Làm việc trong công ty Nhà nước hay trong các công ty ngoài quốc doanh

Ngay từ giai đoạn nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung , hệ thống kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, có mặt ở mọi ngành , mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đóng vai tròchủ yếu trong sản xuất, cung yếu tư liệu sản xuất , hàng hoá, dịch vụ , tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Từ sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một thời kì mới. Môi trường hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nướccó những biến đổi sâu sắc: đó là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự cạnh tânh xuất hiện và ngày càng tăng; nền kinh tế từ khép kínđã chuyển dần sang nền kinh tế mở. Các doanh nghiệp Nhà nước được tiếp cận với thị trường mới, kĩ thuật mới, quản lí mới; đồng thời đứng trước thử thách khắc nghiệt của sự xâm nhập, cạnh tranh quyết liệt của hàng ngoại trong cơ chế thị trường . Vai trò, trách nhiệm, lối quản lý của doanh nghiệp có sự đổi mới sâu sắc.Trong điều kiện đó, hệ thống doanh nghiệp bước đầu được sắp xếp lại, số lượng tuy có giảm nhưng vẫn chiếm giữ những ngành kinh tế then chốt. Nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và phát huy được vai trò định hướng, trung tâm liên kết các thành phần kinh tế cùng phát triển. Doanh nghiệp Nhà nước đã đóng góp 65%-73% nguồn thu ngân sách trong nước. (4)

doc22 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Làm việc trong công ty Nhà nước hay trong các công ty ngoài quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời nói đầu Lí luận chung và vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Khái niệm và đặc điểm của thành phần kinh tế Nhà nước. 1.1. Khái niệm. 1.2. Đặc điểm. Vai trò, vị trí của thành phần kinh tế Nhà nước. 2.1. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là tất yếu khách quan. 2.2. Nội dung của vai trò chủ đạo. Thực trạng kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đánh giá chung thực trạng kinh tế Nhà nước. 1.1. Thành tựu . 1.2. Tồn tại . Giải pháp hiện nay. 2.1. Phương hướng 2.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế Nhà nước ở Trung Quốc. Chú thích.. Tham khảo. 3 4 4 4 4 5 5 6 8 8 8 13 14 14 15 19 19 “Làm việc trong công ty Nhà nước hay trong các công ty ngoài quốc doanh” Một điều chắn chắn, đa số sinh viên dù là năm đầu hay năm cuối sẽ chọn công ty ngoài quốc doanh .Cũng dễ hiểu, làm cho những công ty này, nhân viên sẽ có lương cao, môi trường làm việc cạnh tranh phát huy khả năng sáng tạo Còn các doanh nghiệp Nhà nước, người ta lại nghĩ tới một bộ máy cồng kềnh , quan liêu, lương thấp trong nền kinh tế thị trường trước xu thế toàn cầu hoá đầy biến động. Tuy nhiên, đó chỉ là một góc nhìn và chưa phản ánh được đúng tầm của “bộ máy kềnh càng”dường như không theo kịp thời đại này. Trong hơn 20 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) đã đi theo hai con đường khác nhau. Các nước XHCN ở châu Âu lựa chọn con đường quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Tuy nhiên, sự quay trở lại con đường TBCN đã không đem lại cho các nước này kết quả mong muốn. Ngược lại, nhiều nước rơi vào tình trạng suy thoái, hỗn loạn, bị xâu xé bởi các mâu thuẫn dân tộc và âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.Còn Việt Nam đã lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tức là xây dựng nền kinh tế,thừa nhận kinh tế thị trường, thừa nhận các chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời, thừa nhận tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhưng khẳng định phải bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước-một trong những nội dung cơ bản để giữ vững định hướng XHCN. Thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế giới,chơi theo “luật chơi” của các nước tư bản, nhưng vẫn duy trì nền tảng chính trị của CNXH. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện mức sống và nâng cao vị thế quốc gia; giữ vững độc lập, tự chủ, tự quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam ... đã khẳng định sự lựa chọn đường lối phát triển đất nước là đúng đắn. Vậy thành phần kinh tế Nhà nước là gì?Tại sao và thế nào là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước?Làm thế nào để giữ vững vai trò chủ đạo ấy? Đó là những câu hỏi đặt ra cho không chỉ các nhà lãnh đạo và quản lý kinh tế mà còn cho các nhà kinh doanh và bất cứ ai quan tâm dến vấn đề kinh tế nước ta.. Lí luận chung và vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Khái niệm và đặc điểm của thành phần kinh tế Nhà nước. 1.1.Khái niệm.. Lần đầu tiên, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) , Đảng đã đưa ra khái niệm “kinh tế Nhà nước” và “vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước”.Nhưng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, “thành phần kinh tế Nhà nước” mới được xác định toàn diện : “kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu Nhà nước)” (1) 1.2. Đặc điểm. Kinh tế Nhà nước không đơn thuần chỉ có các công ty Nhà nước mà bao gồm: các doanh nghiệp Nhà nước,các tổ chức kinh tế thuộc Nhà nước,các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (tài nguyên thiên nhiên) , tài sản thuộc sở hữu Nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Trong đó, các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất,giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế. Việc tổ chức sản xuất kinh doanh được tiến hành theo kế hoạch hạch toán kinh tế và phân phối theo lao động. Thành phần kinh tế Nhà nước cùng bốn thành phần : kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đều là “bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật,cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.” (2) Vai trò vị trí của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế,tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.” (3) 2.1.Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là tất yếu khách quan. Mục tiêu cơ bản của định hướng XHCN ở Việt Nam là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , văn minh, vững bước đi lên CNXH dựa trên cơ sở tiếp tục sự đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm biến nước ta trở thành một nước công nghiệp XHCN. Để thực hiện được mục tiêu và phương hướng trên, chúng ta phải khai thác sức mạnh tổng hợp của các thành phầnh kinh tế. Trong đó, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước là một hệ cấu thành chủ yếu của kinh tế Nhà nước, kinh tế Nhà nước phải là thành phần kinh tế chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân.Việc xác lập vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc hoàn toàn đúng đắn. Bởi đó là một trong những yếu tố bảo đảm cho nền kinh tế thị trường của nước ta phát triển theo định hướng XHCN và là sự khác biệt có tính bản chấtgiữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Chính tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới- xã hội XHCN. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường không phải là nền kinh tế hoàn toàn tối ưu, cùng với những tác dụng tích cực to lớn thì chính trong lòng nó cũng vốn có những mặt trái, những thất bại và những trục trặc mà con người không mong muốn, phải hạn chế tác hại của nó, phát huy tính ưu việt của nó cao hơn. Hơn nữa, mỗi thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH có bản chất kinh tế - xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng. Nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn, các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của tập thể, xã hội. Và hệ thống kinh tế Nhà nước chính là một công cụ đắc lực bên cạnh các công cụ khác (hệ thống pháp luật và bộ máy thực thi pháp luật,công cụ tài chính tiền tệ) dể định hướng phát triển nền kinh tế, khắc phục các khuyết tật trục trặc, sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường” ,thực hiện các mục tiêu xã hội ,bảo đảm cho nền kinh tế đi theo định hướng XHCN. Chỉ với toàn bộ sức mạnh của sở hữu Nhà nước hậu