Lễ hội dân gian và sự phát triển du lịch hiện nay

3. Như vậy, du lịch rõ ràng là đã góp phần phát triển lễ hội dân gian một cách tích cực. Một phần nhờ vào du lịch mà lễ hội dân gian được gìn giữ, phát huy và làm giàu, các phong tục tập quán, các giá trị văn hóa trong lễ hội dân gian được khôi phục lại để phục vụ du khách, các nét bản sắc văn hóa của từng lễ hội, từng vùng miền được khẳng định trong niềm tự hào và người dân mong muốn bảo tồn nó. Ở chiều tương tác ngược lại, lễ hội dân gian hỗ trợ đắc lực cho sự tăng trưởng của ngành du lịch, trước hết lễ hội dân gian giúp cho bức tranh du lịch của nước ta thêm phong phú với đa dạng hơn các sự lựa chọn cho du khách, lễ hội dân gian mang đậm bản sắc của văn hóa làng, văn hóa Việt Nam vì vậy rất hấp dẫn các du khách nước ngoài, ngành Du lịch dựa vào nguồn lực văn hóa đa dạng và đặc sắc này mà có thêm được số lượng lớn du khách trong nước và nước ngoài. Có thể nói, bức tranh lễ hội đa dạng và sôi nổi hiện nay, kết nối với những bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đương đại là điều kiện rất tốt cho sự phát triển du lịch. Chúng ta đã và đang chứng kiến một xu hướng nổi trội của những sự phục hồi của lễ hội dân gian trong sự tác động, chi phối ảnh hưởng mạnh mẽ của kinh tế thị trường thì lễ hội như một nguồn lực cho sự phát triển du lịch. Lễ hội và du lịch là hai phạm trù gắn bó mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và cùng được khuyến khích phát triển trong bối cảnh hiện nay. Chỉ khi chúng ta hiểu rõ được về các vấn đề này và nhìn nhận chúng trong sự gắn kết của tổng thể các yếu tố văn hóa và xã hội, chính trị và kinh tế thì lễ hội truyền thống sẽ đem lại những lợi ích không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lễ hội dân gian và sự phát triển du lịch hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
69Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA LỄ HỘI DÂN GIAN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH HIỆN NAY LÊ HỒNG LÝ* Tóm tắt Lễ hội dân gian Việt Nam với số lượng lên đến 7.039 trong tổng số gần 8.000 lễ hội, lại trải rộng khắp các làng quê, vùng miền trên cả nước cho thấy đây là một tiềm năng vô cùng to lớn cho phát triển du lịch. Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp, đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của con người. Ngoài việc đi hội như một nhu cầu tâm linh không thể thiếu được của người Việt Nam, thì đi hội còn là một sự khám phá về di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc sản văn hóa, ẩm thực,... của mỗi địa phương. Do vậy, du lịch lễ hội là một nguồn lực không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa đối với việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế thị trường, việc biến di sản văn hóa thành một tài sản kinh tế phục vụ đời sống lại càng mang tính thời sự. Du lịch và lễ hội dân gian có quan hệ tương tác tích cực để cùng nhau phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số hạn chế của lễ hội dân gian trong bối cảnh phát triển du lịch hiện nay như sự nhàm chán, thế tục hóa, giảm tính thiêng hay sự lộn xộn trong thực hành các lễ hội dân gian. Do vậy, để lễ hội dân gian ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển du lịch, đem