau; muốn phù hợp với mục tiêu đã đề ra thì chúng phải đánh mạnh vào sức tiêu dùng và ít làm suy yếu tiết kiệm; phải làm giá cả ít tăng lên và phải cắt được chính xác hơn phần thu nhập sẽ được đem ra chi dùng.
Thứ ba là sự điều chỉnh hoặc làm cho cập nhật các khoản của bảng thuế biểu sao cho thích ứng với lạm phát.
Cụ thể, trước hết phải tìm cách để giảm dần bội chi tiến tới thăng bằng thu chi ngân sách bằng cách tiết kiệm chi nhất là những khoản chi cho bộ máy quản lý hành chính, những khoản chi chưa thật cấp thiết cũng cần phải cắt bỏ hoặc giảm thiểu để làm giảm sự căng thẳng của ngân sách.
Tăng cường bồi dưỡng và mở rộng các khoản thu từ nền kinh tế, chống thất thu thuế, đồng thời phải thực hiện thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống.
Sử dụng tín dụng Nhà nước bằng cách vay nợ trong nước và vay nước ngoài.
ở trong nước thực hiện phát hành trái khoán Nhà nước ngắn hạn, trung và dài hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ... Tăng cường các khoản vay nợ và viện trợ từ bên ngoài với các điều kiện ưu đãi...
3.1.3. Kiểm soát giá cả
Trước hết người ta có thể quy định giá, tức là quy định một mức "tối đa". Thường thường đi kèm với việc quy định khẩu phần nhằm hỗ trợ thêm cho việc quy định giá bằng việc kiểm soát các số lượng hàng hoá đem ra bán. Quy định chỉ nên áp dụng vào lúc cần vượt qua những khó khăn tạm thời và để "giữ" giá khi có đủ dữ kiện để tin là sẽ không còn các tác nhân gây ra sự tăng giá nữa; nhưng thế thì lại không phải là trường hợp khi có một nạn lạm phát thật sự.
Chính sách giá cả còn bù giá cho những sản phẩm mà người ta muốn giữ giá, vì lý do "xã hội" hay lý do "chiến lược" khi người ta so sự tăng giá của một số giá được coi là mẫn cảm, sẽ kéo giá chung lên. Tuy nhiên, không phải biện pháp này không có nhược điểm. Những khoản trợ cấp bù giá sẽ làm bung ra một sức mua tăng thêm và tuỳ theo mức co giãn của mặt cầu mà ngả sang, hoặc là những hàng được trợ giá mà số lượng cầu ngày một tăng, hoặc là sang những loại hàng không được trợ cấp, và thế là lại làm cho giá tăng cao.
Sự leo thang của giá cả do tác động bởi nhiều yếu tố như sản xuất sút kém, cung cầu mất cân đối làm giá cả hàng hoá bị đẩy lên cao, cũng có thể đo lượng tiền cung ứng cao hơn tốc độ tăng của sản xuất, ngoài ra còn do các yếu tố đầu cơ, tâm lý...
Việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự leo thang của giá cả trước hết cần phải giải quyết ở khâu lưu thông phân phối như thực hiện mậu dịch tự do, nới lỏng hàng rào thuế quan để đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Có thể can thiệp bằng vàng và ngoại tệ bằng cách bán ra để ổn định giá vàng, ngoại tệ để từ đó tạo tâm lý ổn định giá cả các mặt hàng khác. Mặt khác, quản lý thị trường tốt, chống đầu cơ buôn lậu, chống độc quyền, tranh mua tranh bán...
3.1.4. Chính sách về thu nhập
Những chính sách về giá cả cũng là những phác hoạ cho những chính sách thu nhập. Các chính sách này bắt nguồn từ nhận định là những biện pháp ngân sách hoặc tiền tệ là có phần nào kém hiệu lực hoặc có tiềm ẩn nguy cơ thất nghiệp; và cũng là phỏng theo nguyên tắc phải làm sao đạt được một sự nâng lên của những luồng hiện vật đối chiếu với những luồng tiền tệ. Chính sách thu nhập phải được đặt ra từ giai đoạn cấu thành thu nhập, khác với các chính sách thuế hay chính sách tiền tệ có mục đích hút bớt số dư thừa đã hình thành. Chính sách thu nhập nhằm tiết chế lạm phát mà không làm suy giảm sản xuất và công ăn việc làm. Vì vậy người ta khuyên nên dùng khi xẩy ra lạm phát "do phí". Nhưng có hai vấn đề phải xem xét.
- Một là, một chính sách về thu nhập phải được áp dụng cho tất cả mọi khoản thu nhập.