thuẫn cho chính sách kinh tế của Nhà nước, cho quản lý của Nhà nước, cho doanh nghiệp nhà nước ...thì Nhà nước mới có thể định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tức thực thi vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Vì vậy, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là một tất yếu khách quan.. Cần phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thành phần kinh tế này có thể thực hiện tốt vị trí nền tảng của mình.. 2.2.Nội dung của vai trò chủ đạo. Thế nào là vai trò chủ đạo ? Văn kiện Đại hội VIII (1996) đã nêu cụ thể: “tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Văn kiện Đại hội IX (2001) lại nêu: kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật”. Văn kiện Đại hội X (2006) một lần nữa khẳng định: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”. Nhìn tổng quát từ sau Đại hội VII đến nay, quan niệm của Đảng ta về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được chú ý ở năm điểm nổi bật sau: Có sự phân biệt giữa sở hữu nhà nước với hình thức doanh nghiệp nhà nước và có sự phân biệt giữa quyền chủ sở hữu với quyền kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước Để tránh sự lẫn lộn trong nhận thức giữa vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước với vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước, pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, Đảng ta đã khẳng định rõ ràng rằng thành phần kinh tế nhà nước không lãnh đạo các thành phần kinh tế khác mà là công cụ đắc lực, là “lực lượng vật chất quan trọng” để Nhà nước điều tiết và định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân. Kinh tế Nhà nước là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước. Hoạt động của kinh tế Nhà nước nhằm để tạo môi trường chung cho mọi thành phần kinh tế cùng phát triển chứ không phải chỉ cho doanh nghiệp Nhà nước. Kinh tế Nhà nước có nội hàm rộng hơn doanh nghiệp Nhà nước, hay nói cách khác, doanh nghiệp Nhà nướ chỉ là một bộ phận quan trọng của hệ thống kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên, ở đây cũng cần nhấn mạnh thêm rằng : vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không phải là kinh tế Nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân mà là nắm lấy những lĩnh vực then chốt như kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Cùng với đó, phải đảm nhận kinh doanh các lĩnh vực phi lợi nhuận, sản xuất các mặt hàng dịch vụ công cộng (công an, quốc phòng, y tế, giáo dục ) đi đầu trong ứng dụng khoa học kĩ thuật, phát triển ngành nghề mới là hình mẫu về làm ăn hợp pháp đúng đắn, phong cách quản lý linh hoạt , hiệu quả cao. Là trung tâm thu hút lôi kéo các thành phần khác vào vòng cạnh tranh. Thực trạng kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đánh giá chung thực trạng kinh tế Nhà nước. Thành tựu.. Ở Việt Nam , từ nhiều phương thức hình thành khác nhau, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã tồn tại và phát triển trên 40 năm. Ngay từ giai đoạn nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung , hệ thống kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, có mặt ở mọi ngành , mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đóng vai tròchủ yếu trong sản xuất, cung yếu tư liệu sản xuất , hàng hoá, dịch vụ , tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Từ sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một thời kì mới. Môi trường hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nướccó những biến đổi sâu sắc: đó là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự cạnh tânh xuất hiện và ngày càng tăng; nền kinh tế từ khép kínđã chuyển dần sang nền kinh tế mở. Các doanh nghiệp Nhà nước được tiếp cận với thị trường mới, kĩ thuật mới, quản lí mới; đồng thời đứng trước thử thách khắc nghiệt của sự xâm nhập, cạnh tranh quyết liệt của hàng ngoại trong cơ chế thị trường . Vai trò, trách nhiệm, lối quản lý của doanh nghiệp có sự đổi mới sâu sắc.Trong điều kiện đó, hệ thống