lại lợi ích kinh tế cho mỗi địa phương, đòi hỏi công tác nghiên cứu và quản lý cần được đề cao và chú trọng. Từ khóa: Lễ hội dân gian, du lịch, du lịch văn hóa, du lịch lễ hội, nguồn lực di sản Abstract In Vietnam, out of nearly 8,000 festivals, 7,039 are folk festivals which spread throughout the rural villages and other regions across the country, showing that this is a huge potential for tourism development. Festival tourism is a form of integrated tourism that meets many human needs at the same time. Apart from going to the festival as an indispensable spiritual demand of Vietnamese people, it is also an exploration of historical, cultural monuments, cultural and culinary specialties, ... of each locality. Therefore, festival tourism is a significant source of economic, social and cultural development for the country’s development in the current period. Especially, in the context of market economy, turning cultural heritage into an economic asset for life is even more topical. Tourism and folk festivals have a positive interaction to develop together. However, there are also some limitations of folk festivals in the context of current tourism development such as boredom, secularization, reduced sacredness or confusion in the practice of folk festivals. So in order to make folk festivals to become an important source of tourism development, bringing economic benefits to each locality, the research and management need to be respected and focused. Keywords: Folk festivals, tourism, cultural tourism, festival tourism, heritage resources 1. Với số lượng đến 7.039 [2], lễ hội dân gian trải rộng khắp các làng quê, vùng miền trên cả nước đã cho thấy một tiềm năng vô cùng to lớn của lễ hội dân gian đối với việc phát triển du lịch. Hơn thế, các lễ hội dân gian Việt Nam còn vô cùng đa dạng về loại hình lễ hội cũng như các nét đặc trưng nổi bật của mỗi lễ hội gắn với từng vùng miền. * GS.TS., Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Số 31 (Tháng 3 - 2020)70 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Lễ hội và du lịch luôn gắn bó chặt chẽ với nhau từ trong quá khứ cho tới hiện tại. Những hội làng tưng bừng thuở xưa, cho dù chưa xuất hiện thuật ngữ du lịch, đã luôn hấp dẫn những người tham gia từ các làng khác, vùng khác hay ít nhất cũng là những làng kết chạ hay có quan hệ mật thiết với làng có lễ hội. Có thể nói, không có (hoặc là rất hiếm có) lễ hội dân gian nào lại chỉ được tổ chức với số người tham dự chỉ riêng của cộng đồng ấy mà luôn có cả những người ngoài cộng đồng. Yếu tố hành hương, yếu tố du lịch manh nha từ đó. Hiện nay, trong xu thế phát triển nở rộ của các lễ hội dân gian, trong bối cảnh một thế giới hội nhập, một xã hội hiện đại, các lễ hội dân gian ngày càng trở thành đối tượng thu hút đông đảo khách du lịch, khách hành hương. Có lẽ trong tất cả các hoạt động văn hóa thì du lịch là hoạt động duy nhất không bao giờ nhàm chán. Bất kể một địa danh nào đối với du khách đều là một địa điểm khám phá hết sức thú vị và luôn hấp dẫn. Nhu cầu du lịch của con người trong xã hội hiện nay rất lớn và du lịch lễ hội, du lịch văn hóa đang trở thành một trong những loại hình du lịch phổ biến ở một đất nước nhiều lễ hội như nước ta. Du