Phần 1 : Mở đầu
Phần 2 : Nội dung
Chương 1 : Lý thuyết lam phát
1.1 Các quan niệm về lạm phát
1.1.1 Trương phái lưu thông tiền tệ
1.1.2 Trường phái cầu kéo
1.1.3 Trường phái lạm phát và giá cả
1.1.4 Trương phái K.Marx
1.2 Phân loại lạm phát
1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm:
1.2.2Căn cứ vào định tính :
1.3Nguyên nhân lạm phát
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo :
1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy :
1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
1.3.4 Các nguyên nhân khác
1.4 Tác động của lạm phát
1.4.1 Lạm phát không dự kiến được
1.4.2 Lạm phát dự kiến được
1.5 Chính sách và biện pháp trong thòi kì lam phát
1.5.1 Biện pháp đối phó với lạm phát
1.5.1.1Những biện pháp tình thế
1.5.1.2Những biện pháp chiến lược
1.5.2Chính sách lạm phát
1.5.3 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
1.5.4 Lạm phát theo mục tiêu
1.5.4.1Giới thiệu lạm phát mục tiêu (LPMT)
1.5.4.2 Đặc điểm của lạm phát mục tiêu
1.5.4.3 Quy trình thực hiện LPMT
Chương 2 : Lạm phát ở Việt Nam
2.1 Sơ lược lịch sử lạm phát ở Việt Nam:
2.1.1 Diễn biến
2.1.1.1Giai đoạn những năm trước Đổi mới 1986:
2.1.1.2 Giai đoạn lạm phát sau Đổi mới 1986 đến nay:
2.1.2 Nguyên nhân
2.1.2.1.Nguyên nhân khách quan.
2.1.2.2 Nguyên nhân chủ quan:
2.1.3 Phương hướng giải quyết
2.2 Lạm Phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009
2.2.1 Diễn biến
2.2.2 Nguyên nhân
2.2.2.1 Lạm phát tiền tệ
2.2.2.2 Lạm phát cầu kéo
2.2.2.3 Lạm phát chi phí đẩy
2.2.2.4 Nguyên nhân khác
2.2.3. Tác động của lạm phát:
2.2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế:
2.2.3.2 Tác động đến tình hình xã hội:
2.2.4 Giai pháp
2.2.4.1 Năm 2007
2.2.4.2 Năm 2008
2.2.4.3 Năm 2009
2.2.5 Đánh giá giải pháp
2.2.5.1 Năm 2007
2.2.5.2 Năm 2008
2.2.5.3 Năm 2009
Phần 3 : Kết luận
Mở đầu
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về tác động của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia nhưng cũng là một trong những trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển đất nước. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỷ của nền kinh tế thị trường. Càng ngày, cùng với sự phát triển đa dạng phong phú của nền kinh tế thì nguyên nhân dẫ đến lạm phát cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn.Đối với nước ta, trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, cơ chế mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo xu hướng hiện đại, chắc lọc thừa kế những thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua. Trong đó, lạm pháp nổi lên như là mộtvấn đề hết sức nghiêm trọng. Vì vậy, việc nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Từ năm 1976 đến nay, Việt Nam trải qua hai giai đoạn phát triển chính được đánh dấu bằng mốc khởi đầu đổi mới năm 1986 : nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cả hai giai đoạn này, lạm phát luôn là mọt vấn đề được quan tâm hang đầu trong các chính sách và chến lược phát triển, nhất là trong những thời điểm lạm phát dâng cao như nửa cuối thập niên 1970 – nửa đầu thập niên 1980 và lại nổi lên từ năm 2007 cho đến nay.
Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2007 cho đến nay có tác động sâu rộng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với sự điều hành quản lý của nhà nước đã phần nào ngăn chặn, khắc phục nhưng tác động của lạm phát, tình hình ngày càng được ổn định. Tuy nhiên, lạm phát vẫn chưa thật sự được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại, diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua về nguyên nhân, diễn biến, tác động, giải pháp sẽ giúp ta có một cái nhìn tổn quan hơn, đúc kết được kinh ngiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời gian sắp tới.
57 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3545 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lạm phát Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư kém hiệu quả ( hệ số ICOR tăng ), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch tăng trưởng GDP và tăng cung tiền đã ngày một giãn rộng trong vòng 3 năm qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến tháng 6/2006, GDP tăng 25% trong khi mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng đến 110 %.
2.2.3. Tác động của lạm phát:
2.2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế:
* Lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Đối với các Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
- Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại.
- Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện.
- Tính thanh khoản của các ngân hàng bị ảnh hưởng, rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ.
- Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp, người dân thực hiện giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các Ngân hàng thương mại cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng.
* Lĩnh vực sản xuất: Lạm phát tăng cao đã làm giá đầu vào và đầu ra của các nguyên vật liệu, sản phẩm biến động không ngừng tạo nên sự mất ổn định trong thị trường, gây khó khăn không nhỏ đối với các Doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa giá cả tăng cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khoảng 95% là Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động của khó khăn kinh tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đang làm các công ty không kiểm soát được chi phí, mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản xuất. 20% còn lại là các công ty chịu ít ảnh hưởng và vẫn trụ vững do trước nay ít phải nhờ đến nguồn vốn vay và được các lãnh đạo có kinh nghiệm dẫn dắt.
Số liệu điều tra của Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, ngay cả trong điều kiện lạm phát, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vẫn có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo nhu cầu. Như vậy 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đứng trước nguy cơ phá sản. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhìn chung thấp hơn so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng của các thành phần GDP cũng giảm so với năm trước. Đặc biệt, tốc độ tăng tích lũy tài sản cố định đã giảm mạnh từ 24% xuống chỉ còn 4%. Trong khi đó, tỉ trọng hàng tồn kho đã tăng lên 5% so với tổng GDP, cao hơn mức thông thường của các năm trước khoảng 2%.
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
2008
Toàn nền kinh tế
7,8%
8,4%
8,2%
8.5%
6,3%
Nông nghiệp
4,4%
4,0%
3,4%
3,4%
4,1%
Công nghiệp
10,6%
10,6%
10,2%
10,2%
8,2%
Xây dựng
9,0%
10,8%
11,1%
12,0%
0,0%
Dịch vụ
1,3%
8,5%
8,3%
8,7%
7,2%
Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm (%)
* Lĩnh vực lưu thông: Lạm phát tăng cao đến 23% làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Chính những hoạt động đầu cơ này lại càng làm cho thị trường trở nên khan hiếm hàng hóa, dẫn đến mất cân bằng cung-cầu.
Năm 2007, giá lương thực-thực phẩm trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức 18,9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực tăng 15,5% và thực phẩm tăng 21,16%. Những mặt hàng như thiết bị và đồ dùng gia đình tăng giá 8,36% so với năm 2007, giá mặt hàng may mặc tăng 9,81%, đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở và vật liệu xây dựng, giá tăng lên đến 22,39% so với năm 2007. Tình hình này làm cho sức tiêu thụ hàng hóa trong nước có dấu hiệu yếu dần.
