KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu và theo dõi điều trị trên 46
bệnh nhân mắc bệnh giun lươn đường tiêu hóa:
Triệu chứng lâm sàng bệnh giun lươn với
đau bụng, Rối loạn tiêu hóa, kèm theo một số
triệu chứng khác có tần số ít hơn như dị ứng,
ho, khò khè, ban trườn, ; thông số cận lâm
sàng có giá trị là phát hiện ấu trùng trong phân
hoặc qua nội soi tiêu hóa, cũng qua nội soi cho
thấy các tổn thương (dù không đặc hiệu) và
huyết thanh miễn dịch ELISA (+).
Hiệu lực phác đồ ALB liệu trình 14 ngày trên
bệnh nhân giun lươn trên 95% qua theo dõi đến
tháng thứ 6 không thấy tái phát, tác dụng ngoại
ý không đáng kể, nếu có chỉ biểu hiện nhẹ và
không cần can thiệp y tế.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 49 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu lực phác đồ albendazole (alb) trên bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun lươn strongyloides stercoralis chưa biến chứng tại 5 tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 116
LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ HIỆU LỰC PHÁC ĐỒ ALBENDAZOLE
(ALB) TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM ẤU TRÙNG GIUN LƯƠN
STRONGYLOIDES STERCORALIS CHƯA BIẾN CHỨNG
TẠI 5 TỈNH VEN BIỂN MIỀN TRUNG VIỆT NAM
Huỳnh Hồng Quang*, Triệu Nguyên Trung*, Nguyễn Văn Chương*, Hồ Văn Hoàng*
TÓM TẮT
Giới thiệu: Giun lươn - loại ký sinh trùng thường gây bệnh hệ tiêu hóa. Hiện có khoảng 100-200 triệu
người mắc bệnh trên 70 quốc gia trên toàn cầu. Điển hình, nhiễm giun lươn thường không triệu chứng
hoặc biểu hiện nhẹ. Song, trên người suy giảm miễn dịch, bệnh có thể nghiêm trọng và gây tử vong lên đến
60-85%. Ivermectin là thuốc lựa chọn đầu tiên vì hiệu lực cao. Nhưng hiện không sẵn có trên thị trường,
nên phải thay thế một thuốc khác là Albendazole (ALB). Đề tài thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá hiệu lực
ALB với giun lươn.
Phương pháp: 46 bệnh nhân nhiễm giun lươn đưa vào nghiên cứu theo thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
tự chứng, liều dùng 800mg/ngày, trong 14 ngày. Hiệu lực được đánh giá thông qua lâm sàng, ELISA, soi phân,
tỷ lệ eosin, nội soi tiêu hóa trước và sau 1 - 3 - 6 tháng điều trị.
Kết quả: Trước điều trị, triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng rõ: đau bụng (95,65%), tiêu chảy, phân lỏng
(82,61-89,13%), dị ứng (91,3%), u hạt dưới da (4,35%), hội chứng Loffler (4,35%); ELISA (+) với S. stercoralis
(100%), tổn thương niêm mạc dạ dày tá tràng đa dạng (100%), trong đó dạ dày sung huyết cao nhất (73.91%),
ấu trùng được phát hiện qua nội soi là 2,17% và soi phân phát hiện 13,04% có ấu trùng. Sau điều trị, hầu hết các
triệu chứng lâm sàng, eosin giảm trở về bình thường trong vòng 1 tháng. ELISA chuyển (-) 80.43% sau 3 tháng
và 95,65% sau 6 tháng; phục hồi niêm mạc tiêu hóa sau 1-3-6 tháng lần lượt 43,48% - 86,96% - 95,65%. Thuốc
dung nạp tốt, tác dụng phụ không đáng kể.
Kết luận: Hiệu lực của ALB điều trị giun lươn cao, tỷ lệ chữa khỏi sau 6 tháng là 95,65-97,83%. ALB -
một thuốc điều trị tiềm năng cho bệnh giun lươn ở người, thay thế khi thực tế Ivermectine không sẵn có.
Từ khóa: Ấu trùng giun lươn, hiệu lực, albendazole.