lịch để tìm hiểu đất nước, để giải trí, nghỉ ngơi, thăm viếng các danh lam thắng cảnh và hiểu biết thêm về các vùng văn hóa là nhu cầu của phần đông dân chúng trong xã hội hiện nay. Với du lịch lễ hội, người ta vừa được thực hành nghi lễ, lại vừa được thăm những cảnh đẹp, những di tích, phong tục tập quán, được thưởng thức và mua sắm những đặc sản địa phương, cùng những trải nghiệm du lịch thú vị và lợi ích. Khi mức sống được nâng cao, nhu cầu du lịch lại càng mạnh mẽ. Nếu như trước đây, đi du lịch đối với người Việt là một sự xa xỉ thì ngày nay là một việc hết sức bình thường đối với một bộ phận đông đảo dân chúng. Ngay cả đối với người nông dân bình thường, việc đi hội trong vùng và xa hơn một chút cũng là chuyện dễ dàng. Hơn nữa, khi số ngày nghỉ được tăng từ một đến hai ngày trong tuần, số ngày nghỉ lễ cũng tăng lên,... thì nhu cầu đi du lịch trở thành một đòi hỏi ngày càng mạnh mẽ. Từ đó tạo điều kiện cho việc khai thác lễ hội dân gian ở các vùng nông thôn từ đồng bằng cho đến miền núi xa xôi, thậm chí càng xa càng thu hút du khách. Các hội làng ở khắp nơi được mở ra, và từ đó, rất nhiều những phong tục tập quán, cùng các giá trị văn hóa được khôi phục lại để phục vụ du khách xa gần. Như vậy, ở một góc độ nào đó, du lịch đã góp phần phát triển lễ hội dân gian một cách tích cực. Ngoài việc được đi lễ ở nhiều địa điểm khác nhau, được cầu khấn nhiều vị thần linh hơn, thì người đi lễ còn có điều kiện thăm thú nhiều hơn các vùng đất mới lạ đối với họ. Từ đây, cho thấy du lịch ngày càng là một nhu cầu lớn đối với người đi lễ. Du lịch lễ hội hiện nay đã và đang trở thành một hiện tượng phổ biến gần gũi (với một số thuật ngữ như “Du lịch văn hóa”, “Du lịch tâm linh”, “Du lịch cộng đồng”, “Du lịch trải nghiệm”). Với con người đương đại, việc tham dự lễ hội, đi lễ hội như một cuộc hành hương tâm linh, nhất là trong bối cảnh bất an của đời sống công nghiệp. Nhiều nhà khoa học đã cho rằng, khi khoa học phát triển ở trình độ cao thì tôn giáo, tín ngưỡng sẽ bị mất đi, song thực tế hiện nay cho thấy, khoa học đã phát triển rất cao, rất hiện đại nhưng tôn giáo, tín ngưỡng không hề mất đi, thậm chí còn phát triển mạnh hơn trước. Bằng chứng ở Việt Nam cũng cho thấy rất rõ điều đó, các lễ hội được tổ chức nhiều hơn hẳn trước đây, và người dân đủ mọi tầng lớp từ trí thức đến dân nghèo ai cũng tham gia vào các lễ hội ấy. Phải chăng do cuộc sống hiện đại xuất hiện những thách thức mới, đôi khi còn khốc liệt hơn cuộc sống trước đây, với những tai nạn giao thông, ngộ độc thức ăn hàng loạt, các bệnh hiểm nghèo gia tăng, ô nhiễm môi trường, thảm họa bệnh dịch lan tràn Con người hiện đại thấy cuộc sống bất an nên lại quay về với niềm tin tâm linh nhằm cầu cứu các đấng siêu nhiên che chở cho cuộc sống. Như vậy, lễ hội dân gian vẫn đóng vai trò cân bằng đời sống tâm linh, an ủi con người thời hiện đại. Tham dự lễ hội, con người còn giải tỏa được những áp lực căng thẳng của cuộc sống hiện đại với tốc độ chóng mặt của biết bao công việc hàng ngày mà mỗi con người phải đối mặt, bên cạnh đó, hành 71Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA hương tham dự lễ hội cũng giống như hình thức du lịch giải trí, khám phá những nét văn hóa của một vùng đất mới, nhất là đối