Đối với những mặt hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tâm lý như chứng khoán và bất động sản thì giá cả của chúng lại giảm xuống rõ rệt. Xét thị trường chứng khoán năm 2008: Liên tục những phiên giảm giá của thị trường trong những tháng đầu năm 2008. Trong quý II năm 2008 thị trường chứng khoán vừa khép lại một tuần giảm mạnh cả về điểm số, giá chứng khoán và khối lượng giao dịch. Tại sàn Tp.HCM, chỉ còn 3,5 triệu đơn vị, bằng phân nửa khối lượng những phiên gần đây và có giá trị 148 tỷ đồng. Chỉ số VN-Index qua phiên này chính thức về mốc 500 điểm, giảm 7,61 điểm, còn 500,33 điểm. HASTC-Index chỉ còn 154,23 điểm, giảm 3,19 điểm. Đúng như dự đoán, thị trường chứng khoán đã xuống mức “đáy” 366 điểm vào ngày 20/6.
Biểu đồ: Chỉ số VN - Index từ tháng 3 đến tháng 9/2008
2.2.3.2 Tác động đến tình hình xã hội:
Lạm phát tăng cao không chỉ khiến cho người nông thôn gặp khó khăn mà ngay cả những hộ gia đình ở thành thị với mức lương eo hẹp cũng phải điêu đứng. Thống kê của quốc tế thì trên cả nước ta, tỉ lệ nghèo hóa hay tái nghèo hóa vào khoảng 50%. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy:
Người giàu thường có kiến thức và điều kiện tiếp cận với các công cụ tài chính để có thể tự bảo vệ họ trước tác động của lạm phát.
Người nghèo thường có tỷ lệ tiền mặt trong tổng tài sản cao (do không có điều kiện chuyển đổi thu nhập thành các khoản đầu tư có thể bù đắp chi phí gây ra do trượt giá) nên phải chịu tác động của lạm phát lớn hơn; phụ thuộc nhiều hơn vào những nguồn thu nhập định trước như tiền lương, phúc lợi và trợ cấp xã hội… những nguồn thu nhập thường không được tính trượt giá một cách đầy đủ và kịp thời, hay thậm chí không được tính trượt giá
Do đó, lạm phát làm giảm thu nhập và tiền công thực tế của người nghèo và góp phần làm tăng tỷ lệ thất nghiệp , khi lạm phát cao lại làm xói mòn lợi nhuận của doanh nghiệp và giảm động cơ đầu tư. Một khi đầu tư giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng lên và điều đó làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân.
Ba nhóm người bị tác động mạnh bởi lạm phát:
Những người về hưu: Do đồng lương hưu tương đối ổn định và chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần nên với những đồng lương thực tế ít ỏi những người về hưu thường gặp rất nhiều khó khăn khi lạm phát tăng cao.
Những người gửi tiết kiệm bằng tiền: Khi lạm phát tăng cao, giá trị của đồng tiền ngày càng giảm, mọi người cố gắng tiêu thụ càng nhanh số tiền mình có càng tốt, hoặc đổi nó sang ngoại tệ hay vàng, … những thứ có giá trị cất giữ lâu hơn. Còn đối với những người gửi tiết kiệm bằng tiền, nhất là gửi dài hạn thì đồng tiền mất giá là một thiệt hại lớn đối với tài sản tiền của họ.
Người nghèo: Đây chính là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc lạm phát tăng cao do giá tăng, lương thực tế giảm xuống, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao… Trong khi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ thì chưa sâu rộng để có thể hỗ trợ giúp đỡ người nghèo tự thoát khỏi khó khăn.
Giai pháp
2.2.4.1 Năm 2007
Trong bối cảnh lạm phát đặc biệt tăng nhanh vào tháng 6 năm 2007 ( chỉ số giá CPI vọt lên mức xấp xỉ 1% , trái với thông lệ giá cả hơn một thập kỷ qua ) . Tín hiệu về lạm phát này đã được chính phủ thu nhận kịp thời và xử lý thông qua các chỉ thị :
* Ngày 01/8/2008 Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 18/2007/CT-TTg về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng hị trường.
Thủ tướng yêu cầu: rà soát các chính sách điều hành tiền tệ để có biện pháp thích hợp kiểm soát được mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và mức huy động tín dụng; thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng tiền trong lưu thông ở mức hợp lý; giữ bình ổn tỷ giá hối đoái, các lãi suất chủ đạo của đồng tiền Việt Nam, không để xảy ra những đột biến trên thị trường tiền tệ… Rà soát, tập trung vốn đầu tư cho các dự án quan trọng; kiên quyết thực hiện việc điều chỉnh vốn của các công trình triển khai chậm (chưa mang lại hiệu quả ngay) cho các dự án có nhu cầu cấp thiết cần sớm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả cao. Phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tháo gỡ kịp thời những vướng mắc về cơ chế, chính sách để đầy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tín dụng nhà nước và nguồn vốn ODA, nhất là giải ngân các công trình đầu tư thuộc lĩnh vực giao thông vận tải và nông nghiệp; thực hiện việc ứng vốn cho các dự án đang vướng mắc về thủ tục thanh toán theo tiến độ thực hiện… Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán và điều hòa cung cầu chứng khoán, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển ổn định, bền vững; chọn những công ty có uy tín để phát hành cổ phiếu thu hút tiền lưu thông cho sản xuất… Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống gian lận thương mại; kiểm tra chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn đã công bố gắn với kiểm tra niêm yết giá, đăng ký giá và bán hàng theo giá niêm yết…
* Ngày 31/10, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 23/2007/CT-TTg về tăng cường thực hiện các giải pháp điều hành giá cả, bình ổn thị trường trong những tháng cuối năm 2007 và phục vụ Tết Nguyên đán Mậu Tý 2008.
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các Bộ, ngành phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các hiệp hội ngành hàng tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp điều hành giữ vững các cân đối kinh tế vĩ mô, kiên quyết thực hiện các giải pháp tại Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg ngày 01 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường.
Tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là tiết kiệm trong tiêu dùng (điện, xăng, dầu), tiết kiệm trong chi phí sản xuất kinh doanh và trong xây dựng cơ bản; tiết kiệm trong tổ chức hội nghị, tổng kết cuối năm, gặp mặt đón mừng năm mới.
Thủ tướng chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đồng bộ, hài hoà các giải pháp rút tiền từ lưu thông về, cơ cấu lại tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bán ra có kỳ hạn ngắn, mua ngoại tệ ở mức độ thích hợp nhằm tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý, không để tăng giá hoặc mất giá quá mức đồng tiền Việt Nam.