ABSTRACT
CLINICAL, LABORATORY FINDING AND EFFICACY OF ALBENDAZOLE IN THE TREATMENT
OF UNCOMPLICATED STRONGYLOIDIASIS PATIENTS IN 5 CENTRAL COASTAL PROVINCES,
VIETNAM
Huynh Hong Quang, Trieu Nguyen Trung, Nguyen Van Chuong, Ho Van Hoang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 115 - 121
Introduction: Strongyloides stercoralis is a common enteric helminthic parasite. Currently, an estimated
100-200 million persons are infected worldwide in 70 countries. Typically, the infection is asymptomatic or
manifests as mild gastrointestinal symptoms. However, in immunocompromised persons, the infection can be
devastating and carries a 60-85% mortality rate. Ivermectin (IVM) is the drug of first choice for treatment
because of highly tolerance but not available in market and alternative drug as second line, albendazole (ALB).
*: Viện Sốt rét KST - CT Quy Nhơn
Tác giả liên lạc: Ths. Bs. Huỳnh Hồng Quang, ĐT: 0905103496, Email: huynhquangimpe@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 117
Objectives: assess of therapeutic efficacy and tolerability of ALB in treatment of strogyloidiasis.
Methods: 46 patients with Strongyloides stercoralis infection were enrolled in a non-comparative trial
randomized clinical trials study design with ALB dose regimes of 800 mg/d x 14 days. Efficacy and tolerability of
treatment was assessed by determination of S. stercoralis Antibody titer, gastro duodenal tract endoscopy, fecal
examination, eosinocytes count, clinical changes which were systematically performed pre-therapy and on Days
30-90-180 post therapy. For continuous safety assessment, patients were hospitalized during the first 2 days and
monitored at home till rendezvous calendar.
Results: Pre-treatment, clinical-paraclinical symptoms of patients were typical: abdomen discomforts of
95.65%, diarrhea or loose stool (82.61-89.13%), allergy (91.3%), cutaneous granuloma (4.35%), Loffler
syndrome (4.35%); positive ELISA test with S. stercoralis (100%), gastro duodenal lesions by endoscopy (100%)
with predominant congestive gastritis (73.91%), S. stercoralis larvae detection by endoscopy of 2.17% and by
fecal examination of 13.04%, Post-treatment, most of the clinical symptoms, eosin were decreased to normal range
within 1-3 month, ELISA seroconversion of 80.43% (3 months) and 95.65% (6 months); gastro duodenal lesions
recovered gradually post 1-3-6 months 43.48% - 86.96% - 95.65%, respectively. ALB was well-tolerated without
significantly side-effects.
Conclusions: The efficacy of ALB was high 97.14% with cure rate of 95.65-97.83% (6 months). ALB, a
potent drug for the treatment of human strongyloidiasis in the case Ivermectine is not available.
Key words: Strongyloides stercoralis, efficacy, albendazole
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giun lươn Strogyloides stercoralis (SS) là
một loại ký sinh trùng thường gây bệnh
đường tiêu hóa và là vấn đề y tế công cộng
đang được quan tâm. Tỷ lệ mắc bệnh thật sự
không thể đánh giá chính xác bởi nhiễm bệnh
thường không có triệu chứng, song số thống
kê chưa đầy đủ, cho thấy bệnh lưu hành trên
70 quốc gia với số người mắc trên 200 triệu
người là đáng chú ý. Bệnh có diện phân bố
rộng ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, rải
rác ở vùng ôn đới. Nhiều nhất châu Phi, Đông
Nam Á, Trung Mỹ và một phần đông Âu, đặc
biệt bệnh thường liên quan đến quần thể dân
di cư hoặc đi du lịch đến các vùng lưu hành,
trong đó có Việt Nam(5,7,6). Theo số liệu dân di
cư từ Việt Nam đến Canada và Mỹ có tỷ lệ
nhiễm giun lươn là 11,8 - 38% hoặc dân di cư
từ Campuchia đến quốc gia châu Âu có tỷ lệ
huyết thanh dương tính rất cao (76,6%), tỷ lệ
nhiễm chung trên thế giới là 2-20%. Nhiễm
giun lươn có thể biểu hiện từ không triệu
chứng đến suy đa phủ tạng, tỷ lệ tử vong số
bệnh nhân mắc bệnh nhập viện khoảng 16,7%
và khi có hội chứng tăng nhiễm, tỷ lệ này
tuyệt đối 70 - 90%. Quan trọng nhất là hội
chứng tăng nhiễm và tính chất đặc biệt trong
chu kỳ tự nhiễm của loài giun này, nhất là đối
tượng suy giảm miễn dịch, đang dùng thuốc
điều trị HIV, ung thư, đái tháo đường, lao,
suy dinh dưỡng nặng, ghép tạng, suy thận
mạn,khi đó bệnh lan tỏa hầu khắp cơ quan
và tấn công vào não bộ, đồng nhiễm nhiều
loại vi khuẩn độc lực cao, đe dọa tính mạng
bệnh nhân(3).