với giới trẻ và lễ hội cũng có thể trở thành không gian cho các chuyến picnic, các dịp tụ họp Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp, đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của con người. Chẳng hạn một du khách chọn một lễ hội nào đó để đi du lịch, du khách đó sẽ được thăm viếng khu di tích - không gian tổ chức lễ hội, được thực hành việc cúng lễ thần linh, được tĩnh tâm tập trung vào việc cầu khấn, mong muốn thần linh phù hộ độ trì cho mình và gia đình. Nhìn bề ngoài, hiện tượng này rất bình thường, song về mặt tâm lý thì đây là một tác động rất lớn đối với cá nhân du khách. Hơn thế nữa, từ việc lễ bái, xin lộc, đôi khi cả xin quẻ, xin xăm, nếu gặp được quẻ hay thì tạo cho người ấy một niềm tin mãnh liệt vào những may mắn trong tương lai, nếu gặp phải quẻ xấu thì tâm lý của du khách khá nặng nề và lại thúc đẩy việc tiếp tục cầu khấn. Từ đây có thể thấy sự tác động của thực hành tâm linh đến du khách mạnh mẽ thế nào. Ngoài việc thỏa mãn nhu cầu lễ cho bản thân và những người thân, du khách còn đem về những vật phẩm là lộc có thể để ăn (như hoa, quả, bánh, kẹo...), để thờ cúng trong năm (như vàng, tiền và các đồ mã khác), để sử dụng (như bùa hay vật thiêng nào đó) cho người lớn, người ốm hay trẻ nhỏ... Điều này tạo tâm lý an tâm, thoải mái và vui vẻ cho du khách. Bên cạnh việc lễ bái thoả mãn tâm linh, du khách còn được hưởng thụ về mặt tinh thần như tham gia vào lễ tế, rước xách, nhảy, múa, trò chơi, trò diễn... Tại những sinh hoạt này, du khách được đắm mình vào không khí hội hè: cẩn trọng, thiêng liêng, từ tốn trong đám rước hay lễ bái; vui hết mình trong những trò chơi, cuộc đua tranh giành, hò hét, hồi hộp và cay cú thực sự đến nỗi phờ phạc, tả tơi như đi hội là vậy; tham gia vào những cuộc ăn uống tập thể, đồ ăn có thể không ngon bằng ở những bữa tiệc mà họ được ăn ở nơi khác, song đây là miếng ăn nhuốm màu linh thiêng và miếng lộc (“Một miếng lộc Thánh bằng một gánh lộc trần”) có ý nghĩa vô cùng to lớn, đem lại cho du khách một niềm tự hào và niềm vui vô tận. Mặt khác, bằng việc tham gia vào lễ hội dân gian, du khách có thể tìm hiểu nguồn gốc, lai lịch của các vị thần, các nhân vật được thờ cúng ở đây, để hiểu biết thêm về lịch sử địa phương nơi diễn ra lễ hội, về vai trò của di tích và nhân vật ấy trong bối cảnh chung của các lễ hội và văn hóa cả nước. Điều này giúp cho sự hiểu biết của họ được tăng thêm, phong phú thêm, và trong chừng mực nào đó, lòng tự hào, tình yêu quê hương đất nước của họ càng được củng cố hơn nữa sau một chuyến đi du lịch lễ hội. Đối với tất cả các lễ hội dân gian, bản thân nó đã là một hiện tượng văn hóa tổng hợp, sống động, luôn biến đổi không ngừng mà không phải là những sản phẩm tĩnh tại và thuần túy như các hiện vật bảo tàng, là những thực hành văn hóa góp phần vào đời sống của các dân tộc, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của các dân tộc ấy trong mọi thời kỳ lịch sử. Cũng cần nhận thấy rằng, các lễ hội dân gian ở nước ta vô cùng phong phú và có giá trị, tuy nhiên không phải lễ hội nào cũng có thể trở thành sản phẩm du lịch, nhất là những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Do đó, chính quyền hoặc người làm du lịch phải biết khai thác xem lễ hội