Mục lục
Mở đầu
I. Sự ra đời máy tính và ngành sản xuất máy tính
II. Ngành sản xuất phần mềm máy tính
1. Lịch sử phát triển công nghệ phần mềm
2. Một số phần mềm phổ biến
a. Trình duyệt
b. Hệ điều hành
III. ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC CÔNG TY VIỄN THÔNG
1. Cáp quang
2. Bong bóng hình thành
3. Bong bóng nổ
28 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 4590 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử ra đời máy vi tính - Sự ảnh hưởng của máy vi tính đến hoạt động kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG
TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BỘ MÔN : QUẢN TRỊ SỰ THAY ĐỔI
Đề tài : Lịch sử ra đời máy vi tính-sự ảnh hưởng của máy vi tính đến hoạt động kinh doanh
Mục lục
Mở đầu Trang 1
Sự ra đời máy tính và ngành sản xuất máy tính Trang 1
Ngành sản xuất phần mềm máy tính Trang 11
Lịch sử phát triển công nghệ phần mềm Trang 11
Một số phần mềm phổ biến Trang 12
Trình duyệt Trang 12
Hệ điều hành Trang 16
ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC CÔNG TY VIỄN THÔNG Trang 22
Cáp quang Trang 22
Bong bóng hình thành Trang 23
Bong bóng nổ Trang 24
Mở đầu
Vạn vật luôn tương tác với nhau và luôn vận động, cải tiến không ngừng. Sự thay đổi của yếu tố này sẽ kéo theo sự thay đổi của yếu tố khác. Cũng như vậy, sự ra đời của máy tính, một phát minh vĩ đại của loài người, đã làm ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực xã hội loài người. Từ lĩnh vực chính trị, văn hóa đến kinh tế. Những giấy tờ, công đoạn trong hành chính được tự động hóa, lưu trữ bằng những công cụ, ứng dụng trên máy tính giúp công việc trở nên gọn nhẹ, dễ dàng, tiết kiệm. Văn hóa con người cũng thay đổi, nhiều ngành chuyển dần làm việc bằng tay sang xử lý bằng máy tính, và con người chỉ cần nhập dữ liệu và thực hiện vài thao tác điều khiển. Kinh tế có những biến đổi vượt bậc với sự xuất hiện những ngành nghề mới. Sau đây nhóm chúng tôi sẽ giới thiệu một số thay đổi trong lĩnh vực sản xuất máy tính và công nghệ phần mềm máy tính.
Sự ra đời của máy tính và ngành sản xuất máy tính:
Một phát minh có thể chạm đến mọi khía cạnh cuộc sống. một thiết bị thay đổi cách chúng ta làm việc, sinh sống và vui chơi. Một loại máy có thể thực hiện tất cả điều này và hiện diện hầu hết các doanh nghiệp và các hộ gia đình. Đó chính là máy tính.
Các máy tính điện tử mới chỉ ra đời khoảng hơn một nửa thế kỉ, nhưng xét đến tổ tiên của nó cũng được khoảng 2000 năm. Từ bàn tính bằng gỗ đầu tiên đến những bộ vi xử lý tốc độ cao mới nhất, chúng đã làm thay đổi gần như mọi khía cạnh cuộc sống và làm cho cuộc sống tốt hơn.
Quay lại gần 2000 năm trước đây, bàn tính chỉ đơn giản là một giá đỡ bằng gỗ có hai dây được giữ song song mà có các hạt được xâu thành chuỗi. Nó giúp thực hiện các phép tính số học bình thường.
Tiến đến năm 1694 khi Blaise Pascal phát minh ra máy tính kỹ thuật số đầu tiên, vẫn là các tính toán thông thường nhưng được thực hiện bằng cách quay số. Nó được thiết kế để giúp cha ông, một cán bộ thu thuế.
Vào đầu những năm 1800, một giáo sư toán học có tên là Charles Babbage đã thiết kế một máy tính tự động. nó sử dụng năng lượng hơi nước và có thể lưu trữ đến 1000 con số. nó được lập trình và lưu trữ dữ liệu trên các thẻ đục lỗ. Ông đã cố gắng đưa vào đó những tiện ích mà một máy tính hiện đại cần. Tuy nhiên, ông đã thất bại do kỹ thuật gia công thiếu chính xác. Sau sự thất bại của Baddage, người ta bắt đầu mất dần hứng thú với máy tính.
