Trường phái cổ điển mới giữ vai trò thống trị vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đứng đầu trường phái này là Leon Walras (1834-1910), Alfred Marshall (1842-1924), Irving Fisher. Leon WALRAS cho rằng trong cơ cấu kinh tế thị trường có 3 loại; thị trường hàng hoá, thị trường tư bản, thị trường lao động. Thị trường tư bản là nơi hỏi vay và cho “tư bản”. Lãi suấttư bản cho vay là giá tư bản. Doanh nhân là người sản xuất hàng hoá để bán nhưng thiếu vốn để đầu tư sản xuất hàng hoá, thì phải hỏi vay vốn trên thị trường tư bản và thuê nhân công trên thị trường lao động.
Học thuyết này đề cao vai trò tự điều tiết của nền kinh tế thị trường, tính năng động và ổn định của thị trường.
87 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lí luận chung về lãi suất và những quan điểm về lãi suất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương (NHCT), NHNN&PTNT, NH Á Châu đều giảm lãi suất huy động xuống ở mức phổ biến từ 2-2.2%/năm đối với kì hạn tiết kiệm 12 tháng, cho dù vừa qua đã có một số NH tăng nhẹ lãi suất huy động ngoại tệ, nhưng nhìn chung mức lãi suất huy động ngoại tệ đang ở mức thấp trong nhiều năm gần đây.
Bảng 23:Lãi suất tiền gửi USD
Lãi suất tiền gửi USD cao nhất (5/năm)
2000
2001
2002
2003
6.0
4.5
2.2
2.2
Tuy lãi suất ngoại tệ giảm nhưng lãi suất VND trongg những tháng đầu năm lại có dấu hiệu tăng nhẹ. Đặc biệt từ nửa cuối năm 2002 sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận VND của TCTD đối với khách hàng, trong 7 tháng đầu năm 2003 lãi suất tiền gửi NH bằng nội tệ –ĐVN tăng cao, lên đến 0.7%/tháng, một số NHTMCP tăng lên tới 0.73%-0.75%/tháng, thậm chí 0.78%/tháng. Sau đó từ T8/2003 đến cuối năm 2003 lãi suất giảm xuống, giảm nhiều chủ yếu là đối với các NHTM Quốc doanh, còn các NHCP lãi suất vẫn ở mức khá .
Nhận xét sự biến động trái chiều, cho ta thấy rằng hầu hết các NHTM nước ta tiếp tục có nhu cầu huy động tiền đồng. Đặc biệt vào thời điểm dịp tết Nguyên Đán, nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế tăng, bên cạnh đó lượng khách hàng rút tiền gửi về để phục vụ cho việc chi tiêu trong tết cũng tăng, do đó các NH phải thực hiện việc tăng lãi suất để “bù đắp” phần vốn đang thiếu hụt chuẩn bị cho những dự án cho vay mới.
Một điểm đáng chú ý, cho dù lãi suất USD đang ở mức thấp, các NHTM đều khá “dư gia” về ngoại tệ do đang có một lượng ngoại tệ dự trữ từ trước. Bên cạnh đó việc giảm lãi suất lần này lại đúng vào dịp cuối năm nên cung ngoại tệ tăng lên nhờ lượng ngoại tệ thu được từ xuất khẩu và kiều hối tăng (ước tính khoảng 2.4 tỉ trong năm 2002) ngoài ra lượng ngoại tệ của khách du lịch và người Việt Nam ở nước ngoài về quê ăn tết tăng mạnh đã góp phần làm cho cung về USD trên thị trường tiếp tục ổn định .
Việc cắt giảm lãi suất huy động USD trong thời gian qua đã khiến cho mức chênh lệch về lãi suất giữa VND và USD ngày càng nới rộng. Do đó, từ giữa năm 2002, trong năm 2003 và đến đầu năm 2004, người dân thích gửi tiết kiệm bằng ĐVN hơn vì lãi suất cao, còn các doanh nghiệp thì thích vay ngoại tệ hơn vì lãi suất thấp. Điều này còn do tác động của diễn biến tỉ giá ở mức thấp.
Về tỉ giá giữa VND/USD, năm 2002 chỉ tăng có 2.1%. Trong 9 tháng đầu năm 2003 tỉ giá ổn định, chỉ tăng có 1% nhưng trong 3 tháng cuối năm 2003 thì tăng khá. Tính chung cả năm 2003, đồng đô la Mỹ tăng giá 1.7% so với đồng VN. Tháng 1/2004, tỉ giá cũng chỉ tăng có 0.1%. Đây là khoảng thời gian có mức tăng giá thấp trong nhiều năm qua. Do đó nếu ai có gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ thì chỉ được hưởng lãi suất 2.0%-2.5%/năm, cộng với đô la Mỹ lên giá thì tổng cộng chỉ có mức lợi tối đa là 4.0%/năm, trong đó gửi tiền đồng VN có lãi suất tới 9.0%/năm. Hay mua trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục cũng ở mức lãi suất trên 8.4%/năm. Ngược lại, ai vay vốn ngoại tệ được lợi hơn vì lãi suất tiền vay chỉ có 3.5%-4.0%/năm, cộng với tỉ lệ trược giá thì tổng cộng tối đa chỉ có 5.0%/năm, so với lãi suất vay vốn đồng VN lên tới 10%/năm .Điều này cũng giải thích tại sao trong khoảng thời gian từ giữa năm 2002, trong năm 2003 và tháng đầu năm 2004. thị trường tiền tệ diễn biến trái chiều , vốn huy động nội tệ của các NH tăng nhanh, vốn huy động ngoại tệ tăng chậm và ngược lại.
Tuy nhiên trong những tháng đầu năm 2004 gần đây, lại có hiện tượng đầu tư ngoại tệ tăng nhiệt. Ngay từ đầu tháng 5, khi chỉ số giá bốn tháng đầu năm được công bố là 5.4% thị trường có phản ứng :tiền gửi bằng VND tại các NH tuy không giảm nhưng không còn tăng cao như trước, trong khi tiền gửi bằng USD tăng khá nhanh. Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp tục khi chỉ số giá của tháng 5 lại tăng thêm 0.9%.
2.4.2 THỰC TRẠNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
Sự kiện đáng chú ý trong hoạt động của thị trường tiền tệ nói riêng và nền kinh tế VN nói chung là diễn biến của cuộc đua tăng lãi suất huy động vốn của các NHTM.
Những dấu hiệu của lãi suất quá cao,tín dụng “nóng”được thể hiện ở 3 mặt:
+Khối lượng tiền lưu thông và dư nợ tín dụng tăng cao.
+Lãi suất huy động vốn và cho vay vốn liên tục tăng.
+Kinh doanh tiền tệ luôn sôi động .