Thuốc điều trị lựa chọn đầu tay cho SS là
Ivermectin có hiệu lực cao, hoặc Thiabendazole
cũng có hiệu lực nhưng tác dụng phụ quá cao,
nên rất ít dùng. Hiện tại cả 2 loại thuốc trên
không phải lúc nào cũng sẵn có trên thị trường
Việt Nam. Vậy thuốc nào sẽ là ‘ứng cử viên”
thay thế trong khi bệnh nhân ngày một được
phát hiện tăng? SS cũng là loại giun tròn có khả
năng đáp ứng với albendazole (ALB). Do vậy,
đề tài tiến hành nhằm mục tiêu:
Mô tả một số triệu chứng lâm sàng và cận
lâm sàng trên bệnh nhân nhiễm giun lươn.
Đánh giá hiệu lực phác đồ Albendazole
(ALB) liều 800mg/ngày chia 2 lần trong 14 ngày.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 118
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thời gian và địa điểm
Từ 6/2006 đến 12/2009.
Tại Viện Sốt rét KST - CT Quy Nhơn.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đến khám, điều trị và theo dõi tại
đơn vị điều trị của Viện.
Thuốc Albendazole (Vidoca®), hàm lượng
400mg, vỉ 1 viên nén, trong hộp màu vàng cam,
do công ty dược phẩm Pháp Âu cung cấp, SĐK:
VNB-1385-04. HSD: 12/2009
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu ngang mô tả và nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên tự chứng.
Cỡ mẫu tối thiểu đại diện có hiệu lực n = 50.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân người lớn, tuổi ≥ 15, có yếu tố
dịch tễ và nguy cơ.
Bệnh nhân biểu hiện triệu chứng rối loạn
tiêu hóa (đau bụng, rối loạn đại tiện như tiêu
chảy, phân lỏng, khó tiêu, đầy hơi,), ngứa, nổi
mẩn, ngoằn nghèo trên thân mình.
Nội soi tiêu hóa trên có hình ảnh tổn
thương: sung huyết, viêm, loét trợt niêm mạc dạ
dày tá tràng, phát hiện ấu trùng trong khi nội
soi.
Xét nghiệm huyết thanh ELISA giun lươn (+)
với hiệu giá kháng thể 1/1.600 hoặc OD 1.0
eosin cao hơn 6% hoặc > 440/mm3.
Xét nghiệm phân tìm thấy ấu trùng giun
lươn Strongyloides stercoralis.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân < 15 tuổi, đang mắc bệnh cấp
tính, mạn tính về gan, thận, tim mạch.
Đang dùng một số loại thuốc điều trị giun,
sán khác.
Tiền sử dị ứng bất kỳ thành phần nào của
thuốc ALB.
Bệnh nhân là phụ nữ mang thai, đang cho
con bú hoặc bị tâm thần.
Đối tượng không đến tái khám theo lịch
định sẵn.
Phương thức áp dụng liệu trình điều trị
Albendazole 400mg, cho uống theo liệu
trình người lớn: viên nén 400mg/ lần x 2 lần/
ngày x 14 ngày, sau ăn 15 phút, khoảng cách 2
lần uống là 6 - 8 giờ. Nếu điều trị thất bại
chuyển sang dùng Ivermectin đủ liệu trình.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu nhập và phân tích trên chương trình
EPI-INFO 6.04 (CDC, Mỹ).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Một số đặc điểm chung về số bệnh nhân
mắc giun lươn được nghiên cứu
Qua nghiên cứu và theo dõi tổng số 176
bệnh nhân xét nghiệm huyết thanh giun lươn
seroprevalence (+), đủ tiêu chuẩn chọn bệnh là
46, tuổi trung bình 45,5 (từ 15- 76), tỷ lệ nam; nữ
là 1:1.2; tất cả đang sống, làm việc tại các tỉnh
ven biển miền Trung, nghề nghiệp chính là
nông (36/46), số ít còn lại là sinh viên, buôn bán
nhỏ và công chức.
Biểu hiện triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trên bệnh nhi mắc giun lươn
Bảng 1. Triệu chứng và dấu chứng lâm sàng trên bệnh nhân.