nào, hay phần nào của lễ hội, có thể trở thành sản phẩm của du lịch lễ hội, có như vậy mới thỏa mãn nhu cầu của khách và phát huy được giá trị văn hóa của di tích, lễ hội ấy. Nhà nước cũng như chính quyền địa phương và cả cộng đồng chủ nhân của lễ hội luôn có ý thức gắn kết các lễ hội truyền thống vào hoạt động du lịch, dùng lễ hội dân gian như một điểm nhấn thu hút khách du lịch đến với địa phương mình. Ví như, lễ hội Đền Hùng những năm gần đây thường gắn với năm du lịch các tỉnh phía Bắc; lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa ở Lý Sơn luôn được tổ chức gắn với năm du lịch biển; lễ hội Bà Chúa Xứ từ năm 2001 đến nay liên tục gắn với năm du lịch và gắn với các hoạt động văn hóa nghệ thuật hay hoạt động thể thao tại địa phương (hội đua bò Bảy Núi); lễ hội Bà Chúa Kho gắn với hành trình về miền di Số 31 (Tháng 3 - 2020)72 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA sản dân ca quan họ Bắc Ninh, lễ hội Kiếp Bạc, Côn Sơn, Yên Tử Có thể thấy rõ, du lịch và lễ hội dân gian ngày càng gắn kết chặt chẽ với nhau, dựa vào nhau để phát triển và mở rộng quy mô, thu hút được nhiều khách thập phương. Không chỉ bằng cảm nhận mà các số liệu gần đây cũng đã chỉ ra điều đó. Chẳng hạn như: Tổng số lượt khách hành hương về Đền Hùng trong 5 ngày lễ hội năm 2016 gấp hơn 5 lần số dân tỉnh Phú Thọ, hay trong năm 2016 tám lễ hội lớn của nước ta (lễ hội Đền Hùng, chùa Hương, Yên Tử, đền Trần, Phủ Giày, Côn Sơn - Kiếp Bạc, núi Bà Đen, Bà Chúa Xứ) đã thu hút khoảng 16 triệu lượt khách [12]. Điều này cho thấy loại hình du lịch lễ hội ngày càng là một nhu cầu lớn đối với người dân. Với các lễ hội như Bà Chúa Kho, miếu Bà Thiên Hậu, hội Gióng, tuy không có con số chính xác số lượng khách du lịch là bao nhiêu song nhìn dòng người xe tắc nghẽn các con đường vào các lễ hội trong nhiều ngày, nhất là những ngày chính hội có thể hình dung được lễ hội đã thu hút khách du lịch, hành hương nhiều đến thế nào. Chỉ lấy một ví dụ về số lượng khách du lịch và nguồn thu từ du lịch ở lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam đã có thể thấy lễ hội hiện nay gắn bó với du lịch ra sao, trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch thế nào. Trong mùa lễ hội năm 2016, riêng “sáng ngày 11/2/2016 (nhằm ngày mùng 4 Tết), tại khu du lịch cấp quốc gia Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, dù mới hơn 8 giờ 30 phút sáng nhưng dòng người xe tấp nập từ khắp nơi đổ về khiến một đoạn đường dài gần 1km bị tê liệt. Theo Ban Quản lý khu di tích Văn hóa lịch sử và du lịch Núi Sam, đơn vị đã đặt cổng thu phí tham quan khách du lịch vào khu du lịch Núi Sam bắt đầu từ ngày mùng 2 Tết. Ước tổng số khách đến trong hai ngày trên 100.000 lượt khách. Trong đó, số khách thu phí đi bằng xe du lịch là 35.000 vé, với số tiền gần 700 triệu đồng” [11]. Qua các số liệu thống kê cho thấy, số lượt khách đến với khu du lịch Núi Sam hàng năm rất đông, năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2015, Núi Sam đón 4,078 triệu lượt khách đến hành hương và tham quan, chiếm 95% lượt khách đến Châu Đốc. Tổng lượt khách đến Núi Sam tăng khá nhanh từ năm 2007 đến năm 2015 (tăng từ 1.345.000 lượt lên 4.078.000 lượt), chiếm 65,2% tổng lượng khách đến An Giang. Điều đáng