Trong 6 tháng đầu năm 2002, dư nợ cho vay của nền kinh tế chỉ tăng 13.8% đến 30/06/2003, tổng dư nợ cho vay của hệ thống NH và tín dụng đã lên tới 328.490 tỉ đồng, tăng 15.3% so với 31/12/2002. Trong khi đó, tổng dư nợ tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức NH và tín dụng chỉ đạt 321.280 tỉ đồng, tăng 9.43% so với cuối năm 2002.
Các NHTM liên tục tung ra các chiến dịch huy động vốn với lãi suất cao, hình thức đa dạng kèm theo khuyến mãi hấp dẫn. Chiếm trên 70% thị phần huy động vốn là các NHTM Nhà nước với mức lãi suất lên tới 0.7-0.72%/tháng. Chỉ vài ngày sau khi NHCT “khai hoả”đợt phát hành kì phiếu đầu tiên của mình trong năm 2003. NHĐT&PT đã tiếp nối bằng cách tung ra một sản phẩm huy động vốn còn ấn tượng hơn với lãi suất huy động (tính theo năm) hấp dẫn hơn, đó là chứng chỉ tiền gửi.Với mức lãi suất trả trứơc đối với chứng chỉ tiền gửi bằng VND cho các kì hạn từ 12tháng-24tháng qui theo lãi trả sau vào khoảng 8.4%-9%/năm, chỉ trong vòng 20 ngày làm việc, tức là chưa đầy một nửa thời gian dự kiến phát hành, NH này đã “ẵm trọn” 3000 tỉ đồng và phải chấm dứt phát hành vì đa “õ hoàn thành kế hoạch” theo sự cho phép của NHNN.
Nhiều tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi và uy tín của NH là yếu tố đóng vai trò quan trọng vào thành công, nhưng không phủ nhận lãi suất hấp dẫn của chứng chỉ tiền gửi.
Sau khi NHĐT chấm dứt phát hành chứng chỉ tiền gửi, ngày 5/3, NHNT thông báo phát hành “Đợt kì phiếu đạc biệt” với lãi suất bậc thang hấp dẫn, số tiền mua kì phiếu được phân thành các mức và càng mua nhiều được hưởng lãi suất càng cao, từ 8,49%/ năm, 8,55%/năm đến 8,61%/năm đối với từng mức tiền cho kì hạn 1 năm.
Các NHTM tăng lãi suất huy động vốn tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn của họ và là quyền của họ. Tuy nhiên, một khi cuộc chiến đã được khơi ra thì dù muốn hay không muốn cũng phải theo nhưng chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra trở nên đáng lo ngại. Tình trạng thiếu vốn, đặc biệt là vốn dài hạn cho các dự án lớn đã được kí kết, buộc các Ngân hàng phải gia tăng lãi suất huy động vốn thực tế. Tuy nhiên, nguy cơ tiềm ẩn vẫn có thể xảy ra khi mặt bằng lãi suất huy động vốn tăng nhanh trong khi mặt bằng lãi suất cho vay tăng chậm.
Ngay từ đầu năm nay, lãi suất huy động tiền gởi tiết kiệm đã được các Ngân hàng, liêm tục điều chỉnh lãi suất cơ bản, thông tin do cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ tiếp tục điều chỉnh lãi suất cơ bản của đồng USD lên vượt mức 4,5% hiện nay. Song theo nhìn nhận của các chuyên gia tài chính Ngân hàng thì lại không hẳn như vậy.
NHTM CP Aù Châu (ACB) vừa tăng lãi suất tiền gởi bằng USD ở tất cả các kì hạn từ 0,3%/năm đến 0,85%/năm kể từ ngày 3/3. NHTM Ngoại Thương (Vietcombank) cũng quyết định tăng lãi suất tiền gởiVND lên ở tất cả kì hạn với mức tăng 0,2-0,6%/năm từ cuối tháng 2. Nhiều Ngân hàng cũng đang rình rập điều chỉnh lãi suất huy động tiền gởi đối với cả VND và USD.
Theo ông Lê Đắc Sơn, Tổng giám đốc NHTM CP ngoài quốc doanh(VP Bank), chưa năm nào trong vòng 2 tháng đầu năm huy động từ khối dân cư đạt hơn 500 tỷ đồng. Nhận định về cuộc đua tăng lãi suất đang diễn ra giữa các NH, ông Phạm Phan Dũng, vụ trưởng vụ tài chính Ngân hàng (bộ tài chính), cho rằng, khi FED điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đồng USD thì các NH khó có thể giữ nguyên mức cũ. Tuy nhiên, nói các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất thì không hẳn như vậy.
“Bằng chứng là trên thị trường liên Ngân hàng giao dịch đấu thầu trái phiếu chính phủ thì lãi suất vẫn ổn định, không tăng, lượng huy động vốn vấn lớn. Điều đó cho thấy vốn khả dụng các NHTM vẫn còn nhiều, hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu vốn của thị trường “, ông Dũng nói.
Thực tế, nhiều ngân hàng bất đắt dĩ bước vào cuộc đua này. Theo ông An Thanh Sơn, phó tổng giám đốc NHTM CP Quốc Tế (VIbank), với các NHCP mới xuất hiện trên thị trường, lãi suất là công cụ chủ yếu để huy động vốn. Các Ngân hàng bạn điều chỉnh tăng lãi suất, không lẽ mình lại đứng yên.
Theo ông Phạm Phan Dũng, với việc liên tục đẩy lãi suất tăng cao như hiện nay, các ngân hàng đã tự đẩy mình vào tình thế khó khăn. Mặt bằng lãi suất huy động chung của các ngân hàng hiện nay ở mức 8,5%/năm, trong khi lãi suất cho vay ở mức hơn 9%/ năm –rõ ràng hiệu quả kinh doanh rất thấp.
Một chuyên gia NHTM phân tích, khi tăng lãi suất huy động thì đương nhiên các NH phải cho đầu ra tăng theo, theo đó các donhnghiệp đi vay buộc long phải cho tăng sản phẩm đầu ra theo tỷ lệ thuận, do vậy lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm đi, kéo theo đó là kinh doanh dễ gặp rủi ro, và cuối cùng người cho vay là ngân hàng sẽ gặp rủi ro rất lớn. Tình trạng này sẽ dẫn tới nợ quá hạn trong các ngân hàng tăng lên. Theo ông Nguyễn Hoà Bình, Chủ Tịch hội đồng quản trị Vietcombank, mới nay NH này đã quyết định điều chỉnh giảm lãi suất cho vay USD từ mức Sibor + 2%/ năm xuống còn Sibor +1,85%/ năm, tức là chấp nhận mức chênh lệch thấp hơn, nhằm hâm nóng nguồn tín dụng này, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp khi vay vốn USD.