Đến nửa sau những năm 1850 có những tiến bộ mới trong toán học và vật lý. Năm 1890, Mỹ lần đầu tiên sử dụng máy tính cho một mục đích lớn là cuộc điều tra dân số.
Những lợi thế đã được những ngành công nghiệp thương mại chú ý và ngay lập tức International Business Machines (IBM), Remington-Rand, Burroughs, và các công ty khác nhảy vào phát triển hệ thống kinh doanh máy đục lỗ. Theo các tiêu chuẩn hiện đại, các máy đục lỗ thẻ làm việc rất chậm, thường xử lý 50-250 thẻ / phút, với mỗi thẻ đang nắm giữ lên đến 80 chữ số. Vào thời điểm đó, tuy nhiên, thẻ đục lỗ là một bước tiến rất lớn; họ đã cung cấp một phương tiện đầu vào, đầu ra, và bộ nhớ lưu trữ trên quy mô lớn. Sau hơn 20 năm ra đời, loại máy sử dụng thẻ đục lỗ này đã làm phần lớn các tính toán trong kinh doanh.
Đến cuối những năm 1930, kỹ thuật đục lỗ này đã được Howard Hathaway Aiken phối hợp với các kỹ sư của IBM, đã tiến hành xây dựng một máy tính lớn kỹ thuật số tự động được gọi là Harvard Mark I, có thể thực hiện tất cả bốn phép tính số học, đặc biệt được xây dựng chương trình để xử lý logarit và hàm lượng giác. Vẫn còn rất chậm, cần 3-5 giây cho một phép nhân , nhưng nó có thể hoàn thành các tính toán dài một cách tự động mà không cần sự can thiệp của con người.
Chiển tranh thế giới hai nổ ra, đòi hởi một nhu cầu cấp thiết về khả năng tính toán, đặc biệt là cho quân đội. Năm 1942, John P. Eckert, John W. Mauchley, và các cộng sự của mình tại Đại học Pennsylvania đã quyết định xây dựng một máy tính điện tử tốc độ cao để thực hiện công việc. Máy này được gọi là ENIAC “Electrical Numerical Integrator And Calculator” . Nó có thể nhân hai số với tỷ lệ 300 tích số / giây, bằng cách tìm giá trị của mỗi tích số từ một bảng nhân được lưu trữ trong bộ nhớ của nó. Như vậy, ENIAC đã làm nhanh hơn 1000 lần so với thế hệ máy tính trước đó. ENIAC sử dụng 18.000 ống chân không chuẩn, chiếm 1800 feet vuông không gian sàn nhà, và được sử dụng khoảng 180.000 watt điện. ENIAC rất khó để viết chương trình bởi bạn phải viết lại hoàn toàn những gì bạn muốn nó thực hiện. Tuy nhiên, hiệu quả của nó trong việc xử lý các chương trình đặc biệt mà nó đã được thiết kế là rất cao. ENIAC thường được chấp nhận như là thành công đầu tiên máy tính tốc độ cao kỹ thuật số điện tử và được sử dụng trong nhiều ứng dụng 1946-1955.
Năm 1947, với sự ra đời của bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM), máy tính giờ đây chỉ có kích thước như một cây đàn piano. Năm 1956, IBM đã tạo ra được 76 máy tính lớn đưa vào sử dụng.
Những phát triển công nghệ giai đoạn trước năm 1957 dẫn đến văn phòng quản lý và ngân sách của Mỹ chấp nhận ngành sản xuất máy tính là một phân loại ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp này bao gồm việc sản xuất máy tính điện tử, thiết bị ngoại vi và thiết bị lưu trữ.
Trong thập niên 1960, những nỗ lực để thiết kế và phát triển máy tính nhanh nhất có thể với công suất lớn nhất đạt tới một bước ngoặt với việc hoàn thành của máy LARC cho Phòng thí nghiệm bức xạ Livermore của Tổng công ty Sperry-Rand, và máy tính Stretch của IBM. Các LARC đã có một bộ nhớ chính của 98.000 từ và nhân trong 10 micro giây. Stretch đã được cung cấp với một bộ nhớ phân hạng quyền truy cập theo công suất, theo đó quyền truy cập chậm hơn cho các cấp bậc của công suất lớn hơn, thời gian truy cập nhanh nhất là ít hơn 1 micro giây và khả năng tổng số trong vùng lân cận của 100 triệu từ.