TT Triệu chứng & dấu chứng lâm sàng
Trước điều trị (D0) Sau điều trị (D30)
SL % SL %
1 Đau thượng vị-mũi ức 44 95,65 3 6,52
2 Đau lan tỏa toàn bụng 40 86,96 0 0
3 Chán ăn, buồn nôn, nôn mửa 38 82,61 0 0
4 Dị ứng (ngứa, nổi mẩn, vằn trên thân mình) 42 91,30 0 0
5 Đại tiện phân lỏng > 2 lần /ngày (không máu) 38 82,61 1 2,17
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 119
TT Triệu chứng & dấu chứng lâm sàng
Trước điều trị (D0) Sau điều trị (D30)
SL % SL %
6 Đại tiện phân lỏng < 2 lần/ ngày (không máu) 41 89,13 1 2,17
7 Đại tiện phân lỏng và táo bón xen kẻ 16 34,78 2 4,35
8 Sụt cân (thường # 3 kg) 22 47,83 2 4,35
9 Giả u hạt trên da/ vân đỏ chạy ngoằn nghèo 2 4,35 1 2,17
10 Ho, khò khè, ngứa họng 2 4,35 0 0
Bảng 2. Thông số sinh hóa và huyết học trước và sau điều trị.
Thông số cận lâm sàng D.0 D.30 D.90 D.180 P
Xét nghiệm công thức máu
Haemoglonin (g/l) Range
Mean s
Bạch cầu/mm3 Range
Mean s
8,7-12.5
10,4 1.42
6.000 -11.250
6.700 1.620
10,0-12,5
11,6 1,16
4.520 -10.360
6.800 1.960
11,4-14,5
12,6 1,50
6.300 -11.350
6.700 2.190
10-15,5
12.4 1,58
6.400 -11.250
6.801 1.890
P > 0.05
Xét nghiệm sinh hóa máu
SGPT (BT: 5-34UI): Range
Mean s
SGOT (BT: 0-38UI): Range
Mean s
Urea (BT: 2.49-7.47mmol/L)
Range
Mean s
Creatinine (BT: 53-115mmol/L)
Range
Mean s
32 – 86
27,50 16,5
10 - 66
18,90 16,9
5,62 -4,43
4,52 1,51
72-147
89,12 11,22
38-99
33,54 44.85
16-84
20,0 18.20
3,60 – 6,10
4,72 2,12
87-112
86,54 16,30
32 - 74
32,50 42,5
15 - 86
17,90 34,9
3,66 -6,0
4,50 1,50
66-104
89,17 10,30
33 - 76
30,50 12,5
15 - 76
16,90 10,2
4.20 -4,16
4,51 1,21
67-120
96,15 10,30
P > 0.05
Bảng 3. Hiệu giá kháng thể, tỷ lệ bạch cầu eosine trước khi điều trị.
Nhóm nghiên cứu
Ngưỡng hiệu giá kháng thể (HGKT)
1/1.600 1/3200 1/6.400 1/12.800
SL % SL % SL % SL %
Số ca nghiên cứu n = 46 32 69,6 9 19,6 3 6,5 2 4,3
Nhóm nghiên cứu
TỶ LỆ % BẠCH CẦU ÁI TOAN
7- 8% > 8-12% 13-20% > 20%
SL % SL % SL % SL %
Số ca nghiên cứu n = 46 6 13,1 16 34,8 22 47,8 2 4,35
Bảng 4. Kết quả về nội soi tiêu hóa và soi phân tìm ấu
trùng giun lươn.
Kết quả nội soi và xét nghiệm phân SL %
N
Ộ
I
S
O
I
T
IÊ
U
H
Ó
A
Tại phần
dạ dày
Loét dạ dày đơn thuần 5 10,87
Viêm trợt dạ dày 14 30,43
Sung huyết dạ dày 34 73,91
Tại phần
tá tràng
Loét tá tràng đơn thuần 6 13,04
Viêm trợt tá tràng 2 4,35
Sung huyết tá tràng 1 2,17
Nội soi Phát hiện ấu trùng 1 2,17
XN Tìm thấy ấu trùng trong phân 6 13,04
Bảng 5. Kết quả về hiệu lực điều trị của Albendazole
qua thời gian theo dõi.