Nhu cầu vốn trong nền kinh tế tăng là điều tốt.Người gởi tiền được hưởng lãi suất cao cũng là điều tốt nhưng nếu lãi suất huy động tăng mà lãi suất cho vay không tăng được thì các các trung gian tài chính cần xem xét lại.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CƠ CHẾ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
3.1 ĐỊNH HƯỚNG CHO CƠ CHẾ TỰ DO HĨA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
3.1.1 THỰC HIỆN CƠ CHẾ LÃI SUẤT THỎA THUẬN ĐI ĐÔI VỚI VIỆC ĐIỀU TIẾT CUNG CẦU TIỀN TỆ BẰNG CÁC CÔNG CỤ GIÁN TIẾP NHẰM ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG :
Việc điều tiết cung cầu tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp của ngân hàng nhà nước nhằm ổn định thị trường còn rất hạn chế (đã phân tích trong mục 2.4.1.2). Để nâng cao vai trò của các công cụ gián tiếp thì Ngân hàng nhà nước nên sửa đổi lại qui định tái cấp vốn như cho phép tất cả các tổ chức tín dụng kể cả các chi nhánh là thành viên của Ngân hàng thương mại đều được tham gia, bỏ qui định về lãi suất tối đa trong vay mượn lẫn nhau của các tổ chức tín dụng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng, chiết khấu theo hướng mở rộng thêm các loại giấy tờ có giá được sử dụng để tái cấp vốn chiết khấu cho các tổ chức tín dụng, ngoài các chứng từ có giá là tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu ngân hàng nhà nước, hiện nay nên mở rộng thêm các giấy tờ có giá khác như trái phiếu chính phủ còn thời hạn thanh toán dưới một năm, các thương phiếu có độ tín nhiệm cao .
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện thị trường tài chính theo hướng mở rộng qui mô, chủng loại hàng hóa và công cụ giao dịch cũng như hoàn thiện việc xây dựng hệ thống thông tin để kiểm soát, theo dõi thường xuyên hoạt động của thị trường tiền tệ nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại quản lý có hiệu quả vốn khả dụng.
Ngoài ra thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương mua hoặc bán các chứng từ có giá trên thị trường chứng khoán để sẵn sàng tham gia vào thị trường cần thiết, điều tiết vốn khả dụng kịp thời không để lãi suất thị trường ở các ngân hàng tăng cao một cách tự phát. Như vậy công cụ nghiệp vụ thị trường mở, công cụ tài chính chiết khấu là các công cụ đảm bảo được sự điều tiết thị trường tiền tệ .
3.1.2 TÁI CẤU TRÚC TỔ CHỨC NGÂN HÀNG VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ LÃI SUẤT NHẰM THÍCH ỨNG VỚI ĐIỀU KIỆN TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT .
Cơ chế tự do hoá lãi suất chỉ phát huy tác dụng tốt trong điều kiện các ngân hàng thương mại phải hoạt động vững mạnh, đảm bảo được các tiêu chí về chất lượng tài sản có, tài sản nợ, chính sách lãi suất linh hoạt hợp lý, qui trình quản lý rủi ro lãi suất .
Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những giải pháp hoàn thiện và tái cấu trúc tổ chức hoạt động quản trị để nâng cao năng lực quản trị lãi suất của mình đó là :
3.1.2.1 Cơ cấu lại mô hình tổ chức hệ thống Ngân hàng thương mại.
- Mô hình tổ chức và quản lý hiện tại: được phân biệt chủ yếu theo chức năng với hai cơ cấu quyền lực như sau:
+ Cấp quản trị điều hành : Là hội đồng quản trị gồm chủ tịch Hội đồng quản trị và một số thành viên chuyên trách, làm việc theo chế độ tập thể, giúp việc Hội đồng quản trị có ban chuyên viên và ban kiểm soát. Về nguyên tắc Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý đối với mọi hoạt động của ngân hàng; chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; Ban hành các điều lệ, cơ chế, qui chế tổ chức và hoạt động của các Ngân hàng.
+ Cấp quản lý kinh doanh :
Cấp điều hành kinh doanh gồm Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc và các phòng ban tham mưu giúp việc tại hội sở chính, bên cạnh Tổng giám đốc có Kế toán trưởng.
Cấp trực tiếp kinh doanh gồm các đơn vị hạch toán độc lập, các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp và đơn vị hùn vốn kinh doanh.
+ Mô hình tổ chức như trên có một số nhược điểm lớn :
Đối với Hội đồng quản trị cơ quan quản lý cao nhất không tập trung được các luồng thông tin chủ yếu về hoạt động của ngân hàng để xây dựng, kiểm tra các mục tiêu chiến lược và các quyết định phòng ngừa rủi ro trong đó có rủi ro lãi suất .
Các phòng ban nghiệp vụ từ trụ sở chính và chi nhánh được phân nhiệm theo chức năng nghiệp vụ và cắt khúc theo địa giới hành chính, chưa chú trọng phân nhiệm theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ như thông lệ quốc tế. Đây là hạn chế lớn nhất về cấu trúc quản lý và phát triển sản phẩm mới đối với Ngân hàng thương mại.
Thiếu các bộ phận liên kết các hoạt động, các quyết định giữa các phòng ban nghiệp vụ, tạo điều kiện cho Hội đồng quản trị và ban điều hành bao quát toàn diện hoạt động và tập trung nhân lực, tài lực vào các định hướng chiến lược.
Nhìn chung các Ngân hàng thương mại rất lúng túng trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch kinh doanh do thiếu các cơ quan và cơ sở dữ liệu về phân tích, dự báo môi trường kinh doanh, đánh gía nguồn lực và xác định tầm nhìn trung, dài hạn vốn là công cụ quản lý cơ bản của các Ngân hàng thương mại hiện đại.
+ Mô hình tổ chức và quản lý cần phải cơ cấu lại:
Mô hình tổ chức trên chỉ thích hợp trong điều kiện hoạt động với qui mô nhỏ, mức độ tập trung quyền lực cao. Khi ngân hàng phát triển với qui mô ngày càng lớn với số lượng chi nhánh ngày càng mở rộng, khối lượng và tính chất công việc ngày càng nhiều và phức tạp hơn thì mô hình tổ chức của ngân hàng thương mại Việt Nam có những hạn chế như việc tổ chức và bố trí các phòng nghiệp vụ hiện nay cả ở cấp trung ương và chi nhánh đang được tiến hành phân cấp quản lý theo loại hình nghiệp vụ, chưa chú trọng quản lý theo thị trường và đối tượng phục vụ. Theo quan điểm của chúng tôi cần phải cơ cấu lại như sau :
Thay đổi tiêu thức phân định các phòng ban từ loại hình nghiệp vụ sang theo đối tượng khách hàng sản phẩm :
Việc thay đổi này nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, có khả năng đáp ứng được các đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng.
+ Tại trụ sở chính của Ngân hàng thương mại
Hội đồng quản trị hiện tại có ban chuyên viên có tránh nhiệm giúp Hội đồng quản trị, về quản lý chiến lược thì cần thành lập thêm ban quản lý rủi ro giúp Hội đồng quản trị phân tích, xây dựng chuẩn mực và quản lý rủi ro toàn hệ thống trong đó có quản lý rủi ro về lãi suất với mục đích nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Hội đồng quản trị đặc biệt là quản lý chiến lược và rủi ro.