Bộ Tài chính tiếp tục triển khai kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ năm 2007, 2008 để tham gia hút bớt tiền về, đồng thời phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành thực hiện các biện pháp đẩy mạnh giải ngân cho các dự án đầu tư của Nhà nước để tăng cường khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế.
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế và địa phương tăng cường kiểm tra, kiểm soát và quản lý giá các mặt hàng có xu hướng tăng cao như: xăng dầu, bất động sản, thuốc chữa bệnh, sắt thép, gas; chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh việc kiểm soát quản lý giá, không để tình trạng độc quyền doanh nghiệp về giá, định giá bất hợp lý, đầu cơ nâng giá, không thực hiện niêm yết giá; kiên quyết xử lý nghiêm, kịp thời theo quy định những vi phạm về Pháp lệnh Giá.
Thủ tướng cũng yêu cầu các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kế hoạch chuẩn bị đủ lượng hàng hóa cần thiết với giá ổn định để phục vụ nhu cầu của nhân dân đón Tết Nguyên đán Mậu Tý vui vẻ, an toàn và tiết kiệm.
Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo.các cơ quan thông tin đại chúng phối hợp với các Bộ, cơ quan thực hiện tốt công tác tuyên truyền để các doanh nghiệp và người tiêu dùng hiểu rõ và đồng thuận với các biện pháp điều hành thị trường giá cả của Nhà nước, từ đó ngăn ngừa tác động tâm lý đẩy giá lên cao
Nhưng các chính sách kinh tế này có vẻ vẫn chưa giải quyết tận gốc được lạm phát và lạm phát vẫn chưa được kiềm chế và đang diễn biến ở mức cao
2.2.4.2 Năm 2008
Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục lạm phát ở mức cao , ngân hàng nhà nước ( NHNN ) đã tích cực thực hiện việc rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế thông qua các công cụ như : tăng thêm 1% tỉ lệ dự trữ bắt buộc ( Quyết định số 187/QĐ-NHNN ) ngày 16/1 /2008 ; phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc 20.300 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm , lãi suất 7,8% /năm ( quyết định số 364/ QĐ – NHNN ) ngày 13/2/2008 . Đặc biệt NHNN đã điều hành linh hoạt các mức lãi suất chỉ đạo và đổi mới cơ chế điều hành lãi suất , có cả kết hợp biện pháp trực tiếp là quy định trần lãi theo công điện số 2 để ổn định nhanh thị trường tiền tệ bị xáo động bởi cuộc chạy đua lãi suất .
Và chính phủ đã có một quyết định khá dứt khoát khi ban hành Nghị quyết số 10/2008/ NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô , bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững với 8 nhóm giải phát :
Thắt chặt tiền tệ
Thắt chặt tài khóa thông qua rà soát cắt giảm đầu tư Nhà Nước
Tăng cung
Giảm nhập siêu
Thúc đẩy tiết kiệm
Tăng cường quản lý thị trường giá cả
Hỗ trợ các chương trình an sinh xã hội
Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền nhằm ổn định tâm lý xã hội và hạn chế kỳ vọng của lạm phát
Thắt chặt chính sách tiền tệ
Chính phủ đã chọn chính sách tiền tệ làm trọng tâm cho việc kiềm chế lạm phát , cụ thể như sau :
Trong tháng 5/2008 nhu cầu ảo về USD tăng cao do yếu tố tâm lý và hành vi đầu cơ khiến giá USD/VND trên thị trường tự do tăng đột biến có lúc lên đến 19000VND/USD . NHNN đã chủ động điều hành linh hoạt tỷ giá : biên độ tỷ giá VND/USD được nới lỏng ± 0.5% à± 0.75%à ± 1%à± 2% à± 3% đồng thời cũng can thiệp mua bán trên thị trường ngoại hối để ổn định tỷ giá và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu ( xăng dầu , thuốc chữa bệnh , phân bón ,…..) ; công bố mức dự trữ ngoại hối 20,7 tỷ USD , can thiệp trên thị trường ngoại hối , ban hành quy chế bna2 thu đổi ngoại tệ , giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ , cấm thu phí giao dịch , cấm các TCTD không được giao dịch USD thông qua đồng tiền thứ 3 , phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra xử lý các hoạt động đầu cơ nhằm bình ổn thị trường ngoại hối
Từ tháng 10/2008 nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng ( TCTD ) giảm lãi suất cho vay , duy trì tăng trưởng kinh tế , ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh giảm 1% tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND và giảm 2% đối với tiền gửi bằng ngoại tệ ( Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 ) , đồng thời cho phép các TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch trong các nghiệp vụ tái cấp vốn , thị trường mở và được rút trước hạn yêu cầu
Ngày 20/11/2008 , NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm 2% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các TCTD ( Quyết định số 2811/QĐ-NHNN )
Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu tích cực NHNN đã dỡ bỏ lãi suất trần huy động NVD và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản , theo đó các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không quá 150% của lãi suất NHNN công bố . Tại thời điểm thực hiện cơ chế lãi suất mới , lãi suất cơ bản được ấn định ở mức 12% và sau đó được điều chỉnh lên 14% ( ngày 11/6) , theo đó các mức lãi suất điều hành của NHNN như lãi suất chiết khấu , lãi suất tái cấp vốn cũng tăng lên ( lãi suất tái cấp vốn tăng 13%-15% /năm ,lãi suất chiết khấu tăng từ 11%-13% ) . Đồng thời để bảo đảm thi hành nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản , ngày 10/6/2008 thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành văn bản số 5158/NHNN-CSTT yêu cầu các TCTD không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay . Trước xu hướng tăng chậm của chỉ số giá tiêu dùng , đặc biệt là -0.19 % vào tháng 10 và 0,76% trong tháng 11 , nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu , bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay , duy trì tăng trưởng bền vững , NHNN đã ba lần giảm lãi suất từ 14%-13%-12% -11% /năm , lãi suất tái cấp vốn từ 15%-14%-13%-12% /năm , lãi suất chiết khấu từ 13%-12%-11%-10%/năm .
Đồng thời NHNN ban hành Công văn số 10259/NHNN-CSTT ngày 20/11/2008 về việc thực hiện biện pháp tín dụng và lãi suất ; trong đó NHNN yêu cầu các TCTD :
Điều chỉnh lãi suất kinh doanh VND phù hợp với quy định của NHNN , bảo đảm khả năng huy động vốn , hoạt động kinh doanh an toàn hiệu quả
Tập trung vốn tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn , xuất nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu , doanh nghiệp vừa và nhỏ ,các dự án đầu tư sản xuất , kinh doanh và kể cả các dự án đầu tư bất động sản khả thi , có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn
Chủ động thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn hiệu quả hoạt động kinh doanh
Bên cạnh đó NHNN đã tăng cường kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán , theo đó chỉ đạo các TCTD điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với chủ trương kiềm chế lạm phát của chính phủ , kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như cho vay đầu tư , kinh doanh chứng khoán , cho vay đầu tư , kinh doanh bất động sản . Tập trung hỗ trợ các lĩnh vực quan trọng để duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế , đặc biệt là xuất khẩu , nông nghiệp , nông thôn .