Chỉ số đánh Tỷ lệ khỏi các triệu chứng hoặc dấu
giá hiệu quả
sau điều trị
chứng
Thời
điểm
D30
Thời điểm
D90
Thời điểm
D180
Ghi chú
Tổn thương
qua nội soi dạ
dày-tá tràng
(giảm, hết
sung huyết,
viêm, loét trợt)
20/46
(43,48%)
40/46
(86,96%)
44/46
(95,65%)
2 ca còn
t.thương
ELISA với
S.stercoralis
12/46
(20,09%)
37/46
(80,43%)
44/46
(95,65%)
2 ca (+)
1/1600
Bạch cầu ái
toan giảm
40/46
(86,96%)
46/46
(100%)
46/46
(100%)
< 8%
Triệu chứng
lâm sàng
36/46
(78,26%)
45/46
(97,83%)
45/46
(97,83%)
Giảm /
hết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 120
Bảng 6. Một số tác dụng ngoại ý liên quan sau khi
dùng thuốc.
Dấu chứng
& triệu chứng
n = 46 Thời điểm
biểu hiện (ngày) SL %
Đau bụng, buồn nôn 3 6,52 4-21
Khó chịu, mệt ngực 2 4,35 2- 7
Chóng mặt, nhức đầu 1 2,17 5-21
BÀN LUẬN
Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng trên
bệnh nhân mắc giun lươn
Triệu chứng lâm sàng
Qua nghiên cứu và điều trị 46 ca bệnh giun
lươn bệnh nhân ≥ 15 tuổi, triệu chứng lâm sàng
hay gặp nhất là đau bụng vùng thượng vị-mũi
ức (95,65%) hoặc đau thượng vị đau lan tỏa
quanh vùng rốn chiếm tỷ lệ rất cao (89,96%) và
triệu chứng trên cũng là dấu hiệu phiền muộn
khiến bệnh nhân sau một thời gian dài điều trị
các phác đồ loét tiêu hóa, viêm dạ dày ruột,
viêm đại tràng, viêm thực quản không thuyên
giảm. Cùng với đau bụng là bệnh nhân thường
rối loạn đại tiện, tiêu chảy hoặc phân lỏng trên 2
lần một ngày chiếm 82,61% và đại tiện đúng
thời điểm, một lần trong ngày, lượng phân vừa,
lỏng, không máu là 89,13%, đại tiện phân lỏng
xen kẻ táo bón ít gặp hơn, chiếm tỷ lệ 34,78%.
Dấu hiệu lợm giọng, buồn nôn hoặc nôn (ít)
cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ 82,61%, người bệnh
thường sụt cân chỉ trong vòng vài tháng
(47,83%). Do vậy, triệu chứng rối loạn tiêu hóa
trong bệnh giun lươn tương đối phức tạp và rất
dễ chẩn đoán nhầm với một số bệnh lý tiêu hóa
khác nếu không để ý đến. Số liệu của chúng tôi
hơi cao hơn so với một số tác giả khác, như đau
bụng cũng là triệu chứng và là lý do để bệnh
nhân vào viện hàng đầu chiếm đến 44,9%, tiêu
chảy chiếm 15,3% (Nguyễn Ngọc Sơn và cs.,
2007)(6) hay đau thượng vị chiếm 41,0%, buồn
nôn 37,0%, tiêu chảy 48,0% (Hinman và cs.,
1937); hoặc tương đương với kết quả của nhóm
tác giả Hari Polenakovik và cộng sự nghiên cứu
trên cỡ mẫu lớn (n = 109) có biểu hiện đau bụng
và tiêu chảy gần 78%; hoặc 82,23% (K.H.Franz
và cs., 2005). Riêng hội chứng ban trườn và giả u
hạt trên da do nhiễm bệnh mạn tính, trong
nghiên cứu này chúng tôi gặp 2 trường hợp
(4,35%), trong đó có một bệnh nhân bị lao phổi
đang điều trị, đây cũng là trường hợp đặc biệt
thường hay xảy ra trên các đối tượng suy giảm
miễn dịch, trong đó có nguyên nhân do lao
(đồng thời bệnh nhân này có cả hội chứng
Loffler đi kèm biểu hiện dấu chứng ho, khò khè,
ngứa họng). Các triệu chứng trên nói chung là
phù hợp với số liệu y văn thế giới và một số
nghiên cứu khác tại Việt Nam. Trong nghiên
cứu ở đây, chưa gặp trường hợp hợp nào có dấu
hiệu xuất huyết tiêu hóa hoặc liệt ruột, chướng
hơi, phản ứng gồng cứng thành bụng hoặc triệu
chứng ở hệ thần kinh trung ương, bội nhiễm vi
khuẩn như y văn đề cập(5,2,3).