lưu ý là trong những năm vừa qua tốc độ tăng trưởng của số khách đến Núi Sam luôn đạt trên 10%/năm, trong khi tốc độ tăng tổng lượng khách đến Châu Đốc và An Giang chỉ đạt khoảng 5%/năm1. Điều này thể hiện sức hấp dẫn của lễ hội và khu du lịch Núi Sam. Nhìn vào số liệu trên có thể thấy tổng thu từ khách du lịch tăng khá nhanh. Chỉ trong 5 năm (từ 2011 đến 2015), tổng thu từ khách du lịch đã tăng hơn 3 lần, trong khi lượng khách chỉ tăng 15%. Nguồn thu này chưa bao gồm nguồn thu từ Ban Quản trị lăng miếu Núi Sam (bình quân 100 tỷ đồng/năm). Lễ hội càng sôi nổi, phong phú và đa dạng lại càng trở thành nguồn lực và tài nguyên quan trọng của du lịch. Ngược lại, du lịch cũng trở thành động lực, thậm chí mục đích cho những sự đầu tư, phục hồi và mở rộng lễ hội. Bởi vậy, tất cả các lễ hội dân gian có quy mô lớn và phong phú đều đã và đang trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn du khách. Các lễ hội ấy đều có những chỉ dẫn du lịch và là điểm nhấn trong các tour du lịch văn hóa chung hoặc tour riêng cho việc đi lễ hội. Có thể thấy, lễ hội hấp dẫn du lịch khi mỗi lễ hội ở mỗi vùng miền khác nhau lại có không gian văn hóa khác nhau, bối cảnh, cách thức tổ chức lễ hội khác nhau, nghi lễ và nét bản sắc khác nhau. Chính sự đa dạng đó của lễ hội dân gian trong xã hội hiện nay đã là chỗ dựa vững chắc cho du lịch phát triển. 2. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế thực hành lễ hội hiện nay, có thể thấy xu hướng đồng dạng hóa lễ hội đang trở nên phổ biến. Điều này đã khiến cho lễ hội dân gian phần nào trở nên nhạt nhòa, na ná giống nhau, các lễ hội nhạt dần đi tính đặc trưng, do đó ảnh hưởng lớn đến du lịch. Nếu các lễ hội đều được tổ chức theo một khuôn mẫu, một trình tự, một kịch bản gần như nhau sẽ dẫn đến sự nhàm chán, 73Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA kém hấp dẫn. Chắc chắn không có khách du lịch nào muốn tham dự vào tour du lịch lễ hội khi biết chắc lễ hội đó không khác gì với các lễ hội mà mình đã được biết. Khách du lịch cũng sẽ “một đi không trở lại” khi tham dự một lễ hội không còn là lễ hội dân gian của riêng địa phương theo đúng nghĩa nữa mà trở nên phổ quát, giống nhau, ở đâu cũng vậy. Bên cạnh đó, xu hướng thế tục hóa trong các lễ hội hiện nay cũng đã mang tới cho lễ hội những màu sắc mới, đời thường hơn và cũng giảm tính thiêng hơn. Xu hướng thế tục hóa đã tạo ra sự đa dạng và gần gũi cho lễ hội dân gian. Nhiều người dân đi lễ hội không biết lễ hội đó tôn vinh vị thần nào, hoặc không phải chỉ để khấn vị thần được tôn thờ, họ cứ đi và được hòa vào không khí tâm linh, như vậy đã là đủ. Đó là chưa kể nhiều người dân đi lễ hội không vì mục đích đi lễ mà mục đích của họ chỉ là đi chơi, lấy lễ hội làm không gian gặp gỡ, tụ họp... Nhiều người rõ ràng mục đích đi lễ nhưng họ không hiểu biết về trình tự nghi lễ, lễ vật,... dẫn đến thực hành lễ thức tuỳ tiện, chẳng hạn họ có thể dâng cúng bất cứ lễ vật gì mà họ cho là hợp lý từ thực phẩm, thức ăn, đồ dùng, đồ trang điểm... Lễ vật là tiền ngày càng trở nên phổ biến. Họ cũng có thể kêu cầu thần thánh bất cứ điều gì mà họ cảm thấy cần thiết cho cuộc sống của họ, họ cầu cúng trong tâm lý chung là kéo thần thánh về gần với cuộc sống đời thường để phục vụ cho