Năm 1971, Marcian E. Hoff, Jr., một kỹ sư tại Tổng công ty Intel, phát minh ra bộ vi xử lý và đã mở ra một giai đoạn khác của tiến trình phát triển máy tính. Các bộ vi xử lý là một chuyên mạch tích hợp được khả năng xử lý bốn bit dữ liệu tại một thời điểm. Hàng ngàn hacker mong muốn sở hữu một chiếc cho riêng mình. Máy tính lúc bấy giờ chỉ được sử dụng ở trong quân đội, các trường đại học và các công ty lớn đơn giản chỉ vì chi phí khổng lồ để mua hoặc thuê và hoạt động.
Một cuộc cách mạng mới trong phần cứng máy tính giờ đây cũng đang diễn ra theo hướng thu nhỏ kích thước và sử dụng kỹ thuật tích hợp quy mô lớn. Trong những năm 1950 , người ta nhận ra rằng "nhân rộng " kích thước của điện tử mạch máy tính và các bộ phận kỹ thuật số sẽ tăng tốc độ và hiệu quả và cải thiện hiệu suất. Tuy nhiên, tại thời điểm đó các phương pháp sản xuất đã không đủ tốt để hoàn thành nhiệm vụ đó.
1975, Altair 8800 ra đời, được sản xuất bởi Micro Instrumentation và Telementry Systems (MITS) bán lẻ với giá $ 397, đó là mức giá có thể chấp nhận được giúp phát triển cộng đồng hacker. Altair không được thiết kế cho người mới làm quen với máy tính vì họ phải tự viết chương trình. Altair có một bộ nhớ 256 byte - về kích thước đoạn, và được mã hóa ở hệ nhị phân. Chương trình này được thực hiện thủ công bằng bộ chuyển đổi nằm ngay phía trước máy. Nó không bao gồm một màn hình hoặc bàn phím, và các ứng dụng của nó rất hạn chế.
Hai hacker trẻ bị thu hút bởi Altair. Họ quyết định viết phần mềm cho Altair và liên lạc với Ed Roberts chủ sở hữu MITS, đưa ra đề nghị cung cấp một BASIC có thể chạy trên Altair. BASIC (Beginners All-purpose Symbolic Instruction Code) ban đầu được phát triển vào năm 1963 bởi Thomas Kurtz và John Kemeny, thành viên của bộ phận toán học Dartmouth. BASIC được thiết kế để cung cấp tương tác, phương pháp dễ dàng từ các nhà khoa học cho đến những lập trình viên. Nó cho phép sử dụng những câu lệnh như print "hello" hoặc let b=10 . Nó sẽ là một sự thúc đẩy lớn cho Altair nếu có sẵn BASIC, do đó, Robert đã đồng ý trả tiền nếu nó có thể hoạt động tốt. Hai hacker trẻ tuổi đã làm việc miệt mài và hoàn thành chỉ trong một thời gian ngắn đề xuất trình trước Roberts. Và họ đã thành công. Hai hacker này chính là William Gates and Paul Allen. Họ sau đó đã gia nhập Microsoft và sản xuất BASIC và hệ điều hành cho các máy khác nhau.
Sau khi giới thiệu của Altair 8800, ngành công nghiệp máy tính cá nhân trở thành một chiến trường cạnh tranh ác liệt.
IBM đã có được các tiêu chuẩn công nghiệp máy tính trong hơn nửa thế kỷ. Họ đã giữ vị trí của họ như là tiêu chuẩn khi họ giới thiệu chiếc máy tính cá nhân đầu tiên, IBM Model 60 năm 1975.
Tuy nhiên, Apple, một công ty máy tính mới thành lập, cũng cho ra mắt Apple II ở hội chợ Coast tại San Fracisco (The Apple I là máy tính đầu tiên được thiết kế bởi Jobs và Wozniak trong nhà để xe của Wozniak, mà đã không được sản xuất trên quy mô rộng). Apple II được cài sẵn BASIC, đồ họa màu sắc, và một bộ nhớ lên đến 4100 ký tự chỉ với 1298 $. Các chương trình và dữ liệu có thể được lưu trữ trên everyday audio- cassette recorder hàng ngày. Trước khi kết thúc Hội chợ, Wozniak và Jobs đã giành được 300 đơn đặt hàng cho Apple II và từ đó, Apple phất lên nhanh chóng.
