Việt Nam bắt đầu ghép thận từ 12/1992,
trong điều kiện kinh tế khó khăn, người bệnh có
mức sống thấp, nên tỉ lệ bệnh lao khá cao 6,44%
(bảng 4) so với tỷ lệ lưu hành 0,14% trong cả
nước(105). Điều này đã cảnh báo chúng tôi phải
chú ý đến liều thuốc UCMD mà bệnh nhân đang
sử dụng, số lần bị thải ghép, vệ sinh môi trường
sống và tầm soát bệnh định kỳ hàng năm.
Trong thời gian đầu chúng tôi không chủ
động tầm soát lao, nên hầu hết BN có triệu
chứng lâm sàng khi chẩn đoán xác định lao (ho,
sốt về chiều). Từ năm 2008, có kế hoạch tầm soát
định kỳ bằng X-quang phổi mỗi năm một lần,
lao được phát hiện từ rất sớm và hầu hết không
có triệu chứng lâm sàng, ngoại trừ những TH
lao ngoài phổi.
Lịch theo dõi định kỳ sẽ được thực hiện mỗi
tuần, mỗi hai tuần hoặc mỗi tháng một lần tùy
theo từng bệnh nhân.
Điều trị lao với phác đồ cổ điển
R12H12E12Z12 có tỷ lệ thành công cao, nhưng
chính Rifampin ảnh hưởng làm giảm nồng độ
CNI(1,28,510,11), nên phải tăng liều CNI nhằm đạt
được nồng độ yêu cầu.
Chính việc tăng liều này không chỉ làm tăng
chi phí điều trị mà còn làm tăng tác dụng phụ,
1/31 (3,23%) TH phải ngưng điều trị lao lúc 6
tháng (kết hợp sử sụng thêm Quinolone và kiểm
tra thương tổn ở phổi đã sạch).
Từ đầu năm 2010 chúng tôi ứng dụng phác
đồ mới, đối phó với tình trạng kháng thuốc,
bằng công thức H12E12Z12Q12, 5/31 (16,13%) hoặc
H18E18Z3Q9(6,7). Đồng thời nhằm hạn chế sự thay
đổi của nồng độ thuốc CNI, cho đến nay vẫn
đang còn trong quá trình điều trị, chưa thấy có
trường hợp nào thải ghép.
Biến chứng đáng ngại là tác dụng phụ mờ
mắt, có 1/5TH điều trị được 3 tháng, nhược cơ
phải thở máy, chức năng thận vẫn tốt, người nhà
không đồng ý điều trị tiếp.
Khảo sát mối liên quan giữa 2 trung tâm
ghép với tần xuất mắc bệnh lao nhận thấy sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, như
vậy ghép ở những trung tâm khác nhau không
làm thay đổi tỷ lệ bệnh lao (bảng 4).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 150 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lao trên người ghép thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 500
LAO TRÊN NGƯỜI GHÉP THẬN
Dư Thị Ngọc Thu*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Nguyễn Trọng Hiền*, Trần Ngọc Sinh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện nay lao vẫn còn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước đang phát triển. Việt
Nam nằm trong vùng dịch tễ của lao, với tỷ lệ lưu hành 0.14%.Lao cũng đặc biệt nghiêm trọng hơn trên những
bệnh nhân (BN) suy giảm miễn dịch (SGMD) (HIV, ghép tạng). Mục tiêu của bài báo cáo này nhằm đánh giá
tần suất bệnh, đặc điểm lâm sàng, đáp ứng với điều trị lao trên những bệnh đang theo dõi tại Bệnh viện Chợ Rẫy
(BVCR).
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu đối với tất cả các BN đang theo dõi tại
phòng khám ghép thận BVCR chia thành hai nhóm, và tất cả đều không có tiền căn lao. Nhóm 1: được ghép tại
BVCR; Nhóm 2: ghép từ các trung tâm khác. Cả 2 nhóm đều được áp dụng cùng một phác đồ theo dõi sau ghép
ngay lần đầu tiên đến khám bệnh. Các xét nghiệm tầm soát lao: BK/đàm 3-5 lần, CRP/ máu, PCR lao/ đàm, VS,
X quang tim phổi thẳng. Phác đồ điều trị lao: R12H12E12Z12, (Q3) và từ 1/2010 áp dụng phác đồ H12E12Z12, (Q12)
hoặc H18E18Z3Q9.