Bên cạnh chính sách tiền tệ , chính phủ còn có gắng giảm nhập siêu và tăng cường tuyên truyền tiết kiệm , hỗ trợ an sinh xã hội ,………
Tiết kiệm chi thường xuyên gần 3 nghìn tỷ đồng
Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ về tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong năm 2008 (trừ các khoản liên quan đến người lao động).
Đến nay, theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiết kiệm được khoảng 2.700 tỷ đồng, bằng 25% tổng dự phòng ngân sách Nhà nước 2008, trong đó các Bộ, ngành tiết kiệm được khoảng 700 tỷ đồng, các địa phương tiết kiệm khoảng 2 nghìn tỷ đồng. Số tiền tiết kiệm này được bổ sung vào nguồn thực hiện chính sách an sinh xã hội; phòng, chống, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác.
Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành 6 tháng đầu năm và chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2008 của Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Xuân Phúc trình bày cho thấy, chi phí cho hội họp đã được tiết giảm, công tác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có bước phát triển mới và phát huy tác dụng. Hệ thống thư điện tử công vụ của Chính phủ đã được các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, địa phương sử dụng hiệu quả trong quan hệ công tác, trao đổi thông tin, báo cáo phục vụ cho hoạt động chỉ đạo, điều hành. Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo các Bộ đã thực hiện thành công nhiều cuộc hội nghị, giao ban truyền hình trực tuyến qua mạng, góp phần nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành và tiết kiệm ngân sách nhà nước.
Đình hoãn, giãn tiến độ gần 2 nghìn dự án, công trình
Việc rà soát lại các công trình, dự án, danh mục dự án đầu tư sử dụng vốn từ nguồn ngân sách nhà nước cần phải đình hoãn hoặc giãn tiến độ cũng được các Bộ, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc. Theo đó, tổng số công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng.
Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng.
Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu
Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đã tích cực rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là thủ tục hải quan, thuế... Triển khai nghiên cứu xây dựng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phù hợp với cam kết quốc tế để giảm nhập siêu.
Về điều hành xuất khẩu, các Bộ, ngành chức năng đã thực hiện các chính sách để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó tiếp tục xuất khẩu gạo nhằm bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá gạo thế giới. Căn cứ vào khả năng cân đối thực tế và bảo đảm an ninh lương thực trong nước, năm nay nước ta có thể xuất khẩu gạo từ 4 đến 4,5 triệu tấn.
Do tác động trực tiếp của một số chính sách hạn chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu ô tô, linh kiện ô tô...; kiểm soát chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu nên nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần, đặc biệt là nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu (quý I/2008 nhập siêu bằng 62,7% kim ngạch xuất khẩu, quý II bằng 39,2%, riêng tháng 6 bằng 23,6% kim ngạch xuất khẩu).
Đẩy mạnh sản xuất và bảo đảm cân đối cung cầu
Việc khắc phục hậu quả thiên tai và dịch bệnh đã được thực hiện tích cực để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện tốt các chính sách khôi phục sản xuất lúa Đông Xuân năm 2007-2008 và chăn nuôi trâu, bò bị thiệt hại do ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại.
Các Bộ, ngành địa phương đã tích cực tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính đối với việc phát triển sản xuất kinh doanh.
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, các hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì tốt, giá các mặt hàng trọng yếu trên thị trường về cơ bản được bình ổn, đặc biệt là kịp thời hạ nhiệt giá gạo và xi măng; cơ bản bảo đảm cung - cầu các mặt hàng trên thị trường; góp phần đưa GDP đạt mức tăng trưởng khá trong 6 tháng đầu năm (6,5%) trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn.
Cấp hơn 7.300 tỷ đồng thực hiện chính sách an sinh xã hội
Trong thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, tích cực, kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đói, hỗ trợ sản xuất, sinh hoạt và đời sống cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, khó khăn; giữ ổn định mức thu học phí, viện phí; tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập; tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo; bảo đảm cung - cầu những mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân. Đến nay, ngân sách Trung ương đã cấp hơn 7.300 tỷ đồng để thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Kết quả đạt được trong kiềm chế lạm phát năm 2008
-Lạm phát đã có xu hướng giảm dần ,ngoại trừ tháng 5 tăng 3,91% do cú sốc giá gạo vào tháng 4 năm 2008 . Chúng ta có thể thấy sự giảm CPI qua hình XXX , chỉ số giá CPI vào những tháng cuối năm ở mức thấp , đặc biệt chỉ số GDP âm vào hai tháng 10 : - 0.19 % và tháng 11 : ---0.76 %
-Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát ; 10 tháng đầu năm tổng phương tiện thanh toán tăng 9,48% bằng ¼ chu kỳ năm ngoái , tốc độ tăng tín dụng chậm dần ( 10 tháng tăng tăng gần 18% so với năm 2007 ) từ đó tác động kiềm chế tăng tổng cầu và tiêu dùng
-Tỷ giá VND so với USD trên thị trường liên ngân hàng tăng với mức độ hợp lý , vào ngày 28/11/ năm 2008 : 16.483 VND/USD , tăng 2,76% so với đầu năm , phù hợp với cung cầu ngoại tệ , yêu cầu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô , cùng với cơ chế hỗ trợ vay vốn và mua bán ngoại tệ đối với xuất khẩu cho phép thanh toán bằng ngoại tệ của doanh nghiệp chế xuất , kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ để nhập khầu và can thiệp bán ngoại tệ tập trung cho nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu , góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và giảm đáng kể nhập siêu .
-Lãi suất có xu hướng giảm , sau các động thái hạ các mức lãi suất chủ đạo của NHNN , hiện nay lãi suất huy động và cho vay của các TCTD đã giảm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn dễ dàng hơn
Nhập siêu đã có xu hướng cải thiện trong những tháng cuối năm : Mức nhập siêu giảm mạnh từ mức bình quân 2,4 tỷ USD /tháng trong 6 tháng đầu năm 2008 xuống trên trung bình 500 triệu USD / tháng từ tháng 7 đến cuối năm .
-Luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh : vốn FDI tiếp tục tăng , chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2008 , FDI đăng ký đạt 58,3 tỷ USD gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007 , vốn thực hiện đạt gần 9,1 tỷ USD . Đây cũng là một vấn đề có tính hai mặt , nếu năng lực sản xuất trong nước yếu kém , không có khả năng hấp thụ hết lượng vốn thì nó cũng sẽ là một tác nhân gây ra lạm phát.