doanh nghiệp bước đầu được sắp xếp lại, số lượng tuy có giảm nhưng vẫn chiếm giữ những ngành kinh tế then chốt. Nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và phát huy được vai trò định hướng, trung tâm liên kết các thành phần kinh tế cùng phát triển. Doanh nghiệp Nhà nước đã đóng góp 65%-73% nguồn thu ngân sách trong nước. (4) Đăc biệt, sau các kì đại hội VII, VIII, IX ,X , Đảng đã xác định lại quan niệm, vai trò và phương hướng phát triển kinh tế Nhà nước thì tỉ trọng và cơ cấu kinh tế đã có nhiều thay đổi. Khu vực kinh tế Nhà nước sau thời gian bị chao đảo khi chuyển sang cơ chế thị trường đã sớm được phục hồi và phát triển có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp Nhà nước đảm nhiệm những sản phẩm và dịch vụ quan trọng có tác động trực tiếp đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính tín dụng. Đã củng cố, tổ chức và sắp xếp lại các Tổng công ty theo Quyết định 91TTg và các Tổng công ty theo Quyết định 90TTg với hàng nghìn các đơn vị thành viên, chiếm phần lớn tài sản, vốn liếng trong khối doanh nghiệp Nhà nước. Hoạt động của các Tổng công ty có tác dụng hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp thành viên về vốn, công nghệ, thiết bị, thị trường để duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng sức mạnh trong cạnh tranh, trong đấu thầu,... Các Tổng công ty đã thực hiện việc liên kết về hành chính, nghiệp vụ quản lý, mở rộng thị trường và hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị thành viên. Một số Tổng công ty thống nhất cả về điều hành xuất, nhập khẩu, quản lý thống nhất vốn đầu tư, đổi mới công nghệ như Tổng công ty Than, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Tàu biển,... Đến cuối năm 1999 toàn quốc có 370 doanh nghiệp Nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần, trong đó các Bộ quản lý 69 doanh nghiệp, các Tổng Công ty quản lý 28 doanh nghiệp và các địa phương quản lý 273 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cổ phần hoá đang hoạt động tốt, nhiều chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều tăng: 1998 so với năm 1997 vốn tăng 3,1%, doanh thu tăng 133,5%, lợi nhuận sau thuế tăng 131%, các khoản nộp Ngân sách tăng 153%, lao động tăng 9%, thu nhập bình quân tăng 29% và giá trị cổ tức đạt bình quân 2,6%/tháng, cao gần gấp 3 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế đã thay đổi đáng kể. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn, tốc độ tăng GDP khá cao, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốtvà tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Tốc độ tăng GDP bình quân năm phân theo thành phần kinh tế - % GDP Riêng Nhà nước Ngoài Nhà nước Đầu tư nước ngoài 1986-2005 6,8 6,4 5,8 22,7(2) 1986-1990 4,4 1,9 6,2 - 1991-1995 8,2 9,3 4,9 31,2 1996-2000 7,0 7,3 5,0 17,6 2001-2005 7,5 7,5 7,0 9,9 (theo tổng cục thống kê:gso.gov.vn_11/9/06) Cơ cấu theo thành phần kinh tế Cơ cấu thành phần kinh tế (%) 1990 1995 2000 1. Nhà nước 32,5 40,1 40,2 2. HTX 10 9 3. Kinh tế  tư nhân 3,12 3,4 4. Kinh tế cá thể 36 34 5. Kinh tế hỗn hợp 10,78 13,4  - Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 6,4 10,3 (theo trang ưeb của Bộ Kế hoạch và Đầu tư : mpi.gov.vn_Chủ Nhật , 04/5/08) Tuy nhiên, với những chính sách và biện pháp điều chỉnh, sắp xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý tài chính của công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, hay việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm đi, từ 40,1% GDP năm 1991 xuống còn 38,3% năm 2003, kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9% trong thời gian tương ứng. Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp nhà nước được đưa vào chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882 doanh nghiệp và năm 2005 dự kiến sẽ là 413 doanh nghiệp. .Xét GDP theo 3 khu vực thì trong khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp), kinh tế Nhà nước chiếm dưới 3%, khoảng 97% là kinh tế ngoài quốc doanh (kể cả kinh tế tập thể); trong khu vực II (công nghiệp và xây dựng), kinh tế Nhà nước chiếm 2/3 và kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 1/3; trong khu vực III (dịch vụ) kinh tế Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng xấp xỉ bằng nhau. Riêng trong ngành công nghiệp thì: Công nghiệp quốc doanh được tổ chức sắp xếp lại, tăng cường đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị nên đã có bước tiến đáng kể, số lượng và chất lượng sản phẩm đều tăng. Giá trị sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng bình quân hàng năm 11,7% thời kỳ 1991-2000, trong đó thời kỳ 1991 - 1995 tăng bình quân 13,4%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 tăng bình quân 10%/năm . Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế: Đơn vị % 1995 2000 Tỷ trọng 100 100 1. Khu vực kinh tế trong nước 74,9 66 - Kinh tế nhà nước 50,3 44,9 - Kinh tế ngoài quốc doanh 24,6 21,1 2. Khu vực có vốn FDI 25,1 34 (theo trang ưeb của Bộ kế hoạch và đầu tư : mpi.gov.vn chủ nhật , 04/5/08) Một điều đáng lưu tâm, năm 1995 số lao động làm việc trong khu vực Nhà nước giảm gần 49 vạn người nếu so với năm 1990, thì năm 2005 nếu so với năm 2000 lại tăng lên trên 62 vạn người. Điều này chứng tỏ khu vực Nhà n ước đã bắt đầu thu hút người lao động trở lại. Tồn tại. Tuy có những đổi mới quan trọng và đạt dược nhiều bước tiến nhưng doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém, nổi cộm lên gay gắt là 5 vấn đề : Quy mô và các mối quan hệ quản lý của doanh nghiệp Nhà nước có nhiều điểm chưa hợp lý, thủ tục hành chính còn rườm rà, quản lý chồng chéo. Trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu, đã và đang là lực cản đối với quá trình nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường. Việc sắp xếp đổi mới còn chậm, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm dần,sự đóng góp vào ngân sách là lớn nhưng vẫn chưa tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước, việc sử dụng vốn chưa thực sự hiệu quả. Doanh nghiệp Nhà nướccũng là một trong những địa chỉ của tệ lãng phí tham nhũng gây lãng phí,tổn thất nguồn lực, nguồn ngân sách Nhà nước.Tiêu biểu là vụ tham nhũng gây xôn xao dư luận PMU 18.Việc lợi dụng sơ hở trong quản lý để làm giàu ,nạn buôn lậu có phần gia tăng gây những bất bình trong xã hội và làm cho không ít người nghi ngờ về vai trò của Nhà nước, làm giảm uy tín của Đảng. Giải pháp hiện nay. Phương hướng. Làm thế nào để kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo ? Có nhiều nhóm biện pháp được đề ra. Về mặt quản lý, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật; gắn trách nhiệm quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp; chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏiĐồng thời, Nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản línhà nước đối với doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghệp. Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước theo hướng: Xây dưngj một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp Nhà nước,củng cố hiện đại hoá một bước các tổng công ty Nhà nước. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá (toàn bộ hay một phần ) , đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, theo chủ trương chung, không phải là để tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước mà là để tạo ra một loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu nhằm vừa sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước vừa huy động thêm vốn cho xã hội vào phát triển sản xuât kinh doanh, vừa tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước vừa phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước về mặt lý thuyết là như vậy. Nhưng kết quả thực hiện ra sao, đó là điều chúng ta cần xem xét cẩn trọng trong thực tế. Giao ,bán ,khoán ,cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏmà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập ,giải thể,cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện dược các biện pháp trên. Phát triển thêm doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một ngành,lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. 