- Mặt khác, liên quan đến tiền lương và tiền công tạo thành cái phần chủ yếu của thu nhập và là nguồn gốc chính cho mặt cầu cuối cùng, thì phải làm sao có thể tác động không chỉ đến những tỷ suất được tăng mà còn phải nắm được những số tiền cụ thể mà người chủ đã trả.
Tóm lại: Các chính sách này được kết hợp theo cách nào? Liệu có thể tóm tắt cách sắp xếp? Tất nhiên không có duy nhất một phương thuốc nào là kỳ diệu. Lạm phát đòi hỏi phải có cách điều trị đa phương có liên quan đến nhiều khía cạnh của hoạt động kinh tế. Hơn nữa, các biện pháp và liều lượng phải tuỳ thuộc vào nước muốn vận dụng. Cần phải vận dụng đồng bộ các việc điều chỉnh tiền tệ, hoạt động của ngân sách và chính sách thu nhập vào quá trình khắc phục lạm phát.
3.2. Những biện pháp cơ bản chiến lược
Biện pháp cơ bản chiến lược nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh về tiềm lực kinh tế của đất nước, một quốc gia có nền kinh tế phát triển tốt và ổn định thì ở đó đồng tiền được ổn định khá vững chắc. Lạm phát ít có cơ hội để phát triển bộc phát. Những biện pháp cơ bản chiến lược chưa thể phát huy tác dụng ngay. Nhưng nếu không áp dụng những biện pháp đó thì tình trạng lạm phát, tình trạng rối loạn của lưu thông tiền tệ sẽ xảy ra triền miên không có lối thoát.
- Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển nhiều ngành mũi nhọn xuất khẩu. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm đáp ứng được các nhu cầu cơ bản về đời sống và việc làm của nhân dân lao động, do đó tuỳ hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có một chiến lược điều chỉnh cơ cấu kinh tế khác nhau. Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển mạnh và chắc chắn. Cần phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn xuất khẩu bởi vì trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế thì hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng có vị trí quan trọng nó vừa tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, đó cũng là cơ sở để ổn định lưu thông tiền tệ trong nước.
Có thể nói đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước ngày càng phát triển, quỹ hàng hoá được tạo ra sẽ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về chủng loại, tạo tiền đề vững chắc nhất cho sự ổn định tiền tệ.
- Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách Nhà nước trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách Nhà nước.
- Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước.
Bởi vì vai trò của Nhà nước đối với quản lý kinh tế vĩ mô là rất to lớn. Nhà nước là người du ỷtì đảm bảo tính công bằng và ổn định trong kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động đến thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sử dụng các công cụ vốn có như luật pháp, các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả... để tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước được coi như là biện pháp mang tính chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giảm biên chế và kiện toàn bộ máy hành chính.
Kết luận
Lạm phát đã là và mãi mãi là một vấn đề lớn của thời đại chúng ta. Dù ở thể nào, nó cũng bào mòn, thậm chí cuốn đi tiền tài và giá cả, đồng lương và những khoản thu nhập khác, thậm chí cả những gia sản. Tóm lại là tất cả mọi giá trị, những thứ mà con người muốn giữ được.
Người ta e ngại nó, thậm chí “vạch mặt chỉ tên” nó thì cũng chẳng có gì đáng trách. Vấn đề là chúng ta không thể chỉ xét riêng mình nó, tách riêng nó ra. Làm sao có thể gạt lạm phát ra khỏi những vấn đề cũng nhức nhối như sự tăng trưởng và nạn thất nghiệp? Lạm phát không phải một vấn đề đơn giản, nó có tác động lớn tới nền kinh tế và ngược lại môi trường kinh tế cũng là mảnh đất cho lạm phát sinh sôi. Không thể chỉ nhìn riêng vào tỉ lệ lạm phát để đo lường lạm phát, cần xem xét cùng với tỉ lệ tăng trưởng quốc gia. Và ở mỗi quốc gia lại định ra một mức tỉ lệ lạm phát khác nhau, do điều kiện kinh tế xã hội khác biệt.
Qua những phân tích ở phần nội dung, chúng ta đã nắm được phần nào các lý thuyết về lạm phát, bản chất và nguyên nhân của lạm phát, cơ chế của nó và các giải pháp phòng chống, khắc phục hậu quả lạm phát. Từ đó, có thể thấy chế ngự lạm phát là một công việc rất khó khăn. Tính khốc liệt của nó đã được bàn luận, tranh cãi nhiều và cũng gây ra nhiều phản ứng đối địch. Lạm phát đặt ra vấn đề chính trị, như trong nền dân chủ, cần giành thắng lợi cho lợi ích chung trên một khối những lợi ích bộ phận được cấu kết với nhau một cách không hoà nhịp. Nền kinh tế của giai đoạn này đòi hỏi chúng ta cần hiệp đồng giữa các nhóm đối tác khác nhau. Mục đích là để thoả thuận với nhau một số hy sinh nhằm giữ thế ổn định của đồng tiền- một báu vật. Chỉ trong điều kiện như vậy mới làm giảm nhẹ được hậu quả, tác động tiêu cực khắc phục của lạm phát.