2.2.4.3 Năm 2009
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm nghiêm trọng vào cuối 2008 đầu 2009 , và lúc này tình hình lạm phát cơ bản đã được kiềm chế , ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được đặt lên . Chính phủ bắt đầu các chính sách “ nới lỏng tiền tệ “ , NHNN liên tục giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc . Từ đầu năm 2/2009 ngành thuế tập trung xủ lý việc giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 , giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 9 tháng đối với thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ , cụ thể thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giãn nộp lên đến 9900 tỷ đồng . Ngoài ra chính phủ còn chủ trương giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho 19 nhóm hàng dịch vụ .
Chính phủ đưa ra gói kích cầu với tổng trị giá 160 nghìn tỷ đồng , ngày 23/1/2009 chính phủ đã ban hành quyết định 131/QĐ-TTg về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức , cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất , theo đó mức lãi suất hỗ trợ cho các doanh nghiệp và người cho vay là 4%/năm , với thời hạn tối đa là 8 tháng , bắt đầu từ 1/2/2009 . Dự kiến ngân sách nhà nước chi ra khoảng 17000 tỷ đồng , tương đương khoảng 1 tỷ USD cho giải pháp kích cầu này , và các gói khác như gói tăng đầu tư công hơn 90 nghìn tỷ đồng , gói bổ sung an sinh xã hội gần 10 nghìn tỷ đồng . Xét về tỷ lệ gói kích cầu với GDP các gói kích cầu của Việt Nam thuộc hàng cao so với thế giới . Như vậy một lượng tiền lớn được bơm vào nền kinh tế .
Sau một thời gian triển khai thực hiện, các giải pháp này đã có những tác động tích cực đến ổn định kinh tế vĩ mô: Sự mất cân đối vĩ mô của nền kinh tế biểu hiện qua các chỉ số vĩ mô trong quý I/2008: Tốc độ tăng trưởng quý I chỉ tăng 7,4%, thấp hơn mức tăng 7,8% của cùng kỳ năm 2007; nhập khẩu tăng 62,5%, gần gấp đôi mức tăng của cùng kỳ năm 2007, nguyên nhân xuất phát cả về giá và lượng. Trong khi xuất khẩu chỉ tăng 22,7% - tăng cao hơn mức tăng của cùng kỳ 2007 nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng của nhập khẩu dẫn đến nhập siêu tăng gấp 3,5 lần so với mức nhập siêu của quý I/2007 và bằng 56,5% giá trị xuất khẩu hàng hóa; CPI tháng 3/08 tăng 2,99% so với tháng trước, cao hơn nhiều so với mức tăng của tháng cùng kỳ các năm trước (T3/2004: 0,8%; T3/2005: 0,1%; T3/2006: -0,5%; T3/2007: -0,22%), so với đầu năm tăng 9,19%, so với cùng kỳ tăng 19,39% ; thị trường tiền tệ có những biểu hiện thiếu ổn định, như thiếu thanh khoản, cạnh tranh lãi suất gia tăng; thị trường chứng khoán tụt dốc mạnh mẽ, chỉ số chứng khoán đang từ mức trên 1000 điểm của cuối năm 2007, chỉ còn 516 điểm vào cuối tháng 3/2008...;
Sau khi các giải pháp chống lạm phát được thực hiện quyết liệt, thì tình hình lạm phát đã giảm dần, đến hết quý I/2009 lạm phát chỉ còn 11,25% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mức 19,39% của quý I/2008. Song tăng trưởng kinh tế quý I/2009 lại có biểu hiện suy giảm mạnh (chỉ đạt 3,9%, xuất khẩu tăng 2,4% ...,).
Và tình hình kinh tế trong những quý đầu đã có dấu hiệu khả quan hơn, tăng trưởng kinh tế quý II đã tăng cao hơn quý I, đạt mức 4,5%, 6 tháng đạt 3,9%; giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp, thủy sản tương ứng tăng 0,9%, 3,9% và 2,5%. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất kể từ tháng 2/2009, tháng sau cao hơn tháng trước (tháng 3 tăng 2,5%, tháng 4 tăng 5,6%, tháng 5 tăng 7,2%, tháng 6 tăng 8,2%); 7 tháng nhập siêu chỉ có 3,4 tỷ USD, thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm ngoái; dự kiến cả năm nhập siêu dưới 10 tỷ USD, chiếm khoảng 16 - 16,5% giá trị xuất khẩu. Trong khi đó, các luồng vốn vào mặc dù có suy giảm, song FDI đăng ký 6 tháng đầu năm vẫn đạt 10 tỷ USD và đã giải ngân được gần 5 tỷ USD; kiều hối cũng giảm không đáng kể; đặc biệt gần 2 tháng liên tục FII vào ròng, theo dõi một ngày 7 - 8 triệu USD; thị trường tín dụng không lâm vào tình trạng “đóng băng” như các nước mà đã sôi động, thị trường chứng khoán tuy chưa thực sự ổn định nhưng đã khởi sắc... Đây là tín hiệu rất tích cực cho thị trường.
Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai , đề xuất những giải pháp để xử lý những diễn biến không thuận chiều của thị trường: chính sách tiền tệ, tỷ giá được điều hành linh hoạt không những vừa đảm bảo mục tiêu chống suy giảm kinh tế, kiềm chế lạm phát mà còn phải thực hiện mục tiêu ổn định thị trường tài chính, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến sự bất ổn của thị trường tài chính Việt Nam. Đặc biệt là dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam có chiều hướng suy giảm qua các kênh đầu tư trực tiếp, gián tiếp, kiều hối, gây áp lực lên giá Việt Nam và căng thẳng về cung ngoại tệ. Trước những tín hiệu như vậy, NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, một mặt để chấn chỉnh kỷ luật thị trường ngoại hối do một thời gian dài buông lỏng, nên đã hạn chế được tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo về nguồn ngoại tệ; đồng thời, xử lý linh hoạt, hài hòa mối quan hệ giữa lãi suất ngoại tệ và lãi suất VND để giảm sức ép về cầu mua ngoại tệ, tăng nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp. Hơn nữa, NHNN đã lường trước được những tác động tiêu cực của gói giải pháp kích cầu, khi mà tín dụng ngân hàng có xu hướng tăng mạnh, Thống đốc NHNN đã chỉ đạo sát sao, đưa ra những giải pháp ứng phó kịp thời để ngăn chặn nguy cơ đó, như tăng cường thanh tra giám sát chất lượng cho vay hỗ trợ lãi suất; chỉ đạo các tổ chức tín dụng không hạ thấp điều kiện vay vốn, có kế hoạch tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, đảm bảo hiệu quả cao, siết chặt hơn nữa kỷ luật tài chính.