2.2.Kinh nghiệm phát triển kinh tế Nhà nước ở Trung Quốc. Cải cách doanh nghiệp nhà nước đang là thách thức lớn đối với những nước có nền kinh tế chuyển đổi, trong đó có Trung Quốc. Tại Trung Quốc, từ năm 1978 đến năm 1997, đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vào tổng sản lượng công nghiệp của cả nước giảm từ 78%/năm xuống còn 27%/năm. Hơn 20 năm thực hiện chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước (1978-2006) với nhiều biện pháp, Trung Quốc bước đầu đã đạt được một số thành tựu, nhưng vẫn còn không ít những khó khăn và tồn tại. Quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc từ năm 1978 đến nay có thể chia thành 3 giai đoạn chủ yếu sau: Giai đoạn 1: Từ tháng 12-1978 đến tháng 10-1984. Đây là giai đoạn chuẩn bị, mở đầu nhằm tiến hành thí điểm cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nội dung cải cách chủ yếu là “nới quyền nhượng lợi”, tức là nới rộng quyền tự chủ và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhà nước đã ban hành hàng loạt các chính sách pháp quy nhằm mở rộng quyền tự chủ của xí nghiệp, kết hợp trách nhiệm hiệu quả với lợi ích kinh tế của doanh nghiệp và người lao động nhằm khích lệ tính tích cực trong hoạt động sản xuất. Tháng 5-1984, Quốc vụ viện đã ra “Quy định tạm thời về việc mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh” trên 10 vấn đề, đây là “mười điều nới quyền” nổi tiếng. Đồng thời với việc mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước là quá trình điều chỉnh dần mối quan hệ phân phối giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Trong một chừng mực nhất định, việc làm này có tác dụng nâng cao hơn sức sống của doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, biện pháp cải cách này làm nảy sinh một số vấn đề bất hợp lý như: tỷ lệ phân chia lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên thì tỷ trọng thu nhập tài chính của nhà nước trong toàn bộ thu nhập quốc dân bị giảm xuống (từ 37,2% năm 1978 xuống còn 26,5% năm 1983). Do vậy, nếu cứ kéo dài tình trạng này, Nhà nước sẽ bị thất thu thuế, đất nước sẽ không tập trung đủ vốn để xây dựng các dự án trọng điểm và phát triển kết cấu hạ tầng. Giai đoạn 2: Từ tháng 10-1984 đến tháng 12-1991 : triển khai toàn diện cải cách doanh nghiệp nhà nước.,xác định rõ đây là khâu then chốt trong cải cách thể chế kinh tế. Yêu cầu cơ bản là xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và xí nghiệp, phát huy tính tích cực của xí nghiệp và của người lao động. Tư tưởng chính là: tách quyền hạn giữa doanh nghiệp nhà nước với chính quyền; phân biệt rõ quyền sở hữu với quyền kinh doanh; xác định doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế có quyền tự kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, trên cơ sở đó xây dựng các hình thức chế độ trách nhiệm. Biện pháp tiến hành chủ yếu là thực hiện chế độ khoán trong kinh doanh đối với phần lớn các doanh nghiệp, chế độ thuế kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước loại nhỏ, đồng thời bước đầu tiến hành thí điểm chế độ cổ phần và tập đoàn doanh nghiệp. Từ năm 1997, cả nước có 95% doanh nghiệp nhà nước công thương thực hiện chế độ khoán trách nhiệm kinh doanh. Thông qua hình thức ký hợp đồng, chế độ khoán trách nhiệm đã xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước với doanh nghiệp, làm cho trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp có sự kết hợp chặt chẽ và được thực hiện thực sự.Tuy nhiên, chế độ nhận khoán kinh doanh kéo theo vấn đề phức tạp mới như sự phân phối thiên về dành cho doanh nghiệp và cá nhân, tỷ lệ thu nhập tài chính của nhà nước suy giảm mạnh, doanh nghiệp chỉ cần lãi mà không chịu lỗ; các doanh nghiệp chỉ coi trọng sản xuất, xem nhẹ đầu tư và không chú ý bảo dưỡng trang thiết bị. Giai đoạn 3: Từ tháng 1-1992 đến nay. Nổi bật nhất giai đoạn này là