Ngoài ra, được giới thiệu vào năm 1977 là TRS-80. Đây là một máy tính của nhà sản xuất Tandy Radio Shack. Trong hóa thân thứ hai của mình, các TRS-80 Model II, đã hoàn chỉnh với một bộ nhớ 64.000 ký tự và một ổ đĩa để lưu trữ các chương trình và dữ liệu . Tại thời điểm này, chỉ có Apple và TRS có máy với ổ đĩa. Với sự giới thiệu của ổ đĩa, đĩa mềm xuất hiện như là sự phân phối phần mềm thuận tiện nhất.
IBM, ở thời điểm này đang sản xuất máy tính lớn và máy tính nhỏ cho các công ty cỡ trung và cỡ lớn, quyết định phải hành động và bắt đầu nghiên cứu và cho ra mắt Acorn, mà sau này được gọi là IBM PC, đây là máy tính đầu tiên được thiết kế cho thị trường cá nhân. Tuy nhiên, hầu hết các linh kiện lại không do IBM chế tạo, do đó đẩy chi phí lên quá cao so với thị trường máy tính cá nhân. Nó được trình làng kèm với một bộ nhớ 16.000 ký tự, bàn phím máy đánh chữ điện từ IBM, và kết nối với máy nghe băng cassette ,với giá $ 1265.
Đến năm 1984, Apple và IBM đã cho ra các mô hình mới. Apple phát hành Macintosh thế hệ đầu tiên, đó là máy tính đầu tiên để đến với một giao diện người dùng đồ họa (GUI) và chuột. GUI làm cho máy nhiều hấp dẫn hơn cho người dùng máy tính ở nhà bởi vì nó đã được dễ dàng sử dụng. Doanh số bán hàng của Macintosh tăng vọt chưa từng thấy. IBM đã nhanh chóng theo đuôi Apple và phát hành 286-AT, mà với các ứng dụng như Lotus 1-2-3, một bảng tính và Microsoft Word, nhanh chóng được các doanh nghiệp yêu thích.
Phần mềm là cần thiết để các máy tính chạy tốt. Năm 1981,Microsoft phát triển hệ điều hành MS-DOS trong máy tính của IBM, trong khi Apple phát triển hệ thống phần mềm riêng của mình.
Mục tiêu chính của những nhà sản xuất máy tính là tăng tốc độ xử lý, độ chính xác và dung lượng. Gần như mọi nhà sản xuất máy tính thực hiện điều này và các máy tính hiện lên ở khắp mọi nơi. Máy tính sử dụng trong doanh nghiệp để theo dõi hàng tồn kho, sử dụng trong các trường đại học để giúp đỡ sinh viên trong nghiên cứu, thực hiện các tính toán phức tạp tốc độ cao trong các phòng thí nghiệm.
Máy tính đã có mặt ở khắp mọi nơi và xây dựng một ngành công nghiệp lớn. Năm 1994, ngành công nghiệp này sử dụng 354.000 lao động và làm tăng 1,9 phần trăm lao động trong các ngành sản xuất năm 1994. Điều này so sánh với 4,9 phần trăm trong ngành chế tạo động cơ và thiết bị xe, 2,6 phần trăm ngành máy bay, và 3,7 phần trăm ngành dệt may thì nó chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Song nếu xét về mặt kinh tế, ngành công nghiệp này có giá trị các lô hàng lên tới $ 77000000000 năm 1993 và chiếm 2.5 phần trăm giá trị của tất cả các lô hàng trong các ngành sản xuất.
Tương lai đầy hứa hẹn cho ngành công nghiệp máy tính và công nghệ. Tốc độ bộ vi xử lý sẽ tăng nhanh chóng trong những năm tới. Khi kỹ thuật sản xuất tiếp tục được hoàn thiện, giá dự kiến sẽ giảm dần . Tuy nhiên, kể từ khi công nghệ vi xử lý sẽ được tăng lên, đó là chi phí cao hơn sẽ bù đắp sự sụt giảm giá các bộ xử lý cũ hơn. Nói cách khác, giá của một máy tính mới sẽ ở lại về cùng một từ năm này sang năm, nhưng công nghệ ổn định sẽ tăng .