Kết quả trong những quý đầu năm , lãi suất ngoại tệ trên thị trường đã được các ngân hàng thương mại (NHTM) đưa xuống khá thấp so với thời gian trước. Lãi suất thấp một mặt kích thích nhu cầu vay ngoại tệ. Thể hiện rõ nhất là nếu như đến tháng 5, dư nợ cho vay ngoại tệ giảm 9,55% (so với cuối năm 2008), thì đến cuối tháng đã 7 tăng trở lại (tháng 7 tăng 1,2% so với tháng 6) và so với cuối năm 2008 chỉ còn giảm 2,32%. Mặt khác, lãi suất ngoại tệ thấp cũng khiến nhiều người dân, thay vì găm giữ ngoại tệ đã bán ngoại tệ lấy nội tệ gửi tiết kiệm. Hiện tượng găm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp cũng đã giảm khá nhiều. Theo dõi những ngày qua, lượng ngoại tệ các doanh nghiệp đã bán khá nhiều. Điều đó cho thấy, các giải pháp đồng thời của NHNN đã phát huy tác dụng.
Nhưng đó chỉ là những hiệu quả tạm thời và những tác dụng phụ của các gói kích cầu bắt đầu biểu hiện và nguy cơ lạm phát có thể quay trở lại ,và đặc biệt là chỉ số lạm phát tăng cao trở lại vào tháng 6/2009 với tỷ lệ 3,94% so với tháng 3/2009 và vào ngày 1.12 tại buổi họp báo thông báo nội dung phiên họp thường kỳ của Chính phủ, ngày 1.12, ông Nguyễn Xuân Phúc, chủ nhiệm văn phòng Chính phủ cho biết, Thủ tướng đã kết luận, quyết định 131/QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho vay ngắn hạn) dự định ban đầu sẽ thực hiện đến 31.3.2010 với mức hỗ trợ 2%, sẽ phải chấm dứt hiệu lực ngay vào 31.12.2009. Nguyên nhân do Chính phủ cho rằng, nó không còn phù hợp trước những diễn biến mới của nền kinh tế: tăng trưởng, dư nợ tín dụng lên cao. Riêng hai chính sách là quyết định 443 QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho vay dài hạn) và quyết định 497/QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho nông dân vay vốn mua máy móc phục vụ nông nghiệp và vật tư xây dựng nhà ở) sẽ tiếp tục duy trì thực hiện đến hết năm sau. Chính phủ tiếp tục cho phép thực hiện bảo lãnh cho vay với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành tập trung thực hiện mục tiêu: đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không để tình trạng lạm phát trở lại, linh hoạt trong điều hành chính sách tỷ giá. Bộ Công thương cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, xây dựng hàng rào kỹ thuật, nhưng không vi phạm quy định của WTO; ngân hàng Nhà nước quản lý việc kinh doanh các sàn vàng và quản lý ngoại tệ tốt hơn.
Đánh giá giải pháp
2.2.5.1 Năm 2007
Ngoài một số nguyên như thiên tai, đầu tư tràn lan một số công trình công không hiệu quả, nguyên nhân chính gây lạm phát cao tại Việt Nam là do bất cập trong định hướng chính sách đối ứng, cụ thể là chính sách tỷ giá, chính sách tài khóa .
Trong tình hình lạm phát tăng nhanh giữa năm 2007 , chính phủ đã bỏ ra 1000 tỷ đồng để giảm thuế đối với hàng trăm mặt hàng , nhưng do không xác định đúng được nguyên nhân của lạm phát nên rõ rang giải pháp này không có tác dụng , và kết quả là giá cả vẫn leo thang vào những tháng tiếp theo
Định hướng chính sách tỷ giá không phù hợp so với biến động của kinh tế thế giới dẫn đến kết quả là: (1) Lượng cung tiền tăng đột biến; (2) Chi phí cho sản xuất trong nước tăng cao. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát cao tại Việt Nam.
- Giữ tỷ giá cứng nhắc với USD dẫn đến cung tiền tăng mạnh
Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về cơ hội đầu tư, do vậy, sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007, đã tới 20 tỉ USD). Theo các nguyên tắc về kinh tế vĩ mô khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, đồng Việt Nam (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu có thể coi là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong những điều kiện kinh tế thế giới nhất định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải tung VND ra mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến cuối năm , tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn, mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại một phần cung tiền.
-Giữ tỷ giá với USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí cho sản xuất trong nước tăng
Trong vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ, USD của Mỹ đã mất giá so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Cộng thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007 khiến nền kinh tế này bước vào giai đoạn suy thoái, đẩy USD mất giá nhiều hơn nữa, giá xăng dầu tính theo USD tăng mạnh. Chỉ tính từ năm 2006 đến 2007 , USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và Nhân dân tệ Trung Quốc. ( Hình 1 )
Tuy nhiên, tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (tính đến cuối tháng 2/2008, chỉ tăng 0,24% so với 2006). Do đó, qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu, nhưng đồng thời lại góp phần “nhập khẩu lạm phát” vào Việt Nam. Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc… Sự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND dưới chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn, do vậy, lạm phát cao là không tránh khỏi. Việc VND mất giá so với các ngoại tệ khác góp phần đáng kể vào việc tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn.