cải cách doanh nghiệp theo mục tiêu tổng thể của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, xây dựng doanh nghiệp nhà nước thành thực thể pháp nhân độc lập và chủ thể cạnh tranh trên trường quốc tế và nội địa. Doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường theo nguyên tắc tự đào thải. Tháng 11-1993, Hội nghị Trung ương 3, khoá XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại” đã xác định rõ cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại”. Đặc trưng là quyền tài sản và trách nhiệm quyền hạn đều rõ ràng, chính quyền và doanh nghiệp phải tách rời nhau. Đáng chú ý là các doanh nghiệp nhà nước thực hiện chế độ công ty theo các hình thức: công ty vốn nhà nước 100%, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần hữu hạn. Từ năm 1994, Chính phủ và các ngành đã chọn 100 doanh nghiệp để thí điểm xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Tính đến cuối năm 1995, tổng giá trị tài sản của 100 doanh nghiệp thí điểm là 308,3 tỷ NDT, tăng 15,5% so với năm 1994. Tính đến cuối năm 1998, trong tổng số 2.500 doanh nghiệp tham gia thí điểm, có 2.200 doanh nghiệp hoàn thành cải cách chế độ công ty. Như vậy, sau một thời gian dài thí điểm, đến Hội nghị Trung ướng 5, khoá XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cải cách doanh nghiệp nhà nước đã tạo ra một bước đột phá về lý luận. Theo đó, dưới tiền đề tập trung phát triển kinh tế nhà nước, Trung Quốc đã nhấn mạnh đến việc loại bỏ dần những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp tháng 11-2002 đã chủ trương: Đi sâu cải cách doanh nghiệp nhà nước, ngoài một số ít doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động với 100% vốn nhà nước, cần tích cực đẩy mạnh thực hiện chế độ cổ phần, phát triển kinh tế sở hữu hỗn hợp, thực hiện đa nguyên hoá chủ thể đầu tư, những doanh nghiệp nhà nước quan trọng do nhà nước khống chế cổ phần. Về vấn đề xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại, tại Hội nghị Trung ương 3, khoá XIV (14-11-1993), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh: Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại là yêu cầu tất yếu của nền sản xuất lớn; xã hội hoá là phương hướng của công cuộc cải cách doanh nghiệp quốc hữu. Trung Quốc đã thử nghiệm xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại, thực chất là tiến hành công ty hoá các doanh nghiệp nhà nước bằng biện pháp cổ phần hoá.. Tại Đại hội Đảng XV (9/1997), Tổng Bí thứ Giang Trạch Dân đã khẳng định chế độ cổ phần là hình thức tổ chức vốn của doanh nghiệp nhà nước, có lợi cho việc tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh, nâng cao hiệu quả vận hành doanh nghiệp và sử dụng vốn. Từ khi nước ta giành độc lập tới nay, kinh tế Nhà nước dù trong thời kì bao cấp hay trong nền kinh tế thị trường cũng đều có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước .Tuy, vẫn còn tồn tại những bất cập, những hạn chế,chưa tạo nên dược hình ảnh kiểu mẫu về “doanh nghiệp Nhà nước”. Song cũng không thể phủ nhận vai trò chủ đạo , là nền tảng của nền kinh tế quốc dân của thành phần kinh tế này. Đất nước ta dang trong tiến trình hội nhập, bước vào trường quốc tế ,chơi theo luật chơi của kinh tế thị trường toàn cầu, mức cạnh tranh , sự thử thách là rất lớn, kinh tế Nờa nước cần cải tổ cơ cấu , phát huy tích cực vai trò của mình. IV.Chú thích (1): văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ IX,NXB Quốc gia ,Hà Nội.2001 (2) :văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ IX,NXB Quốc gia ,Hà Nội2001 (3): sách kinh tế vi mô Tham khảo Trang web www.moi.gov.vn _ bộ công thương www.gso.gov.vn _tổng cục thống kê www.vietnamnet.vn www.hanoimoi.com _báo Hà Nọi mới www.mpi.gov.vn _bộ kế hoạch và đầu tư www.cpv. org.vn _báo điện tử cộng sản sách kinh tế vi mô Sở hữu Nhà nước và doanh nghiêpi Nhà nưởctong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Sách kinh tế chính trị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7364.doc
Tài liệu liên quan