Kể từ khi kết thúc Thế chiến II, ngành công nghiệp máy tính đã phát triển từ những viên gạch đầu tiên đã trở thành một trong những ngành công nghiệp lớn nhất và lợi nhuận cao nhất tại Hoa Kỳ. Hiện nay bao gồm hàng ngàn công ty, làm mọi thứ từ siêu máy tính có giá trị hàng triệu đô la đến giấy in và đĩa mềm. Nó sử dụng hàng triệu lao động và tạo ra hàng chục tỷ đô la doanh thu mỗi năm. Chắc chắn, các máy tính đã tác động đến mọi khía cạnh của cuộc sống của người dân. Nó có ảnh hưởng đến cách mọi người làm việc và vui chơi. Nó làm cuộc sống dễ dàng hơn bằng cách thực hiện công việc khó khăn cho con người. Máy tính thực sự là một trong những phát minh đáng kinh ngạc nhất trong lịch sử.
Có cầu là sẽ có cung. Đúng vậy, trước những nhu cầu người dùng về sự nhỏ gọn, dễ dàng di chuyển của một cái máy tính thì Laptop ra đời.
Năm 1981, chiếc laptop đầu tiên ra đời với hình dáng một chiếc vali lớn nặng hơn 9 kg. Sản phẩm được đặt tên là Osborne 1. Được nhà sáng chế người Mỹ Adam Osborne chế tạo vào năm 1981, Osborne 1 vô cùng "giản dị" với vi xử lý Zilog Z80 4 MHz, "tằn tiện" với bộ nhớ RAM tích hợp 64 KB, cùng hai đĩa mềm 5,25 inch và màn hình đen trắng có độ phân giải 52 x 24 pixel. Nó được bán với giá $ 1.795, được coi là một thành công vượt bậc với doanh thu đạt 10.000 đơn vị / tháng. Vào tháng Chín năm 1981, Công ty máy tính Osborne Hoa Kỳ đã lần đầu tiên đạt mức doanh thu $1.000.000 một tháng.
Chiếc Laptop đầu tiên thế giới
Năm 1989 đánh dấu sự "lột xác" đầu tiên của laptop. Compaq LTE bắt đầu mang dáng dấp của những chiếc laptop hiện đại, nhỏ gọn hơn nhiều so với Osborne 1. Nó có trọng lượng chỉ hơn 3 kg một chút và có thiết kế không khác mấy so với những mẫu laptop hiện tại và khác xa với "gã khổng lồ thô kệch" mà "tằn tiện" Osborne 1. Compaq LTE sở hữu bộ vi xử lý Intel 8086 xung nhịp 9,55 MHz, bộ nhớ RAM 640 KB và ổ đĩa cứng 20 MB. Máy có màn hình đen trắng hiển thị tốt với độ phân giải 640 x 200 pixel.
Năm 1992 đánh dấu sự ra đời của dòng ThinkPad với series 700 với phím điều khiển con trỏ, nay gọi là trackpad. Đây chính là hình mẫu sơ khai của những chiếc laptop doanh nhân Lenovo IBM ThinkPad nổi tiếng hiện nay. Trackpad hay còn gọi là pointing stick trên series 700 giúp người sử dụng di chuyển con trỏ một cách chính xác. Máy sử dụng chính vi xử lý IBM 486 SLC 25 MHz, RAM 4 MB. Ổ cứng 80 MB hoặc 120 MB, cùng màn hình màu có độ lớn 9,5 inch độ phân giải 640 x 480 pixel.
Apple PowerBook series 500 ra đời năm 1993 chính là hình mẫu hoàn chỉnh của laptop hiện đại. Đây là laptop đầu tiên có touchpad, hệ thống xử lý âm thanh 16-bit, hệ thống loa stereo và rất nhiều điều mới mẻ khác đã trở thành phổ thông trong laptop hiện đại. 5 máy trong dòng PowerBook series 500 của Apple đều có bộ nhớ RAM 4 MB, nhiều lựa chọn về màn hình với độ lớn từ 9,5 đến 10,4 inch, cùng độ phân giải 640 x 400 pixel, vi xử lý xung nhịp từ 25 đến 33 MHz và ổ đĩa cứng HDD dung lượng mở rộng từ 160 đến 75 0MB.
1993, Thị phần của máy tính cá nhân trên toàn thế giới trong năm: IBM 10,8%, Apple Computer 9,4%, 8,1% Compaq Computer.
Đến năm 1994, đã có sự thay đổi với sự soán đổi vị trí của các đại gia trong ngành máy tính, thị phần của máy tính cá nhân trên toàn thế giới trong năm: 10,3% Compaq Computer, Apple Computer 9,4%, IBM 8,5%.