những nhu cầu cũng hết sức đời thường của họ. Xu hướng này cũng góp phần làm hạn chế tính thiêng của lễ hội dân gian, khiến cho lễ hội trở nên tự do, thậm chí có phần tùy tiện, lộn xộn, không còn đáp ứng được sự trông đợi của khách du lịch. Với sự nở rộ của lễ hội hiện nay, việc quản lý được đặt ra là cần thiết, song quản lý lễ hội theo xu hướng nhà nước hóa lại đang mang tới cho lễ hội dân gian rất nhiều bất cập. Ví như sự lạm dụng kịch bản trong lễ hội, sự ganh đua danh tiếng, sự can thiệp quá sâu của chính quyền và những định hướng, chỉ đạo, hướng lễ hội nghiêng về mục đích tuyên truyền, đã khiến cho nhiều lễ hội phai nhạt màu sắc dân gian truyền thống vốn có và giảm sút quyền chủ động của người dân trong vai trò là chủ thể của lễ hội. Nhà nước hóa lễ hội cũng thể hiện qua việc phân cấp lễ hội. Những lễ hội cấp quốc gia thường xuyên có sự tham gia của các vị lãnh đạo Nhà nước và sự chỉ đạo chặt chẽ của Nhà nước về cách thức tổ chức, khách mời và cả những hoạt động trong lễ hội đã khiến cho lễ hội dường như là của Nhà nước. Không chỉ vậy, “hội chứng xin nâng cấp lễ hội” cũng khiến cho các địa phương có lễ hội đua nhau xin nâng cấp vì muốn lễ hội của mình phải ngang hàng hoặc hơn các địa phương có lễ hội khác và được cấp nhiều kinh phí hơn, để tổ chức lễ hội to đẹp hơn. Sự ganh đua gây ra lãng phí và cả sự không đoàn kết trong cộng đồng, nguy cơ khiến cho lễ hội thiên về hình thức, đề cao sự thể hiện của những nhóm giàu mà không còn thực chất là ngày hội của dân chúng nữa. Nhiều lễ hội dân gian được gắn với những ngày kỷ niệm lớn, những sự kiện văn hóa, chính trị tiêu biểu, trong các diễn văn khai mạc hay kết thúc lễ hội thường gửi gắm những thông điệp chính trị để giáo dục, tuyên truyền,... và chính những điều này cũng khiến cho khách du lịch giảm đi sự hào hứng với lễ hội dân gian. Lễ hội dân gian thường gắn chặt với với các cơ sở tín ngưỡng, vì thế cùng với sự phát triển sôi nổi của lễ hội thì các cơ sở tín ngưỡng cũng trong xu hướng được chú trọng trùng tu, tôn tạo và xây mới, tạo ra không gian rộng rãi hơn cho việc tổ chức lễ hội, song việc này cũng gây nên nhiều bàn luận và mâu thuẫn. Ở một số đền, miếu, chùa, việc trùng tu các di tích được thực hiện tùy tiện làm mất đi giá trị vốn có của những không gian tâm linh. Nhiều di tích sơn tượng mới lòe loẹt, thay cột gỗ bằng cột xi măng, những bức chạm khắc cổ nhuốm màu thời gian bị thay bằng những bức chạm mới,... khiến cho các di tích cũng dần trở nên đồng dạng, giống nhau khiến cho du khách không còn có nhu cầu khám phá nhiều di tích và lễ hội khác nhau nữa. 3. Như vậy, du lịch rõ ràng là đã góp phần phát triển lễ hội dân gian một cách tích cực. Một phần nhờ vào du lịch mà lễ hội dân gian được gìn giữ, phát huy và làm giàu, các phong tục tập quán, các giá trị văn hóa trong lễ hội Số 31 (Tháng 3 - 2020)74 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA dân gian được khôi phục lại để phục vụ du khách, các nét bản sắc văn hóa của từng lễ hội, từng vùng miền được khẳng định trong niềm tự hào và người dân mong muốn bảo tồn nó. Ở chiều tương tác ngược lại, lễ hội dân gian hỗ trợ đắc lực cho sự tăng trưởng của ngành du lịch, trước hết lễ hội dân gian giúp cho bức tranh du lịch của nước ta thêm