Kết quả: Có 481 BN theo dõi tại BVCR từ 12/1992 đến 02/ 2011. Nhóm 1: 209/481 (43,45%) TH. Nhóm 2:
272/481 (56,55%) TH. Có 31/481 (6,44%) TH bị mắc bệnh lao (phổi, hạch, màng bụng...). Tuổi trung bình
42,4±13,4. Thời gian khởi phát lao trung bình cho cả hai nhóm 44.1±33 tháng. Thuốc ức chế miễn dịch
(UCMD): Steroid/CsA/FK506/MMF. Dẫn nhập với Basiliximab. Thường gặp là lao phổi 3,74%, lao phổi có các
bệnh khác kèm theo và lao phổi thứ phát sau điều trị (1,66%). Phác đồ điều trị lao: R12H12E12Z12, (Q3) và
H12E12Z12, (Q12). Khỏi bệnh 70,97%.
Bàn luận và kết luận: Do điều kiện kinh tế khó khăn, người bệnh có mức sống thấp, nên tỉ lệ bệnh lao khá
cao 6.44% so với tỷ lệ lưu hành 0.14% trong cả nước. Điều này đã cảnh báo chúng tôi phải chú ý đến việc tầm
soát bệnh định kỳ hàng năm.
Từ khóa: Bệnh lao, ghép thận, biến chứng nhiễm khuẩn sau ghép.
ABSTRACT
TUBERCULOSIS IN RENAL TRANSPLANTS AT CHO RAY HOSPITAL
Du Thi Ngoc Thu, Hoang Khac Chuan, Nguyen Trong Hien, Tran Ngoc Sinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 500 - 505
Background: Tuberculosis (TB) is still a major cause of morbidity and mortality worldwide, especially in
developing countries. TB is also a serious opportunistic infection in transplant recipients. The TB incidence is 20
to 74 times greater than among the general population. This report assecces the annual incidence of TB in a
cohort of kidney transplant recipients in an endemic region, evaluates the management of anti-tuberculosis
treatment and concomitant immunosuppression.
Materials and method: Case study. Patients (pts) were who underwent a kidney transplatation and were
on postoperative following up in Cho Ray Hospital (CRH). There are two groups, the first group were
transplanted at the CRH, the second group were performed at other centers. The diagnosis of TB was defined as
the presence of acid-fast bacilli (ABF) on the smear or by the elevation of ESR, CRP, and was confirmed by
* Khoa Tiết Niệu, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Dư Thị Ngọc Thu ĐT: 0913677016 Email: duthingocthubvcr@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 501
positive cultures or PCR with identification of Mycobacterium tuberculosis, or biopsy. The standard of treatment
for TB at our institution includes the administration of R12H12E12Z12, (Q3) and H12E12Z12, (Q12) or H18E18Z3Q9(6,7).
Results: 481 pts from 12/1992 to 02/ 2011. The first group: 209/481 (43.45%) pts were transplanted at the
CRH. The second group: 272/481 (56.55%) pts were performed at other centers. TB was diagnosed in 31/481
(6.24%). The average age is 40±12.8y/o. Median time of TB onset was 44.1±33 months.. All had triple
immunosuppression with steroid\CNI\AZA\MPA. The Basiliximab had been using for induction therapy.
70,97%, pts recover from TB disease.
Discussion and conclusion: There are many difficulties from economy, poor hygiene and high rate of TB
in general as well as in transplant communities (0.076 and 6.23% respectively). These warn us to do TB
screening test annually.
Key words : tuberculosis, kidney transplantation, infection after kidney transplantation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay lao vẫn còn là nguyên nhân gây tử
vong hàng đầu ở các nước đang phát triển. Việt
Nam nằm trong vùng dịch tễ của lao, với tỷ lệ
lưu hành 0,14%(10,11). Lao cũng đặc biệt nghiêm
trọng hơn trên những bệnh nhân suy giảm miễn
dịch (SGMD) (HIV, ghép tạng). Mục tiêu của
bài báo cáo này nhằm đánh giá tần suất bệnh,
đặc điểm lâm sàng, đáp ứng với điều trị lao trên
những bệnh đang theo dõi tại Bệnh viện Chợ
Rẫy (BVCR).