Triệu chứng cận lâm sàng
Về kết quả xét nghiệm cận lâm sàng, soi
phân trực tiếp phát hiện ấu trùng giun lươn là
một trong những tiêu chuẩn chính chẩn đoán
xác định. Tuy nhiên, ở đây chỉ phát hiện chỉ
13,04% bệnh nhân và phát hiện qua nội soi cũng
chỉ 2 ca có ấu trùng SS. Tỷ lệ phát hiện này thấp
hơn so với một số nghiên cứu trước: soi phân
trực tiếp phát hiện 30,6% ấu trùng giun lươn
(Nguyễn Ngọc Sơn và cs., 2007)(6), hoặc 34,78%
(Trần Phủ Mạnh Siêu và cs., 2007) và số liệu của
các tác giả nước ngoài báo cáo rất thấp, chỉ dao
động 7,2 - 16% (Carlos Oltra-Alcaraz và cs., 2004;
Peter F Weller và cs., 2007). Vốn dĩ SS có chu
trình phát triển đặc biệt là ngoài chu kỳ thông
thường, chúng còn có chu trình tự nhiễm
(autoinfective cycle) mà ở đó ấu trùng giai đoạn
II chu du khắp cơ thể và khó có thể phát hiện
trong phân, chẩn đoán chỉ dựa vào ELISA hoặc
Western blot; vả lại, vì hầu hết bệnh nhân đến
điều trị tại đây trước đó đều đã điều trị các bệnh
lý và thuốc không đặc hiệu, bệnh chuyển giai
đoạn mạn tính thì khi đó xét nghiệm phân sẽ ít
nhạy (Flannery G và cs., 2006) và một lý do chủ
quan với quy trình xét nghiệm phân cũng như
kinh nghiệm kỹ thuật viên cũng là một hạn
chế(7,6,3).
Trước điều trị, hiệu giá kháng thể (HGKT)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 121
của bệnh nhân đều (+) từ ngưỡng 1/1600 trở lên,
trong đó số ca có HGKT trong khoảng 1/1.600-
1.3200 chiếm cao nhất với 69,6% và 19,6%, có 3
trường hợp ở ngưỡng 1/6.400 và 2 trường hợp
HGKT tăng lên 1/12.800, song mức độ liên quan
giữa HGKT và độ trầm trọng của bệnh không
tương xứng, một phần do tùy thuộc giai đoạn
tiến triển của bệnh (cấp tính, mạn tính hay tăng
nhiễm), một phần do một số bệnh nhân có tình
trạng đáp ứng miễn dịch khác nhau, trong khi
bệnh lý này rất dễ thích ứng với tình trạng suy
giảm miễn dịch. Tỷ lệ bạch cầu eosin ở hầu hết
các bệnh nhân đều tăng trên 8%, trong đó số
bệnh nhân có tỷ lệ trong khoảng (13-20%) cao
nhất với 47,8% và (8-12%) là 34,8%, số ca có tỷ lệ
bạch cầu eosin cao hơn 20% chỉ có 2 trường hợp,
nhưng không thấy hội chứng tăng nhiễm trên
các bệnh nhân như thế, nghĩa là tỷ lệ bạch cầu ái
toan một lần nữa không tương xứng với mức độ
trầm trọng của bệnh.
Tất cả 46 bệnh nhân đều được làm nội soi dạ
dày tá tràng để đánh giá tổn thương, đặc biệt
trên lớp niêm nhầy của dạ dày tá tràng. Tổng số
46/46 (100%) bệnh nhân đều ít nhiều có tổn
thương từ nhẹ đến nặng: từ sung huyết nhẹ
viêm trợt nông loét niêm mạc đều phát hiện
qua nội soi. Tổn thương ở dạ dày nhiều hơn ở tá
tràng (> 70,0%). Trong đó, sung huyết dạ dày
chiếm tỷ lệ cao nhất (73,91%), viêm trợt nông dạ
dày (30,34%), sung huyết rất ít; loét tá tràng đơn
thuần chiếm 13,04% và loét dạ dày đơn thuần
(10,87%), số còn lại viêm trợt hoặc sung huyết tá
tràng chỉ < 5%, tỷ lệ phát hiện ấu trùng qua nội
soi rất hạn chế, chỉ phát hiện được 2,17%.