+ Cấp Ban Tổng giám đốc trên cơ sở bố trí lại các phòng, ban nghiệp vụ thành các khối được phân nhiệm theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ. Thành lập thêm ban quản lý tài sản nợ - tài sản có và chấn chỉnh cơ quan kiểm toán nội bộ trực thuộc ban Tổng giám đốc.
+ Ở chi nhánh, đặc biệt là các chi nhánh lớn, cần cấu trúc lại các phòng tác nghiệp theo loại hình nghiệp vụ sang nhóm khách hàng và loại dịch vụ. Theo hướng này về cơ bản hoạt động ngân hàng sẽ tổ chức lại thành khối ví dụ như khối dịch vụ ngân hàng phục vụ doanh nghiệp, khối dịch vụ ngân hàng bán lẻ (tư nhân), khối dịch vụ thị trường tài chính, . . . với mô hình tổ chức được sắp xếp như trên sẽ khắc phục được những mặt hạn chế đã được biểu lộ nhiều năm qua đó là: Kiểm soát được rủi ro (rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường khách hàng.v.v..), nâng cao năng lực kiểm soát, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao trình độ nghiệp vụ một người biết nhiều việc, tạo điều kiện trong việc bố trí sắp xếp tổ chức cán bộ. Phân định này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và kiểm soát hạn mức rủi ro tín dụng góp phần nâng cao chất lượng quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro lãi suất nói riêng theo từng đối tượng khách hàng.
Thành lập bộ phận quản lý tài sản nợ – tài sản có và ban quản lý rủi ro :
+ Ban quản lý rủi ro : Được thành lập sẽ trực thuộc Hội đồng quản trị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của Hội đồng quản trị, đặc biệt là quản trị chiến lược và quản trị rủi ro .
Bộ phận này sẽ giúp hoạt động quản trị tổng hợp, phân tích và đánh giá mức độ rủi ro, tham mưu cho Hội đồng quản trị trong việc hoạch định chiến lược cũõng như theo dõi việc thực hiện chiến lược đã vạch ra ; Thiết kế hệ thống các chỉ tiêu dự báo môi trường kinh doanh, đánh giá nguồn lực và xác định các mục tiêu phát triển trung dài hạn.
Do các lĩnh vực hoạt động của bộ phận quản lý rủi ro liên quan nhiều đến việc hoạch định và thực thi chiến lược nên tổ chức và hoạt động của bộ phận này trực thuộc Hội đồng quản trị .
+ Bộ phận quản lý tài sản nợ và tài sản có : Để nâng cao năng lực điều hành của nhà quản trị ngân hàng, bộ phận quản lý tài sản có và tài sản nợ có nhiệm vụ theo dõi và quản lý các danh mục trong bảng tổng kết tài sản, quản lý khả năng thanh toán và các rủi ro thị trường ( rủi ro lãi suất , tỷ giá ). Đặc biệt, bộ phận này còn làm nhiệm vụ thu thập, xử lý, quản trị thông tin để cung cấp cho cán bộ tín dụng khi họ có nhu cầu như : thông tin về khách hàng, thông tin về thị trường, thông tin cạnh tranh . bên cạnh đó, bộ phận này còn liên kết các hoạt động, các quyết định của các phòng nghiệp vụ giúp ban điều hành ngân hàng nắm được tổng thể và nhìn nhận bao quát hơn các hoạt động của ngân hàng .
Cơ cấu lại mô hình tổ chức theo hướng nâng cao kỹ năng quản lý rủi ro bằng cách thành lập bộ phận quản lý rủi ro ( trực thuộc Hội đồng quản trị ), bộ phận quản lý tài sản nợ và tài sản có ( trực thuộc Ban giám đốc ) sẽ giúp tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản trị, điều hành và cũng nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động ngân hàng .
- Thực hiện tách bạch hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương mại:
Luật ngân hàng đã qui định một loại hình ngân hàng mới là ngân hàng chính sách với mục đích hoạt động nhằm thực hiện các chủ trương ưu đãi của nhà nước đối với một số đối tượng chính sách. Chúng tôi cho rằng việc thực hiện tách bạch hoạt động cho vay chính sách chính là để tách cơ chế bao cấp ra khỏi cơ chế kinh doanh nó rất phù hợp và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng phát triển lành mạnh, đảm bảo sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa ngành ngân hàng và các ngành kinh tế khác đồng thời giữa các tổ chức tín dụng với nhau, bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu đầu tư vào hệ thống các tổ chức tín dụng.
3.1.3-Định hướng và dự báo cho thời gian sắp tới.
Bắt đầu từ năm 2000, cơ chế diều hành lãi suất của NHNN Việt Nam đã từng bước cải cách trên con đường tiến đến tự do hoá. Tiến tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn cũng như tự do hoá tài chính hoàn toàn là một chặng đường dài, đòi hỏi phải chuẩn bị kỹ càng, xây dựng các giải pháp đồng bộ. Các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách hoạch định con đường này cần một thời gian 20 năm từ năm 2000 đến 2020 và chia thành nhiều giai đoạn:
a.Giai đoạn 2006-2010:
Quan điểm và mục tiêu chiến lược tài chính-tiền tệ giai đoạn này:
-Chiến lược tài chính – tiền tệ quốc gia hướng vào khai thác và phát triển nguồn lực trong nước, các nguồn lực trung, dài hạn. Đối với các nguồn lực tài chính nước ngoài, tăng cường khai thác và sử dụng hợp lí hiệu quả nguồn lực tài chính phục vụ cho đầu tư phát triển, thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế – xã hội trong nhiều năm tới, khai thác tối đa có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, nhất là tiềm lực vốn đầu tư, thị trường công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lí phục vụ đắc lực cho mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
-Thực hiện hội nhập và mở rộng cửa hợp tác quốc tế về tài chính – tiền tệ theo hướng chủ động, có bước đi hợp lí, an toàn, giữ vững độc lập chủ quyền. Xây dựng nền tài chính – tiền tệ độc lập, tự chủ, có sức mạnh thực chất gắn liền với chủ động hội nhập quốc tế, tạo ra môi trường tài chính – tiền tệ phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, có khả năng trao đổi và hội nhập thế giới. Phấn đấu đến năm 2010, cơ sở hạ tầng tài chính – tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nền kinh tế đạt mức độ phát triển trung bình của khối ASEAN
Giải pháp tự do hóa lãi suất:
-Sau khi chúng ta đạt được một số thành tựu về môi trường vĩ mô trong nước, hoàn tất gia nhập AFTA và WTO, hệ thống doanh nghiệp nói chung đã ổn định, phát triển vững chắc, khi đó NHNN Việt Nam mới có thể tiến tới một bước tự do hoá lãi suất triệt để hơn mà không gây sốc cho nền kinh tế .