TƯ LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu đối với tất cả
các bệnh nhân đang theo dõi tại phòng khám
ghép thận BVCR. Có hai nhóm bệnh nhân, và tất
cả bệnh nhân đều không có tiền căn lao. Nhóm 1:
bệnh nhân được ghép tại BVCR (ghép thận từ
người cho chết não và ghép thận từ người cho
sống); Nhóm 2: ghép từ các trung tâm khác
(người cho sống và người cho là tử thi). Cả 2
nhóm đều được áp dụng cùng một phác đồ theo
dõi sau ghép thận ngay lần đầu tiên đến khám
bệnh. Các xét nghiệm được sử dụng để tầm soát
lao: BK/đàm 3-5 lần, CRP/ máu, PCR lao/ đàm,
VS, X quang tim phổi thẳng. Phác đồ điều trị lao:
R12H12E12Z12, (Q3) và từ 1/2010 áp dụng phác đồ
H12E12Z12, (Q12) hoặc H18E18Z3Q9(6,7).
KẾT QUẢ
Có 481 bệnh nhân đang theo dõi tại phòng
khám ghép thận BVCR từ 12/1992 đến 02/ 2011.
Có hai nhóm bệnh nhân, và tất cả bệnh nhân
đều không có tiền căn lao.
Nhóm 1: 209/481 (43,45%) bệnh nhân được
ghép tại BVCR (6/209TH (2,87%) ghép thận từ
người cho chết não và 203/209TH (97,13%) ghép
thận từ người cho sống).
Nhóm 2: 272/481 (56,55%) TH ghép từ các
trung tâm khác (người cho sống và người cho là
tử thi). Trong quá trình theo dõi chúng tôi phát
hiện 31/481 (6,44%) TH (21 nam, 10 nữ). Trong
đó 11/31 (35,48%) TH ghép BVCR, 20/31 (64,52%)
TH ghép tại trung tâm ghép khác. Tất cả đều
không phát hiện lao trước ghép ngoại trừ 1TH
ghép tại trung tâm khác, tràn dịch màng phổi
phải trước đó nhưng không có bằng chứng lao
nên không điều trị đặc hiệu và đây cũng là TH
được chẩn đoán-điều trị lao sớm nhất sau khi
ghép (36 ngày sau ghép).
Tuổi trung bình lúc chẩn đoán lao 42,4±13,4.
Thời gian khởi phát lao trung bình cho cả hai
nhóm 44.1±33 tháng sau ghép, nhóm thứ nhất
38,5±35,4 tháng, nhóm hai 47,2±33,5 tháng.
Liệu pháp ức chế miễn dịch được áp dụng
tại BVCR như sau (bảng 1):
Bảng 1: Liệu pháp ức chế miễn dịch được áp dụng tại
BVCR
Điều trị dẫn nhập 1992-2003 2004-2008 2008-nay
Sandimmum Neoral N0 6mg/kg/ 24h (TM)
N0 6mg/kg/
24h (TM)
N0 không sử
dụng
Dacluzimabe
(Zenapax)
Chưa có
thuốc,
(hàng tặng)
Hết thuốc Hết thuốc
Basiliximab
(Simulect)
Chưa có
thuốc
Sử dụng thường qui
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 502
Điều trị dẫn nhập 1992-2003 2004-2008 2008-nay
CÔNG THỨC
UCMD
Steroid+CsA+AZA ++++ ++++ Missmatch thấp
Steroid+Tacrolimus
+ MMF/MPA
Chưa có
thuốc/
BHYT
Chỉ sử dụng
khi có chỉ
định
Thường qui
Nhóm ghép từ nơi khác đến, điều trị dẫn
nhập không rõ loại thuốc. Khi bệnh nhân đến
khám và theo dõi tại BVCR, chúng tôi tiếp tục sử
dụng cùng loại thuốc mà người bệnh đang có,
chỉnh liều thuốc cho thích hợp với tình trạng
bệnh. Công thức thuốc thường được sử dụng
cho nhóm này là Steroid/ Tacrolimus/
Sandimmum Neoral/MMF.
Phần lớn các bệnh nhân thường gặp là lao
phổi, chiếm 3,74% các trường hợp, kế đến là lao
phổi có các bệnh khác kèm theo và thường thì
gặp lao phổi thứ phát sau điều trị (1,66%) (bảng
2 và hình 1).
Bảng 2: Các trường hợp bệnh lao gặp phải tại BVCR
Lao phổi Lao
ngoài
phổi *
Lao nhiều
cơ quan
**
Lao phổi
kèm bệnh
khác ***
Tổng
cộng
Số TH 18 3 2 8 31
Tỉ lệ%
(n=481)
3,74 0,62 0,42 1,66 6,44
* hạch, khớp gối, màng bụng; **phổi- cột sống, lao ống tai;
*** VGSV, đái tháo đường, bướu bàng quang, ung thư tế
bào thận, nhiễm Cytomegalovirus.