Hiệu lực phác đồ Albendazole qua sự cải
thiện thông số lâm sàng và cận lâm sàng
Hiệu lực thuốc được đánh giá thông qua cải
thiện về mặt lâm sàng và thay đổi các thông số
cận lâm sàng như giảm tỷ lệ bạch cầu ái toan,
chuyển đổi huyết thanh từ (+) sang (-), lành tổn
thương ở niêm mạc dạ dày tá tràng, theo dõi tại
các thời điểm 1-3-6 tháng.
Sau 1 tháng điều trị, 78,26% các triệu chứng
lâm sàng cải thiện đáng kể, nhất là triệu chứng
đau bụng đã giảm rõ chỉ còn 3 trường hợp đau
lâm râm vùng quanh rốn, từng cơn, ngắt quãng,
đến tháng thứ 3 là 97,83% số bệnh nhân không
còn triệu chứng và đến tháng thứ 6 chỉ còn 1
trường hợp không thuyển giảm triệu chứng. Rối
loạn tiêu hóa dạng đi phân lỏng và sệt cũng
giảm còn 1 trường hợp (2,17%), các triệu chứng
khác như ngứa, chán ăn, buồn nôn, nôn giảm
gần như tuyệt đối. Riêng 1 trường hợp có u hạt
trên da và vân chạy ngoằn nghèo dạng ban
trườn vẫn tồn tại đến tháng thứ 6. Kết quả này
phù hợp so với Atsushi Saito và cộng sự (2006)
tại Okinawa. So sánh với các phác đồ ALB khác
dùng trong 3 ngày liên tục, sau đó 14 ngày lặp
lại liều cho kết quả thấp hơn so với chúng tôi
như nghiên cứu của Seri Singthong và cộng sự
tại Thái Lan (2005) cho biết tỷ lệ chữa khỏi 87,9%
(n = 51; 3 ngày và lặp lại liều ngày thứ 14) hoặc
tỷ lệ chữa khỏi 89,5% (n = 51; 5 ngày và lặp lại
liều vào ngày 14). Nếu so sánh hiệu quả của
thuốc với các nhóm thuốc khác như
Ivermectine, tỷ lệ chữa khỏi sau 30 ngày điều trị
tương đương (n =113; 84,07% chữa khỏi) hay
thuốc Thiabendazole liệu trình 3 ngày (n =105;
78,64% chữa khỏi) từ các nghiên cứu A. Adenusi
và cộng sự (2003)(4,1).
Phần lớn tổn thương dạ dày tá tràng qua nội
soi được ghi nhận giảm dần theo thời gian: sau
1 tháng, một số tổn thương giảm nhanh hoặc
loét nhẹ khoảng 43,48%, đến thời điểm sau 3
tháng có đến 86,96% số bệnh nhân đã lành vết
thương, đặc biệt vùng sung huyết và trợt nông
không còn, niêm mạc trở nên trơn láng như bình
thường, không còn phân biệt giữa mô lành và
bệnh. Theo dõi ở tháng thứ 6 thì 95,65% bệnh
nhân không còn thương tổn hoặc đang giai
đoạn liền sẹo, chỉ còn 2 trường hợp (2,17%)
dường như không thay đổi hình ảnh tổn thương
cũng không lan rộng thêm ra.
Sự chuyển đổi huyết thanh ELISA sang
âm tính chậm hơn so với các thông số trên,
chỉ có 20,09% là trở về âm tính ở cuối tháng
thứ nhất, song đến tháng thứ 3 con số này lên
đến 80.43% và đến tháng thứ 6 gần 100%
chuyển đổi huyết thanh sang (-), trong đó còn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 122
2 ca vẫn (+) với HGKT là 1/1600. Điều này
cũng hợp lý vì xét nghiệm ELISA là dựa trên
nguyên tắc kết hợp kháng nguyên-kháng thể,
nên tồn lưu của kháng nguyên và có mặt của
kháng thể sẽ làm cho kết quả (+) là tất nhiên.