Hình 1: Tăng giá của các ngoại tệ mạnh so với USD từ năm 2006
(Nguồn: Datastream)
2.2.5.2 Năm 2008
Như chúng ta đã biết từ tình hình lạm phát, nửa đầu năm 2008, tỉ lệ lạm phát luôn giữ ở mức rất cao nhưng cho đến những tháng cuối năm thì chỉ số giá tiêu dùng cũng như lạm phát đã có dấu hiệu hạ nhiệt. Biểu hiện cụ thể nhất là chỉ số CPI tháng 10, 11, 12-2008 là âm. Những tín hiệu này cho thấy các giải pháp của Chính phủ đã thành công bước đầu trong việc ngăn chặn đà tăng của…lạm..phát.Chúng ta sẽ xét đến hiệu quả của từng giải pháp trong gói giải pháp đã được đưa raĐầu tiên, biện pháp được nhắc đến nhiều nhất là biện pháp thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Vì sao Chính phủ lại quyết tâm thực hiện biện pháp này? Như chúng ta đã biết trong số các nguyên nhân gây nên lạm phát thì một nguyên nhân quan trọng là lạm phát do tăng cung tiền. Trong suốt một thời gian dài từ năm 2004-2007, việt nam đã duy trì mức tăng cung tiền cao để kích thích tăng trưởng và do vậy khi xảy ra lạm phát, điều cần thiết là phải kìm lại mức độ cung tiền của xã hội. Khi biện pháp này được Ngân hàng Nhà nước áp dụng bằng các hình thức như tăng lãi suất cơ bản, tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tiến hành nghiệp vụ thị trường mở bằng cách bán trái phiếu cho các ngân hàng và rút bớt tiền khỏi lưu thông, rút bớt tiền trong thanh toán của các ngân hàng... thị trường tài chính đã có những phản ứng ngay tức thì và đã thể hiện một số mặt trái. Thứ nhất, việc tăng lãi suất cơ bản, từ 8% lên 14% như hiện tại đã buộc các ngân hàng thương mại lao vào một cuộc hạy đua tăng lãi suất tiền gửi, hiện lãi suất tiền gửi mà các ngân hàng huy động đang tiến đến lãi suất trần 19%, nhưng vẫn khó huy động. Các DN vay vốn ngân hàng với lãi suất gồm 21% + phí có thể lên trên 25%. Trên thực tế có rất ít các DN có khả năng sinh lời cao hơn 20% năm. Do vậy nguy cơ thua lỗ là không thể tránh khỏi, họ vẫn phải tiếp tục kinh doanh để ít lỗ nhưng càng kinh doanh lại càng lỗ và hậu quả là đến cuối năm 2008, những DN nào có số vốn ít, khả năng điều hành yếu kém đã phá sản hàng loạt.Thứ hai, việc thắt chặt tiền tệ, tín dụng bằng cách bắt buộc các ngân hàng thương mại tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, yêu cầu các ngân hàng thương mại mua trái phiếu với lãi suất thấp…làm cho số vốn khả dụng để cho vay của các ngân hàng giảm đi, dẫn đến họ phải đầu tư số vốn còn lại sau khi trừ phần dự trữ cất kho vào những lĩnh vực có rủi ro cao như cho vay chứng khoán; cho vay kinh doanh bất động sản…với lãi suất cao nhằm bù đắp cho số vốn huy động lãi suất cao đang phải để dự trữ trong kho hoặc mua trái phiếu chính phủ với lãi suất thấp. Kết quả là, nguy cơ các ngân hàng thương mại bị mất vốn, thua lỗ đang ngày càng hiện hữu; tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng ngày càng lún sâu với khó khăn chồng chất.Biện pháp thứ hai của chính phủ đó là cắt giảm đầu tư công, giảm bớt tỉ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các công tình yêu nhà nước. Trước năm 2007-2008, tức là trước khi có lạm phát phi mã, tình hình chi tiêu công và đầu tư nhà nước ở Việt Nam thực sự có nhiều vấn đề cụ thể như hiệu quả đầu tư kém, tính minh bạch thấp, năng lực phân bổ đầu tư yếu, kém hiệu quả hoạt động…Điều này không những là sự lãng phí lớn nguồn tiền ngân sách mà còn là nguyên nhân dẫn tới lạm phát. Về biện pháp này, chúng tôi nhận thấy đã phát huy hiệu quả khá tốt. Đánh giá tổng kết năm 2008, dù nhiều bất lợi từ nền kinh tế thế giới nhưng ngân sách nhà nước vẫn đứng vững và bội chi trong phạm vi an toàn- ông Vũ Văn Ninh, bộ trưởng tài chính cho hay. Bên cạnh đó, việc Nhà nước đưa ra chính sách này cũng tạo tâm lí tốt trong dân chúng, khi mà xưa nay dân chúng đều tin rằng ngân sách nhà nước đã bị sử dụng hết sức lãng phí.Về việc tăng cường sản xuất, đảm bảo cung cầu hàng hoá thực sự chưa đem lại hiệu quả nhiều. Có thực trạng này là do biện pháp thắt chặt tiền tệ ở trên đã tác động rất mạnh tới sức sản xuất của cả nền kinh tế. Các DN tư nhân, đa số là vừa và nhỏ, không chịu nổi sức ép của lãi suất cũng như tình hình kinh tế thế giới ngày một xấu đi đã phải giảm bớt sản xuất, cắt giảm nhân công. Chính sách này chỉ được phát huy với các công ty Nhà nước, nơi mà các biện pháp hành chính còn phát huy hiệu quả và họ sử dụng nguồn vốn Nhà nước với lãi suất thấp. Các công ty trên cũng đã thực hiện được phần nào qua việc đẩy mạnh sản xuất than, điện, dầu thô và một số mặt hàng khác. Bên cạnh đó, việc tăng thuế nhập khẩu đối với một loạt các mặt hàng xa xỉ phẩm như oto, hoá mĩ phẩm, điện thoại, trang sức…cũng đã phần nào cải thiện tình trạng nhập siêu đã lên đến mức báo động, giữ cho cán cân thanh toán quốc gia được đảm bảo.Các biện pháp còn lại như tiết kiệm, tăng cường công tác quản lí thị trường hay mở rộng an sinh xã hội không thuộc về khía cạnh kinh tế nên chúng ta không đề cậptớiởđây.
2.2.5.3 Năm 2009
Năm 2009 chính phủ phải đối mặt với tình trạng suy giảm kinh tế nên chính sách kích cầu được thực hiện , Ta thấy một lượng tiền lớn đã được bơm vào thị trường để kích thích kinh doanh , tạo nguồn hàng phong phú , nâng cao tiền lương của nhân dân ,…… và không tạo áp lực cho lạm phát . Nhưng trong điều kiện ngân sách thu hẹp , thâm hụt ngân sách nhà nước dự kiến là 8% GDP , khi lượng tiền cung lớn ,nếu chính phủ chi tiêu kém hiệu quả thì không những không thúc đẩy sản xuất mà còn tăng nguy cơ tăng lạm phát , kéo theo nhiều hậu quả khác như tăng bội chi ngân sách , ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân dân …. . Theo số liệu thống kê vào những tháng cuối năm 2009 thì chỉ số CPI tuy chỉ ở mức thấp so với cùng kỳ nhưng có xu hướng liên tục đi lên .
Chúng ta cũng bàn thêm về gói kích cầu của chính phủ , ta so sánh với các nước khác , điều kiện để nhận được vốn kích thích kinh tế rất chặt chẽ , khắt khe và được công khai . Vấn đề này tuy được chính phủ Việt Nam quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được tính chặt chẽ và công khai . Điều này có thể làm cho các giải pháp kích thích kinh tế có thể bị chệch mục đích và bị lạm dụng . Chúng ta cũng cần quan tâm đến dòng lưu chuyển của gói kích cầu này . Ta thấy rằng doanh nghiệp khi được hỗ trợ thì không cần dùng ngay một lúc toàn bộ lượng tiền này mà họ có thể thực hiện các động tác sau đây : Tạm thời chuyển qua tài khoản tiết kiệm có thời hạn để hưởng lãi suất huy động khoảng 8% /năm , tạm trả những khoản nợ cũ đã vay với lãi suất cao , tạm đầu tư tài chính , ví dụ như là tham gia đầu tư chứng khoán hay thị trường bất động sản , hay họ có thể dùng vào những mục đích khác với chính sách hỗ trợ . Điều này có thể tác động xấu đến thị trường tài chính và nền kinh tế . Nếu gửi trả lại vào thì đã gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước làm chệch hướng chính sách phát triển kinh doanh , không đáp ứng yêu cầu giài quyết công ăn việc làm cho nhân dân . nếu là đảo nợ thì tạm thời lảm giảm nợ xấu nhưng có thể xuất hiện những món nợ xấu trong tương lai . Nếu là đầu tư vào thị trường chứng khoán hay bất động sản thì sẽ hâm nóng thị trường trong một thời gian cho đến kỳ thanh toán . Do đó với một lượng tiền lớn lưu thông vào thị trường nều không được sử dụng hợp lý thì sẽ gây ran guy cơ vỡ nợ , hệ thống ngân hàng đổ vỡ .