18
3.74 3 0.62 2 0.42
8
1.66
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
Số TH và tỉ lệ %
Lao phổi Lao ngoài phổi Lao nhiều cơ
quan
Lao phổi kèm
bệnh khác
Bệnh lý
Số TH
Tỉ lệ % (n=481)
Biểu đồ 1: Mô tả số TH và tỉ lệ phần trăm các cơ quan mắc bệnh lao
Chẩn đoán xác định lao chủ yếu dựa vào
các kết qủa huyết học và vi sinh: BK trong
đàm/dịch tiết cơ thể, PCR lao trong đàm/dịch
tiết cơ thể, tốc độ lắng máu, CRP máu, chẩn
đoán hình ảnh (X quang, CTScan), giải phẫu
bệnh học. Áp dụng điều trị lao theo phác đồ cổ
điển với R12H12E12Z12. Đến 2010, áp dụng công
thức điều trị lao theo phác đồ mới với
H12E12Z12,Q12 hoặc H18E18Z3Q9, liều lượng được
điều chỉnh tùy vào GFR lúc chẩn đoán lao và
trong quá trình điều trị (bảng 3).
Bảng 4: Kết quả điều trị lao
Khỏi
bệnh
thêm 6
tháng
Phác đồ
mới
Tử vong Tổng
cộng
Số TH 21 1* 5** 4*** 31
Tỉ lệ%
(n=31)
67,74 3,23 16,13 12,90 100,00
* lao hạch, **áp dụng phác đồ điều trị mới với
HZE+Quinolone còn đang trong quá trình điều trị ***tử
vong do các bệnh lý đi kèm (1TH do rối loạn điện giải nặng
trên BN đái tháo nhạt, 1TH do hạ đường huyết ở BN đái
tháo đường, 1TH do bướu bàng quang di căn, 1TH do tác
dụng phụ của thuốc kháng lao (mờ mắt và nhược cơ, TH
này tử vong do người nhà không muốn tiếp tục điều trị).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 503
MỘT SỐ HÌNH ẢNH THƯƠNG TỔN LAO
Hình 2: Thương tổn lao ở phổi
Hình 3: Thương tổn lao hạch ở cổ
A
B
C
Hình 4: Thương tổn lao ống tai giữa: X quang, nội
soi và giải phẫu bệnh (A: X quang chủm, B: nội soi
tai và C: Giải phẫu bệnh)
Hình 5: Thương tổn lao tại đốt sống thắt lưng bụng 4 và 5
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 504
BÀN LUẬN
Việt Nam bắt đầu ghép thận từ 12/1992,
trong điều kiện kinh tế khó khăn, người bệnh có
mức sống thấp, nên tỉ lệ bệnh lao khá cao 6,44%
(bảng 4) so với tỷ lệ lưu hành 0,14% trong cả
nước(105). Điều này đã cảnh báo chúng tôi phải
chú ý đến liều thuốc UCMD mà bệnh nhân đang
sử dụng, số lần bị thải ghép, vệ sinh môi trường
sống và tầm soát bệnh định kỳ hàng năm.
Trong thời gian đầu chúng tôi không chủ
động tầm soát lao, nên hầu hết BN có triệu
chứng lâm sàng khi chẩn đoán xác định lao (ho,
sốt về chiều). Từ năm 2008, có kế hoạch tầm soát
định kỳ bằng X-quang phổi mỗi năm một lần,
lao được phát hiện từ rất sớm và hầu hết không
có triệu chứng lâm sàng, ngoại trừ những TH
lao ngoài phổi.
Lịch theo dõi định kỳ sẽ được thực hiện mỗi
tuần, mỗi hai tuần hoặc mỗi tháng một lần tùy
theo từng bệnh nhân.
Điều trị lao với phác đồ cổ điển
R12H12E12Z12 có tỷ lệ thành công cao, nhưng
chính Rifampin ảnh hưởng làm giảm nồng độ
CNI(1,28,510,11), nên phải tăng liều CNI nhằm đạt
được nồng độ yêu cầu.
Chính việc tăng liều này không chỉ làm tăng
chi phí điều trị mà còn làm tăng tác dụng phụ,
1/31 (3,23%) TH phải ngưng điều trị lao lúc 6
tháng (kết hợp sử sụng thêm Quinolone và kiểm
tra thương tổn ở phổi đã sạch).