Chỉ số bạch cầu eosin giảm nhanh nhất sau
điều trị bằng thuốc ALB, sau 1 tháng điều trị
đã có 86.96% trường hợp giảm bạch cầu ái
toan về bình thường và tháng thứ 3, gần
97,83% số ca có chỉ số bạch cầu ái toan bình
thường. Tất cả các ca bệnh còn tồn tại triệu
chứng lâm sàng (đau bụng và khó tiêu),
ELISA dương tính và tổn thương dạ dày tá
tràng không thay đổi, chúng tôi chuyển sang
dùng phác đồ Ivermectin, liều dùng 200
mcg/kg/ngày trong 2 ngày liên tiếp và sau 14
ngày dùng lại thêm 1 liều để tránh tình trạng
tự nhiễm. Hiệu quả khỏi bệnh hoàn toàn qua
theo dõi đến tháng thứ 7 và 8.
Với phác đồ điều trị theo liệu trình trên của
thuốc ALB, tác dụng phụ sau uống thuốc hay
gặp nhất là đau bụng, buồn nôn, ít hơn là khó
chịu, mệt ngực và chóng mặt, nhức đầu với tỷ lệ
2,17%. Các dấu hiệu này thường xuất hiện kể từ
ngày thứ 3 sau dùng thuốc. Song song, việc
đánh giá các thông số cận lâm sàng, chúng tôi
cũng chỉ định thêm các thông số huyết học và
sinh hóa nhằm đánh giá thay đổi chức năng gan
thận trước và sau dùng thuốc ALB. Kết quả cho
thấy sau 1-3-6 tháng dùng thuốc, các thông số
đều thay đổi không đáng kể, điều đó chứng tỏ
liệu trình ALB an toàn khi sử dụng điều trị bệnh
giun lươn ở người.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu và theo dõi điều trị trên 46
bệnh nhân mắc bệnh giun lươn đường tiêu hóa:
Triệu chứng lâm sàng bệnh giun lươn với
đau bụng, Rối loạn tiêu hóa, kèm theo một số
triệu chứng khác có tần số ít hơn như dị ứng,
ho, khò khè, ban trườn,; thông số cận lâm
sàng có giá trị là phát hiện ấu trùng trong phân
hoặc qua nội soi tiêu hóa, cũng qua nội soi cho
thấy các tổn thương (dù không đặc hiệu) và
huyết thanh miễn dịch ELISA (+).
Hiệu lực phác đồ ALB liệu trình 14 ngày trên
bệnh nhân giun lươn trên 95% qua theo dõi đến
tháng thứ 6 không thấy tái phát, tác dụng ngoại
ý không đáng kể, nếu có chỉ biểu hiện nhẹ và
không cần can thiệp y tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adenusi AA et al (2004). Comparision of Ivermectine and
Thiabendazole in the treatment of uncomplicated human
Strongyloides stercoralis. African journal of Biotechnology, Vol (2) 11,
pp.465-469.
2. Adenusi AA (1997). Cure by Ivermectin of chronic, persistent
intestinal strongyloidiasis. Acta Trop. 66: 163-167.
3. Asdamongkol N et al (2006). Risk factors for strongyloidiasis
hyperinfection and clinical outcomes. Souteast Asian J Trop Med
Public health;37(5):875-84.
4. Datry A et al (1994). Treatment of Strongyloides stercoralis
infection with ivermectin compared with albendazole: results of
an open study of 60 cases. Trans.Roy. Soc. Trop. Med. Hyg. 88: 344-
345.
5. Huỳnh Hồng Quang, Hồ Văn Hoàng (2012). Hội chứng tăng
nhiễm với ấu trùng giun lươn điển hình: Báo cáo ca bệnh và tổng
hợp y văn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 16, phụ bản của số 3,
2012, chuyên đề y tế công cộng, ISSN 1859-1779, 193-198
6. Nguyễn Ngọc Sơn và cs (2007). Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
và hiệu quả albendazole trong điều trị nhiễm Strongyloides
stercoralis ở bệnh nhân biểu hiện rối loạn tiêu hóa. Y học thành
phối Hồ Chí Minh, phụ bản số 2, chuyên đề ký sinh trùng, trg. 67-
73.
7. Trần Phủ Mạnh Siêu và cs (2001). Giun lươn Strongyloides
stercoralis, một tác nhân gây bệnh nội khoa đáng quan tâm. Y học
thanh phố Hồ Chí Minh, số đặc biệt, HN KHKT trường ĐHYD
TP. Hồ Chí Minh lần thứ 24, chuyên đề nội khoa, 11 (1), 465-468.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lam_sang_can_lam_sang_va_hieu_luc_phac_do_albendazole_alb_tr.pdf