-Lãi suất cho vay cơ bản đã hình thành và xác định trên thị trường tiền tệ liên Ngân Hàng, là cơ sở lãi suất để các NHTM cho vay lẫn nhau và cho vay lại các thành phần kinh tế theo một biên độ cộng vào đủ trang trãi các khoảng phí và lợi nhuận của từng ngân hàng ; Công cụ can thiệp chủ yếu của NHNN để điều chỉnh cung cầu thị trường là thay đổi lãi suất thị trường một cách gián tiếp với vai trò người vay-người cho vay cuối cùng;ử dụng thị trường mở; Bán ra hay mua vào các trái phiếu để điều chỉnh lượng tiền đưa vào lưu thông, lãi suất tín dụng trung dài hạn sẽ được tác động điều chỉnh thông qua điều chỉnh thông qua điều chỉnh lãi suất trái phiếu Chính phủ .
b.Giai đoạn 2011-2020:
-Giai đoạn này TTCK đã trở thành trụ cột chính trong việc chuyển tải vốn,góp phần làm cho TTTT phát triển ổn định cho nên NHNN có thể chủ yếu dùng công cụ thị trường mở làm nồng cốt cho việc điều hành CSLS theo cơ chế thị trường ở trình độ cao.
3.2-Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Tác Đơng Của Cơ Chế Tự Do Hĩa Lãi Suất.
3.2.1-Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định bao gồm nhịp độ tăng trưởng ổn định, giá cả, mức lạm phát được khống chế ở mức cho phép, sự phát triển kinh tế và môi trường kinh doanh ổn định sẽ làm giảm áp lực tăng lãi suất, đảm bảo cho nền kinh tế chịu đựng được các tác động bên trong và bên ngoài
Nhà nước cần có những chiến lược phát triển kinh tế dài hạn, định hướng nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đều đặn, cần tiếp thu những kinh nghiệm của các nền kinh tế có tính chất chuyển đổi như nước ta, thường xuyên trao đổi nghiên cứu có chọn lọc các thẩm định của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, của các nhà đầu tư và cần phải chú ý đến vấn đề hội nhập kinh tế.
Ngoài những mục tiêu quan trọng để ổn định kinh tế vĩ mô là tạo môi trường thuận lợi ổn định cho các các doanh nghiệp, bài trừ tham nhũng, tạo một môi trường thuế quan minh bạch, không phân biệt các thành phần kinh tế, tiến tới xóa bỏ tình trạng bao cấp, nâng cao sức cạnh tranh, tạo thế chủ động cho các doanh nghiệp nhà nước. Một vấn đề hết sức quan tâm là việc xây dựng các quy chế liên quan đến việc ban hành, giám sát, quản lí và tuyên truyền phát động thông tin về các chính sách của Đảng, Nhà nước đặc biệt là các thông tin về kinh tế như giá cả, lạm phát, tăng trưởng, điều tiết lãi suất tiền tệ –đây là lĩnh vực tác động đến tất cả mọi người ở tất cả các ngành nghề. Phải xây dựng chương trình hành động mang tính pháp huy vừa cứng rắn vừa mềm dẻo để đề phòng khi xảy ra các hiện tượng tiêu cực như những tin đồn thất thiệt, những thông tin tiêu cực ảnh hưởng đến các chủ trương của chính quyền thì chính quyền cần kết hợp với các cơ quan ngôn luận, các TCTD đưa ra các giải pháp nhanh chóng giải quyết ngay các nguồn tin sai lệch. Như thế vừa đảm bảo được uy tín của các TCTD và chính quyền vừa ổn định được môi trường kinh tế vĩ mô cũng như xây dựng, củng cố được lòng tin của quần chúng nhân dân và mọi thành phần xã hội.
3.2.2-Hồn thiện và phát triển thị trường tài chính.
Quá trình tự do hoá lãi suất đã tạo nên những thay đổi sâu sắc cho nền kinh tế và sự phát triển ngày càng đa dạng của kinh tế thị trường phục vụ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những nhân tố tích cực, thì đối với những nước đang phát triển, quá trình tự do hoá tài chính rất dễ làm cho khu vực tài chính-NH vốn yếu kém càng dễ bị tổn thương. Do vậy, cần phải có một hệ thống tài chính lành mạnh, an toàn để đảm bảo hoạt động của các TCTD được vững vàng trước sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường tiền tệ khi thực hiện lãi suất thị trường.
Cần từng bước hợp lí hoá hoạt động của các NHTMNN,hiện đại hoá hoạt động, giảm chi phí và tăng cường hiệu quả trong hoạt động. Có những biện pháp quản lí rủi ro hiệu quả. Xử lí dứt điểm vấn đề nợ xấu, nợ quá hạn thông qua NHNN. Làm trong sạch bảng cân đối của các NHTMNN. Đa dạng hoá sở hữu, tăng cường tính minh bạch trong điều hành, kiểm soát nội bộ hoạt động NH.
Thiết lập và duy trì cơ chế kiểm tra, kiểm toán nội bộ phù hợp và hoạt động có hiệu quả tại các NHTM. Hoàn thiện công tác này dựa trên những quy định chung của NHNN ban hành, chọn lọc vận dụng sáng tạo các nguyên tắc kiểm tra, kiểm toán quốc tế trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Thực hiện phương thức liên kết với các NH nước ngoài có năng lực tài chính mạnh, có uy tín trên thị trường quốc tế để cơ cấu lại hoạt động của NHTM trong nước Đẩy mạnh việc dứt khoát thanh lý những NH, TCTD hoạt động yếu kém, không có khả năng phát triển để nâng cao sức mạnh của toàn hệ thống NH. Tăng cường việc liên kết, sát nhập giữa các NH trong nứơc nhằm nâng cao sức cạnh tranh khi vươn ra thị trường thế giới.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lí cho ngành NH
Tích cực bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, cơ cấu lại số biên chế sẵn có. Hoàn chỉnh chương trình đào tạo kiến thức ngành NH. Tập hợp đội ngũ cán bộ quản lí cao cấp có trình độ chuyên môn giỏi và sẳn sàn đương đầu với nhiều thử thách khi nền kinh tế cũng như ngành NH từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Quản lý hoạt động tín dụng để đáp ứng cả ba yêu cầu là gĩp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ và đảm bảo cho các tổ chức tín dụng kinh doanh cĩ hiệu quả, phát triển bền vững. Muốn vậy, Ngân hàng Nhà nước cần định hướng hoạt động tín dụng phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thơng qua các chỉ tiêu định hướng như: Tăng trưởng dư nợ hàng năm, tăng trưởng bình quân thời kỳĐề ra chính sách tín dụng cho một số ngành, lĩnh vực cần tăng trưởng nhanh thuộc định hướng phát triển của nhà nước. Kiểm sốt tổng mức tín dụng, điều hành vốn khả dụng phù hợp với yêu cầu ổn định tiền tệ thơng qua các cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ. Tăng cường thực hiện chế tài nâng cao hiệu lực cơng tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của nhà nước về hoạt động tín dụng.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách và các cơng cụ quản lý tín dụng cả về nội dung và thẩm quyền ban hành để vừa phục vụ yêu cầu quản lý, vừa đảm bảo tính tự chủ, linh hoạt, nâng cao trách nhiệm của các ngân hàng thương mại nhà nước.