phong phú với đa dạng hơn các sự lựa chọn cho du khách, lễ hội dân gian mang đậm bản sắc của văn hóa làng, văn hóa Việt Nam vì vậy rất hấp dẫn các du khách nước ngoài, ngành Du lịch dựa vào nguồn lực văn hóa đa dạng và đặc sắc này mà có thêm được số lượng lớn du khách trong nước và nước ngoài. Có thể nói, bức tranh lễ hội đa dạng và sôi nổi hiện nay, kết nối với những bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đương đại là điều kiện rất tốt cho sự phát triển du lịch. Chúng ta đã và đang chứng kiến một xu hướng nổi trội của những sự phục hồi của lễ hội dân gian trong sự tác động, chi phối ảnh hưởng mạnh mẽ của kinh tế thị trường thì lễ hội như một nguồn lực cho sự phát triển du lịch. Lễ hội và du lịch là hai phạm trù gắn bó mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và cùng được khuyến khích phát triển trong bối cảnh hiện nay. Chỉ khi chúng ta hiểu rõ được về các vấn đề này và nhìn nhận chúng trong sự gắn kết của tổng thể các yếu tố văn hóa và xã hội, chính trị và kinh tế thì lễ hội truyền thống sẽ đem lại những lợi ích không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. L.H.L Chú thích 1 Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An Giang. Tài liệu tham khảo 1. Antonio Machado (2003), “Du lịch và phát triển bền vững (Tourism and Sustainable Devel- opment)”, in trong Dự án Xây dựng năng lực cho phát triển Du lịch ở Việt Nam, VNAT và FUNDESO, Hà Nội. 2. Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Thống kê lễ hội, Hà Nội. 3. Cao Lộ Gia (2004), Nhân loại học du lịch Trung Quốc, Nxb. Du lịch Quảng Tây. 4. Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật An Giang (2013), 10 năm lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam nâng cấp lễ hội quốc gia, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, An Giang. 5. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên) (1994), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Lê Hồng Lý (chủ biên) (2010), Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triền du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (chủ biên) (2001), Kinh tế du lịch & Du lịch học, Nxb. Trẻ, Hà Nội. 8. Nhiều tác giả (2014), Di sản văn hóa trong xã hội Việt Nam đương đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 9. Tô Ngọc Thanh (2003), “Di sản văn hóa trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 3. 10. Ngô Đức Thịnh (1993), “Những giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền và nhu cầu của xã hội hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, số 1. 11. Minh Thư (2016), “Biển người đổ về kẹt cứng Miếu bà Núi Sam”, Báo Dân Trí, https://dant- ri.com.vn/xa-hoi/bien-nguoi-do-ve-ket-cung- mieu-ba-nui-sam-2016021115551915.htm 12. Tri thức trẻ (2016), “Với 8.000 lễ hội một năm, trung bình mỗi ngày người Việt có 22 lễ hội, mỗi giờ có 1 lễ hội”, voi-8000-le-hoi-moi-nam-trung-binh-moi- ngay-nguoi-viet-co-22-le-hoi-moi-gio-co-1-le- hoi-20160421143503586.chn 13. Trần Quốc Vượng (2001), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Ngày nhận bài: 14 - 3 - 2020 Ngày phản biện, đánh giá: 20 - 3 - 2020 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfle_hoi_dan_gian_va_su_phat_trien_du_lich_hien_nay.pdf
Tài liệu liên quan