Trong thời gian qua khi vốn kích cầu được giải ngân , kích cầu vào đầu tư và tiêu dùng . Tốc độ tăng trưởng tín dụng đã tăng rất nhanh , lượng tiền lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng cũng tăng rất nhanh . Đến cuối tháng 5 tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 14,01 % so với cuối năm 2008 . Trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay việc tăng trưởng tín dụng và lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng với mức độ cao cho thấy người dân bắt đầu tung tiền ra chi tiêu và đầu tư , qua đó tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế . Tuy nhiên trên một khía cạnh khác tăng trưởng tín dụng quá nhanh và quá mạnh cũng là một tín hiệu của lạm phát
Những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát năm 2008 vẫn chưa giải quyết triệt để , thêm vào đó sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn lớn . Vì vậy kích cầu đầu tư thông qua việc nới lỏng tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước , tập đoàn , tổng công ty mà thiếu sự thẩm định giám sát thì nền kinh tế vẫn có thể trì trệ trong khi đó lạm phát bị kích hoạt trở lai
Thâm hụt ngân sách nhà nước gia tăng dẫn đến suy giảm đầu tư tư nhân : với mức bội chi dự kiến lên tới 8% GDP (nếu sử dụng tối đã các gói kích cầu) và 80-90% nguồn vốn bù đắp ngân sách chủ yếu từ thị trường vốn trong, mặt bằng lãi suất sẽ chịu áp lực của nhu cầu vốn, mà đầu tiên là lãi suất tiền gửi ngân hàng. Cho đến tháng 7/2009, các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ vẫn chưa thành công do sự chênh lệch giữa lãi suất thị trường yêu cầu với lãi suất chào thầu của trái phiếu Chính phủ nên các khoản vay nợ Chính phủ vẫn chưa có ảnh hưởng mạnh đối với thị trường vốn. Tuy vậy, việc các ngân hàng cố gắng huy động vốn cho yêu cầu giải ngân gói hỗ trợ lãi suất cũng như mở rộng cho vay tiêu dùng đang gây sức ép đối với chính mặt bằng lãi suất tiền gửi, đặc biệt trong 3 tháng trở lại đây. Khi mặt bằng lãi suất tiền gửi tăng, giá các khoản vay nợ của Chính phủ sẽ trở nên đắt hơn. Tình trạng này tạo nên vòng xoáy tăng lãi suất, dẫn tới suy giảm đầu tư tư nhân. Áp lực tăng lãi suất tiền gửi là rất cao khi khối lượng nợ công dự tính trong năm 2009 để bù đắp thiếu hụt ngân sách gần 64.000 tỷ đồng . Trong đó, kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ năm 2009 là 36.000 tỷ đồng, phần bổ sung cho mục tiêu kích cầu tăng thêm là 20.000 tỷ đồng, phần chuyển nguồn trái phiếu Chính phủ từ năm 2008 sang 2009 là 7.700 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng đang triển khai kế hoạch phát hành trái phiếu USD với giá trị 1 tỷ USD ở thị trường trong nước. Việc không thực hiện được kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ sau 7 tháng năm 2009 (tỷ lệ trúng thầu là 2469,7 tỷ đồng/19.000 tỷ đồng chỉ đạt 13%) một phần phản ánh sự thiếu hấp dẫn của trái phiếu Chính phủ do lãi suất trúng thầu thấp so với lãi suất đăng ký nhưng mặt khác, phản ánh phần nào tình trạng căng thẳng thanh khoản trên thị trường vốn hiện nay và cảnh báo sự thiếu hụt nguồn để cân bằng ngân sách. Chính sách mở rộng chi tiêu Chính phủ sẽ bị giới hạn ngay từ khâu tìm kiếm nguồn bù đắp.
Do đó không chỉ khiến lạm phát có nguy cơ quay trở lại mà việc kích cầu không đúng đối tượng có thể khiến cho năng lực cạnh tranh của nền kinh tế có thể bị yếu đi , doanh nghiệp nảy sinh tâm lý trông chờ , ỷ lại . Nếu hỗ trợ cả những doanh nghiệp không có khả năng phát triển thì lại có nguy cơ làm cho nền kinh tế càng xấu thêm .
Phần 3 : Kết luận
Chính sách về lạm phát luôn có tầm quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kiềm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa của nước ta trong thời gian tới. Phát huy kết quả đạt được trong những năm vừa qua, trong thời gian sắp tới cần tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ sau :
*Chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, chuyển mạnh sang công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ rọ và liên quan, các ngành dịch vụ công nghệ cao và hiện đại. Hạn chế các ngành khai thác tài nguyên quá lớn gây ô nhiễm môi trường, các ngành gia công và kinh doanh bất đọng sản.
*Quản lý nguồn đầu tư của nhà nước có hiệu quả, đặc biệt là các dự án đầu tư phải được thẩm định kỹ, có tham khảo rộng rãi trước khi phê duyệt. Thực hiện tốt cân đối thu chi, không để thâm hụt ngân sách cao, điều chỉnh mức chi tiêu công hợp lý, tránh thất thoát trong đáu tư, chông tham nhũng, cắt giảm ccs công trình đầu tư kém hiệu quả.
*Nguyên cứu và đề suất tổ chức thực hiện các chính sách, biện pháp bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nguyên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và biến động giá cả trên thị trường thế giới. Quản lý có hiệu quả các mặt hàng chủ chốt. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh.
* Đẩy mạnh công tác nguyên cứu khoa học, đặc biệt là khoa hạc về lạm phát. Mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế.
Lạm phát cũng không phải hoàn toàn xấu mà nó cũng có những ưu điểm. Có nghĩa là khi nền kinh tế phát triển có hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới nhanh chóng và đúng hướng thì lamjphats là một công cụ để tăng trưởng kinh tế, chông suy thoái. Vì vậy chúng ta cần phải kiềm chế lạm phát ở mức có thể chấp nhận được hay lạm phát cân bằng và có dự tính tạo điều kiện trở thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển.
Lạm phát luôn rình rạp và đe dọa chúng ta bất cứ lức nào. Chính và vậy, Đảng và nhà nước phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững mạnh, làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ktvm_bai_hoan_chinh_4168.doc