Với quy định về cho vay, quy chế cho vay ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN nên bỏ điều 16 (phương thức cho vay) vì việc áp dụng phương thức cho vay do tổ chức tín dụng căn cứ yêu cầu cụ thể của từng khoản vay, thơng lệ trong nước và quốc tế, các yêu cầu nghiệp vụ để quyết định, khơng cần quy định tại quy chế này. Bổ sung quy định của Ngân hàng Nhà nước về chiết khấu giấy tờ cĩ giá trị, loại bỏ các quy định đã được đề cập tại các văn bản khác như cho vay uỷ thác, cho vay ưu đãi, cho vay theo kế hoạch nhà nước vì, các nội dung này đã cĩ quy định riêng.
Sửa đổi, bổ sung, nâng cao tính hiệu lực của các quy định về bảo đảm tiền vay. Nên điều chỉnh lại thẩm quyền quy định về cho vay khơng cĩ bảo đảm bằng tài sản trong các trường hợp đặc biệt, thẩm quyền này nên giao cho Chính phủ. Trong trường hợp đồng tài trợ, cần cĩ quy định về quản lý, phân định phạm vi bảo đảm, phân định giá trị tài sản khi xử lý phát mại để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng trong tài trợ cho các dự án lớn. Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, cần tăng thêm quyền cho các tổ chức tín dụng. Với những khách hàng vay vốn khơng trả được nợ, cần cĩ quy định về nguyên tắc, cho phép tổ chức tín dụng thực hiện quản lý, nhận quyền sở hữu, tạo thuận lợi cho xử lý tài sản thu hồi nợ.
Thu hẹp đối tượng hưởng ưu đãi lãi suất, quy định rõ ràng quy chế khuyến khích các tổ chức tín dụng cĩ khả năng (chủ yếu là ngân hàng thương mại nhà nước) đầu tư cho một số đối tượng thuộc ưu tiên phát triển của nhà nước theo những điều kiện ưu đãi, nhưng theo lãi suất thoả thuận. Trong khi ngân hàng chính sách xã hội chưa đủ khả năng để thực hiện và quản lý tồn bộ các đối tượng ưu đãi tín dụng, thì yêu cầu này rất cần thiết để tránh tâm lý ỷ lại, lợi dụng.
Việc sử dụng quỹ dự phịng rủi ro cần được quy định thơng thống hơn, mở rộng đối tượng bị thiệt hại từ vốn tín dụng được xử lý từ quỹ dự phịng rủi ro.
Thúc đẩy quá trình tự do hố lãi suất. Lãi suất do thị trường quyết định. Khi cần thay đổi lãi suất thị trường, Ngân hàng Nhà nước tác động bằng việc điều hành các cơng cụ chính sách tiền tệ để hình thành lãi suất mới trên thị trường.
Đẩy nhanh quá trình hồn thiện và đổi mới việc sử dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ quản lý, kiểm sốt tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước.
Hồn thiện các quy định về tái cấp vốn, như cần xây dựng các quy định cho các hình thức tái cấp vốn, cĩ sự phân biệt về điều kiện và lãi suất. Xác định các loại lãi suất tái cấp vốn theo quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ. Cần xây dựng cơ sở xác định lãi suất tái cấp vốn để áp dụng chung cho cả ba hình thức tái cấp vốn: cho vay theo hồ sơ tín dụng, cầm cố, chiết khấu giấy tờ cĩ giá, cho vay đặc biệt và khơng đặt vấn đề hỗ trợ các ngân hàng gặp khĩ khăn trong chính sách lãi suất tái cấp vốn.
Phát triển nghiệp vụ thị trường mở, để trở thành cơng cụ chủ yếu trong quản lý tín dụng thơng qua việc thu hẹp hoặc mở rộng cung ứng tiền. Để làm được như vậy cần mở rộng và phát huy ưu thế của thị trường tiền tệ. Cơ sở để mở rộng thị trường tiền tệ là Ngân hàng Nhà nước phải tổ chức tốt, đảm bảo cho sự vận hành thơng suốt, ổn định của thị trường tiền tệ. Các tổ chức tín dụng mở rộng, đa dạng hố các hình thức huy động vốn và đối tượng cho vay, mở rộng việc luân chuyển vốn giữa các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác. Đồng thời cần đẩy mạnh hoạt động của các thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng nhằm đảm bảo khả năng thanh tốn và hiệu quả sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đĩ, cũng cần tăng khối lượng và chủng loại cơng cụ giao dịch trên thị trường mở. Đẩy mạnh tự do hố lãi suất trên thị trường tiền tệ làm cơ sở cho việc hình thành lãi suất trên thị trường mở.
Bên cạnh việc sử dụng cơng cụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở, việc sử dụng cơng cụ dự trữ bắt buộc cũng cần linh hoạt hơn. Cần phối hợp đồng bộ chính sách phát triển kinh tế với sử dụng các cơng cụ quản lý tín dụng, cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ. Để thực hiện các biện pháp quản lý cĩ hiệu quả trong những tình huống cĩ mâu thuẫn giữa mục tiêu phát triển kinh tế và mục tiêu quản lý tín dụng cần xác định được mục tiêu ưu tiên trong mỗi trường hợp cụ thể.
Tiếp tục đổi mới và hồn thiện cơng tác thanh tra, giám sát cả về quy chế, nghiệp vụ, cán bộ. Cần phát hiện kịp thời các sai phạm trong hoạt động tín dụng, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm và ưu tiên trang bị hiện đại phục vụ cơng tác này.
Quy định chế độ trách nhiệm rõ ràng. Thơng qua xác định chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị thuộc ngân hàng, Nhà nước cần quy định cụ thể trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong phối hợp xử lý các cơng việc cĩ liên quan.
Củng cố hệ thống thơng tin giữa Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước. Hệ thống này cần cải thiện theo hướng, ngồi hệ thống thơng tin báo cáo định kỳ như hiện nay, Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo và hỗ trợ các ngân hàng thương mại nhà nước thiết lập hệ thống thơng tin trực tuyến từ các đơn vị cơ sở ngân hàng thương mại nhà nước và chi nhánh Ngân hàng nhà nước trực thuộc sau đĩ cập nhật thơng tin tín dụng trong tồn ngành
3.2.3 HOÀN THIỆN, PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ.
Thị trường tiền tệ là nơi giao dịch vốn ngắn hạn gồm thị trường liên ngân hàng, thị trường giao dịch chứng khoán ngắn hạn và thị trường hối đoái
Đối tượng tham gia trên thị trường này là các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng .
Nếu thị trường tiền tệ hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tăng tỷ lệ tài sản có sinh lời, giảm dự trữ tiền mặt tại ngân hàng. Ngân hàng có thể dự trữ, các loại giấy tờ có giá như tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước phát hành .vv..
Khi cần thiết để đảm bảo khả năng chi trả có thể bán ra trên thị trường tiền tệ lại vừa có lợi nhuận .
Bên cạnh đó, hiện tượng thừa thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng là chuyện bình thường cho nên thông qua thị trường này có thể vay mượn lẫn nhau. Từ đó đã hình thành như lãi suất thị trường liên ngân hàng. Trên cơ sở lãi suất thỏa thuận dựa vào quan hệ cung cấu vốn tiền tệ trên thị trường. Để thị trường này hoạt động thực sự sôi động, ổn định làm cơ sở cho việc hình thành lãi suất chỉ đạo cho thị trường cũng như là công cụ chủ yếu trong việc điều hành chính sách tiền tệ, thì thị trường tiền tệ cần phải hoạt động theo hướng:
Thành lập trung tâm thị trường liên ngân hàng khu vực, trung tâm này không chỉ đơn thuần là một bộ phận quản lý của Ngân hàng nhà nước mà trung tâm phải trở thành môi giới giữa các Ngân hàng có nhu cầu cho vay và đi vay.
Mở rộng thành viên tham gia giao dịch, vì hiện nay mới chỉ có đại diện của các hệ thống Ngân hàng thương mại cho nên cần phải mở rộng cho tất cả các thành viên (là các chi nhánh lớn) của hệ thống được tham gia.
Nên bổ sung đa dạng hoá các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường ngoài hai công cụ chủ yếu là tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước thì các kỳ phiếu, trái phiếu do Ngân hàng thương mại phát hành cũng cần được bổ sung giao dịch .
Từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của các thành viên tham gia để làm cơ sở đưa ra các quyết định chính xác trên thị trường mở.
Một số biện pháp can thiệp của Ngân hàng nhà nước vào lãi suất.
Như chúng ta đã biết một trong những nhiệm vụ trung tâm cơ bản của Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách lãi suất để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Để thực hiện nhiệm vụ này Ngân hàng nhà nước phải sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ .
Trong giai đoạn đầu, khi nền kinh tế kém phát triển thì chính sách tiền tệ nói chung, việc điều tiết lãi suất trong nền kinh tế nói riêng mang nặng ý chí của nhà nước. Nguyên do khi ấy các qui luật kinh tế không phát huy tác dụng. Trong bối cảnh đó cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là Ngân hàng nhà nước) thường phải sử dụng các công cụ mang tính chất mệnh lệnh hành chính trực tiếp. Ngày nay những tiến bộ đã đạt được trong công cuộc đổi mới tạo được tiền đề để Ngân hàng nhà nước dần chuyển sang các công cụ điều hành gián tiếp. Mục đích của sử dụng điều hành công cụ gián tiếp nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong đó có điều tiết lãi suất thị trường thông qua một số biện pháp như sau :
Công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc (dự trữ bắt buộc)
Về mặt lý thuyết khi thực hiện công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc sẽ đạt được ba mục tiêu :
Thứ nhất : Là đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, đây là mục đích quan trọng nhất của công cụ này.
Thứ hai : Là khống chế bội số tiền tệ, tín dụng. Tỷ lệ dự trữ tối thiểu càng cao thì bội số tiền tệ, tín dụng càng nhỏ và ngược lại.
Thứ ba : Gây nên hiệu ứng lãi suất của dự trữ tối thiểu. Do dự trữ tối thiểu không được trả lãi cho nên dự trữ tối thiểu càng nhiều thì tổ chức tín dụng càng phải nâng cao lãi suất cho vay để bù đắp cho cả phần lãi suất huy động vốn phải trả cho số vốn tăng lên đó của dự trữ tối thiểu.
Công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc lần đầu tiên được qui định trong pháp lệnh Ngân hàng nhà nước ban hành vào tháng 5/1990. Trên thực tế qua các năm thực hiện, công cụ dự trữ tối thiểu mới phát huy được tác dụng ở mức độ còn hạn chế nhưng ba năm trở lại đây tỷ lệ này ngày càng được giảm dần từ 15% xuống 12% .v.v. và quyết định mới nhất gần đây của Ngân hàng nhà nước qui định dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ở mức rất thấp là 2%/tổng tiền gửi để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn dồi dào đáp ứng thanh toán đầu tư cho vay đó là quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 9/6/2003 và QĐ831/QĐ-NHNN ngày 30/7/2003.
Công cụ lãi suất tái cấp vốn:
Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất ngân hàng trung ương áp dụng khi cho các tổ chức tín dụng vay đáp ứng các nhu cầu tạm thời về vốn theo các điều kiện do ngân hàng trung ương qui định .
Lãi suất tái cấp vốn được định thấp hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất tái cấp vốn sẽ làm giảm nhu cầu vay ngân hàng trung ương của các tổ chức tín dụng đồng thời làm tăng nhu cầu vay giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng dẫn đến sẽ làm tăng lãi suất thị trường liên ngân hàng. Khi ngân hàng trung ương giảm lãi suất tái cấp vốn thì xẩy ra hiện tượng ngược lại làm tăng nhu cầu vay ngân hàng trung ương của các tổ chức tín dụng, giảm nhu cầu vay vốn lẫn nhau như vậy làm giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Như đã đề cập, lãi suất thị trường liên ngân hàng thay đổi sẽ tác động làm thay đổi lãi suất cơ bản của các tổ chức tín dụng và mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế .
Từ tháng 10/1992, Ngân hàng nhà nước tiến hành cho vay tái cấp vốn đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh dưới hình thức cho vay lại các khế ước cho vay có chất lượng tốt. Lãi suất tái cấp vốn được qui định dưới dạng tỷ lệ phần trăm (nhỏ hơn hoặc bằng 100%) so với lãi suất trên khế ước cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Mục đích của loại hình cho vay này là Ngân hàng nhà nước tạo thêm nguồn vốn cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh để mở rộng cho vay đối với nền kinh tế .