Lạm phát là một hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế, do đó xoá bỏ lạm phát lạm phát trong nền kinh tế là ảo tưởng. Lúc nào và ở đâu lạm phát cũng tồn tại, khi bùng nổ, khi âm ỉ, khi lại ủ bệnh... Vì thế chúng ta không được chủ quan và bỏ qua vấn đề lạm phát trong các hành động, chính sách kinh tế của mình. Phát triển kinh tế phải gắn liền với xem xét vấn đề lạm phát.
Từ nắm vững lý luận chung về lạm phát các nhà kinh tế hoạch định chính sách cần soi lại vào thực tiễn thế giới và trong nước, hiện nay cũng như quá khứ, để làm sáng tỏ hơn vấn đề lý thuyết, nắm chắc hơn. Chỉ có như vậy, khi gặp cơn lốc lạm phát trong thực tế chúng ta mới có khả năng bình tĩnh bắt bệnh và chữa bệnh. Mọi chính sách kinh tế là nhằm tăng trưởng, phát triển kinh tế. Lạm phát cũng là một đòn bẩy cho sự phát triển ấy song lạm phát quá cao lại phá vỡ những thành quả, gây khủng hoảng trì trệ nền kinh tế. Do đó, chỉ có hiểu biết và nhạy cảm, những nhà quản lý mới có sự điều tiết hợp lý nhất, như xác định một tỉ lệ lạm phát phù hợp với từng giai đoạn và hoàn cảnh đất nước. Kinh tế của một quốc gia chỉ phát triển bền vững khi mà các nhà hoạch định chính sách luôn luôn đắp đê ngăn chặn con sóng lạm phát dữ dội và dai dẳng.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ (ĐHKTQD)
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác Lênin - NXB Chính trị Quốc gia - 1999.
J.M Keynes Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ - NXB Giáo dục 1994.
Tiền tệ, Ngân hàng thị trường tài chính Miskin.
Lạm phát và giảm lạm phát Piere Bezbakh - NXB Khoa học kỹ thuật
Tiền tệ ngân hàng Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.
Lạm phát Maurice flamant - NXB Thế giới 1992.
Một số báo và tạp chí chuyên ngành.
Mục lục
A- Lời mở đầu 1
B- Nội dung 3
Chương 1: Lạm phát 3
1.1. Những vấn đề chung về lạm phát 3
1.1.1. Khái niệm lạm phát 3
1.1.2. Tỷ lệ lạm phát 5
1.1.3. Phân loại lạm phát 7
1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát 10
1.2.1. Lạm phát do tiền tệ 10
1.2.1.1. Lý thuyết về lượng của tiền tệ 10
1.2.1.2. Cung ứng tiền tệ và lạm phát 10
1.2.2. Lạm phát do nhu cầu 13
1.2.2.1. Tiền tệ và nhu cầu quá mức 13
1.2.2.2. Lạm phát cầu kéo 13
1.2.3. Lạm phát do chi phí 15
1.2.3.1. Quan điểm về lạm phát do chi phí 15
1.2.3.2. Lạm phát phí đẩy 15
1.2.4. Lạm phát do một số nguyên nhân khác 17
1.2.4.1. Thâm hụt ngân sách và lạm phát 17
1.2.4.2. Tỷ giá hối đoái và lạm phát 17
Chương 2: Tác động của lạm phát tới nền kinh tế 19
2.1. Lạm phát tác động tới lãi suất 19
2.2. Lạm phát và thu nhập 19
2.2.1. Lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập thực tế 19
2.2.2. Lạm phát khiến phân phối thu nhập không bình đẳng 20
2.3. Tác động của lạm phát đối với công ăn việc làm và ngân sách nhà nước 21
Chương 3: Các biện pháp khắc phục lạm phát 23
3.1. Những biện pháp cấp bách trước mắt 23
3.1.1. Chính sách tiền tệ 23
3.1.2. Chính sách ngân sách 24
3.1.3. Kiểm soát giá cả 26
3.1.4. Chính sách về thu nhập 27
3.2. Những biện pháp cơ bản chiến lược 27
C- Kết luận 29
Tài liệu tham khảo 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10213.doc