Từ đầu năm 2010 chúng tôi ứng dụng phác
đồ mới, đối phó với tình trạng kháng thuốc,
bằng công thức H12E12Z12Q12, 5/31 (16,13%) hoặc
H18E18Z3Q9(6,7). Đồng thời nhằm hạn chế sự thay
đổi của nồng độ thuốc CNI, cho đến nay vẫn
đang còn trong quá trình điều trị, chưa thấy có
trường hợp nào thải ghép.
Biến chứng đáng ngại là tác dụng phụ mờ
mắt, có 1/5TH điều trị được 3 tháng, nhược cơ
phải thở máy, chức năng thận vẫn tốt, người nhà
không đồng ý điều trị tiếp.
Khảo sát mối liên quan giữa 2 trung tâm
ghép với tần xuất mắc bệnh lao nhận thấy sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, như
vậy ghép ở những trung tâm khác nhau không
làm thay đổi tỷ lệ bệnh lao (bảng 4).
Bảng 5: Liên quan giữa lao và trung tâm ghép
Lao Không lao Tổng số
Nhóm 1 11 198 209
Nhóm 2 20 252 272
Tổng số 31 450 481
KẾT LUẬN
Nhiễm khuẩn là mối đe dọa tử vong đứng
hàng đầu(9,3,10) sau khi ghép cơ quan. Lao sau
ghép cũng không kém phần quan trọng, nó làm
giảm chất lượng cuộc sống người bệnh và đời
sống thận ghép.
Do đó, việc cải thiện môi trường sống, nâng
cao mức sống, tầm soát bệnh hàng năm, Kiểm
soát liều thuốc UCMD(1,10) góp phần làm giảm tỉ
lệ bùng phát bệnh lao khá nhiều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Atasever A, Bacakoglu F, Toz H, Basoglu OK, Duman S,
Basak K, Guzelant A and Sayiner A (2005). “Tuberculosis in
renal transplant recipients on various immunosuppressive
regimens”. Nephrol Dial Transplant 20: 797–802.
2. Capone D, Tarantino G, Polichetti G, Kadilli I, Sabbatini M,
Basile V, Carrano R, Nappi R, Federico S (2009). Absence of
pharmacokinetic interference of Moxifloxacin on
Cyclosporine and Tacrolimus in kidney transplant recipients.
3. da Costa PAC, Arau´ JM., Rodrigues M.E., and de Carvalho
DBM. (2004). “Tuberculosis in Renal Transplants in Rio De
Janeiro”. Transplantation Proceedings, 36, 905–906.
4.
(2008) Avelox (Moxifloxacin) – Current clinical trials, 2006-
2010. TBTC study 27/28PK: Moxifloxacin pharmacokinetics
during TB treatment. Information source: Centers for disease
control and prevention information obtained from clinical
trials gov on June 20
5.
02.html. (2011) Moxifloxacon, The American society of health
system pharmacists, Inc. Diclaimer.
6. John GT and Shankar V (2002). Mycobacterial Infections in
Organ Transplant Recipients. Seminars in Respiratory
Infections, Vol 17, No 4, pp 274-283.
7. John GT, Shankar V, Abraham AM, et al (2001). Risk Factors
For Post-Transplant Tuberculosis. Kidney International, Vol
60, No 4, pp 1148-1153.
8. Mercadal L, Foltz V, Isnard-Bagnis C, Ourahma S, and Deray
G (2005) ”Tuberculosis After Conversion From Azathioprine
to Mycophenolate Mofetil in a Long-Term Renal Transplant
Recipient” Transplantation Proceedings, 37, 4241–4243.
9. Naqvi A., Akhtar F., Naqvi R., Akhtar S., Askari H., Lal M.,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 505
Bhatti S., Shahzad A., Soomro S., and Rizvi A.. (1997)
”Problems of Diagnosis and Treatment of Tuberculosis
Following Renal Transplantation” Transplantation
Proceedings, 29, 30513052
10. Nguyen Binh Hoa, Dinh Ngoc Sy, Nguyen Viet Nhung,
Tiemersma EW, Borgdorff MW & Cobelens FGJ (2010)
”National survey of tuberculosis prevalence in Viet Nam”,
Bull World Health Organ 2010;88:273–280.
11. Rungruanghiranya S, Ekpanyaskul C, Jirasiritum S, Nilthong
C, Pipatpanawong K, and Mavichak V (2008): “Tuberculosis
in Thai Renal Transplant Recipients: A 15-Year Experience”
Transplantation Proceedings, 40, 2376–2379.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lao_tren_nguoi_ghep_than.pdf