Từ năm 1997 đến nay Ngân hàng nhà nước từng bước thực hiện mục tiêu làm thay đổi về bản chất hình thức cho vay tái cấp vốn biến nó thành công cụ của chính sách tiền tệ. Đối tượng được vay tái cấp vốn không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ các Ngân hàng thương mại quốc doanh mà được mở rộng đến các loại hình tổ chức tín dụng khác, làm tài sản cầm cố cho khoản vay không chỉ các hoạt động tín dụng cho vay có chất lượng tốt mà còn có các chứng từ có giá của tổ chức tín dụng, lãi suất tái cấp vốn được qui định lại theo các hình thức thông thường là tỉ lệ phần trăm của số tiền lãi phải trả so với khoản tiền vay.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua hoặc bán các chứng từ có giá trên thị trường chứng khoán (chủ yếu là thị trường OTC) thông qua đó thực hiện việc cung ứng hoặc rút khối lượng tiền khỏi lưu thông. Tín phiếu và trái phiếu kho bạc sẽ là công cụ chủ yếu của thị trường mở hiện nay có thêm trái phiếu chính phủ.
Như vậy khác với tái cấp vốn là hoạt động trong nội bộ hệ thống ngân hàng, trong hoạt động thị trường mở Ngân hàng nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường chứng khoán, trong đó ngoài các tổ chức tín dụng còn có sự tham gia của các khu vực ngoài ngân hàng, tức là các đơn vị kinh tế và dân cư. Về nguyên tắc khi ngân hàng trung ương bán chứng khoán còn người mua bất kỳ có thể là tổ chức tín dụng, các tổ chức khác hay cá nhân thì cũng đều làm giảm tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng, bởi vậy sẽ làm tăng nhu cầu vay mượn giữa các tổ chức tín dụng dẫn đến lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán sẽ làm tăng tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng, giảm nhu cầu vay mượn của các tổ chức tín dụng và dẫn đến giảm lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
Tóm lại : Dù ở các nước tân tiến trên thế giới và ngay ở Việt nam ngành Ngân hàng cũng đã có những cố gắng rất lớn để điều hành về lãi suất trên cơ sở phân tích, đánh giá các chỉ số vĩ mô trong nền kinh tế để có thể xác định được lãi suất trên thị trường là cao hay thấp, có tương ứng so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì việc lãi suất được hình thành tự do trên thị trường cũng chưa phải là lãi suất tối ưu. Điều đó được lý giải tại sao những nước có nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao ngân hàng trung ương cũng phải có những biện pháp để tác động điều chỉnh lãi suất thị trường thông qua các công cụ gián tiếp. Vì vậy toàn bộ những phần được trình bầy ở trên cũng chưa thể nói được hết tất cả. Chính vì thế ngoài các biện pháp can thiệp trên thì để có được các mức lãi suất cơ bản công bố phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thì Ngân hàng nhà nước cần phải có sự điều chỉnh thích hợp được tính toán dựa trên kinh nghiệm thực tế trong quản lý, điều hành lãi suất trong nhiều năm qua.
CHƯƠNG I 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LÃI SUẤT 1
1.1.LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1
1.1.1 Khái niệm về lãi suất 1
1.1.2-Các quan điểm về lãi suất 4
1.1.3 Các loại lãi suất 6
1.1.3.1Lãi suất cơ bản 6
1.1.3.2-Lãi suất tái chiết khấu. 6
1.1.3.3-Các loại lãi suất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại 6
1.1.3.4-Lãi suất liên ngân hàng 7
1.1.4 Những nhân tố tác động đến lãi suất 7
1.1.4.1 Mứùc cung cầu tiền tệ 7
1.1.4.2-Tỷ suất lợi nhuận : 8
1.1.4.3-Lạm phát : 9
1.1.4.4 Sự ổn định của nền kinh tế quốc dân 9
1.1.4.5-Các chính sách của nhà nước 10
1.1.5 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường 11
1.1.5.1 Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 12
1.1.5.2 Lãi suất là công cụ gián tiếp điều hành nền kinh tế vĩ mô. 12
1.2 Vấn Đề Tự Do Hoá Lãi Suất Trong Nền Kinh Tế. 14
1.2.1 Khái niệm tự do hoá lãi suất 14
1.2.2 Bản chất và điều kiện tự do hoá lãi suất 14
1.2.3 Tác dụng của tự do hoá lãi suất: 15
1.3 KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT. 17
1.3.1 Chính sách tự do hoá lãi suất của các nước công nghiệp và Asean. 17
1.3.2 Chính sách lãi suất trong sự điều tiết kinh tế vĩ mơ Fed giai đoạn năm 1980 đến năm 1996: 18
1.3.3 Chính sách điều tiết vĩ mô lãi suất của NHTW Pháp 18
1.3.4 Chính sách lãi suất trong sự điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW Nhật Bản 19
1.3.5 Bảng thực hiện chính sách tự do hoá ở một số nước : 20
1.4 BÀI HỌC THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 21
CHƯƠNG II CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH TỰ DO HĨA LÃI SUẤT ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 23
2.1 CƠ CHẾ QUẢN LÝ LÃI SUẤT TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-1988) 23
2.2 Cơ chế quản lý lãi suất sau thời kỳ đổi mới (1988 - đến nay) 27
2.2.1 Giai đoạn từ 1988 đến 1990 28
2.2.2 Giai đoạn từ 1991 đến 1995 30
2.2.3 Giai đoạn 1996-1999 35
2.3.CƠ CHẾ QUẢN LÍ LÃI SUẤT THỜI KÌ HỘI NHẬP KINH TẾ CAO VÀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH-CƠ CHẾ LÃI SUẤT THỎA THUẬN(2000-NAY): 44
2.3.1.Giai đoạn từ 08/2000-06/2002: 44
2.3.2.Giai đoạn từ 06/2002 đến nay 46
2.4 THỰC TRẠNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TỪ KHI ÁP DỤNG CƠ CHẾ LÃI SUẤT THOẢ THUẬN 56
2.4.1.Lộ trình tự do hoá lãi suất 56
Về nghiệp vụ thị trường mở (TTM) 57
Về thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước 60
2.4.2 THỰC TRẠNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 64
CHƯƠNG 3 68
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CƠ CHẾ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 68
3.1 ĐỊNH HƯỚNG CHO CƠ CHẾ TỰ DO HĨA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 68
3.1.1 THỰC HIỆN CƠ CHẾ LÃI SUẤT THỎA THUẬN ĐI ĐÔI VỚI VIỆC ĐIỀU TIẾT CUNG CẦU TIỀN TỆ BẰNG CÁC CÔNG CỤ GIÁN TIẾP NHẰM ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG : 68
3.1.2 TÁI CẤU TRÚC TỔ CHỨC NGÂN HÀNG VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ LÃI SUẤT NHẰM THÍCH ỨNG VỚI ĐIỀU KIỆN TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT . 69
3.1.2.1 Cơ cấu lại mô hình tổ chức hệ thống Ngân hàng thương mại. 69
3.1.3-Định hướng và dự báo cho thời gian sắp tới. 73
3.2-Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Tác Đơng Của Cơ Chế Tự Do Hĩa Lãi Suất. 75
3.2.1-Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô 75
3.2.2-Hồn thiện và phát triển thị trường tài chính. 76
3.2.3 HOÀN THIỆN, PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ. 79
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4244.doc