HP Jornada 820 ra đời năm 1998 là mẫu laptop đầu tiên thể hiện ý tưởng netbook - loại laptop mini đang rất được ưa chuộng.
1999, IBM thông báo sẽ ngừng bán máy tính cá nhân trong các cửa hàng bán lẻ, tập trung vào việc bán hàng trực tiếp, Internet, và các kênh khác.
Acer Travelmate C100 ra mắt năm 2000 là máy tính bảng màn hình xoay đầu tiên. Nó được trang bị màn hình 10,4 inch, độ phân giải 1.024 x 768 pixel có thể xoay chỉnh ở các góc độ mong muốn và rất "chuyên nghiệp" - có thể gập ngang ngay trên bề mặt bàn phím, phục vụ việc ghi chép một cách thuận tiện. TravelMate C100 có trọng lượng gần 1,5 kg, sử dụng vi xử lý Intel Pentium 3 900 MHz, bộ nhớ RAM 512 MB và ổ cứng HDD dung lượng 40 GB.
2005, Lenovo của Trung Quốc hoàn tất việc mua lại các doanh nghiệp máy tính cá nhân của IBM.
HP Pavilion dv2000 series (2006) mở đầu cho thời kỳ laptop song hành cùng thời trang. Dòng máy này có thiết kế đẹp, vỏ máy đen bóng - màu đen nghệ thuật của những chiếc đàn piano, sử dụng công nghệ sơn phủ bề mặt độc đáo HP Imprint với những họa tiết lượn sóng hay hình rồng tinh tế. Sự trau chuốt trong thiết kế của HP đã ảnh hưởng tới các hãng khác như Dell và Gateway, hai hãng này thời gian sau đó, đã rất nỗ lực trong việc cải thiện hình ảnh sản phẩm của mình nhằm đưa ra thị trường những mẫu máy đẹp và ưa nhìn hơn.
Asus Eee PC 701 xuất hiện trên thị trường năm 2007 đánh dấu một xu thế phát triển mới của thị trường laptop và ngành công nghiệp PC. Sản phẩm này tiên phong cho trào lưu laptop mini hay còn gọi là netbook.
Eee PC 701 có màn hình 7 inch, độ phân giải 800 x 480 pixel, RAM 512 MB, ổ cứng thể rắn 4 GB, thiết kế nhỏ gọn, nặng chưa đầy 1 kg. Nhược điểm của nó, cũng như là đặc tính cố hữu của các netbook sau này, là bàn phím chật hẹp và màn hình nhỏ. Để xem nội dung các trang web, bạn phải cuộn ngang chiều rộng màn hình để xem đầy đủ. Song với mức giá 399 USD, sản phẩm này đã khuấy động thị trường laptop giá rẻ và khiến các hãng sản xuất laptop khác như Acer, MSI, HP, Lenovo, Dell, và cả Samsung không thể đứng ngoài cuộc chơi.
Apple MacBook Air (2008) khiến thị trường phải "định nghĩa lại" thế nào là laptop siêu di dộng. Cho dù Dell Adamo hay HP Voodoo Envy 133 có được coi là siêu phẩm, là tuyệt tác của laptop siêu di động thì danh hiệu laptop mỏng, nhẹ đầu tiên thế giới vẫn thuộc về Apple MacBook Air. Chiếc máy này đã phải đánh đổi một số cổng kết nối thiết bị ngoại vi để có thân máy "mảnh dẻ" và trọng lượng siêu nhẹ, khoảng 1,4 kg. Song tính cơ động cao của máy và sự chuyên nghiệp trong xử lý lại được đánh giá cao, với cấu hình gồm vi xử lý Intel Core 2 Duo, RAM 2 GB, và ổ cứng 80 GB.
2010, Apple cho ra mắt máy tính bảng iPad. Đơn vị tính năng sẵn có Wi-Fi và 9,7-inch hiển thị màn hình cảm ứng. Giá là US $ 499-829. Với tổng doanh số bán hàng ngày đầu tiên trên 300.000 đơn vị. Giá trị thị trường của Apple (US $ 222.000.000.000) lần đầu tiên vượt qua Microsoft (US $ 219.000.000.000) kể từ ngày 19 tháng 12,1989. Apple cổ phiếu có giá trị hơn 10 lần so với 10 năm trước đây, trong khi cổ phiếu Microsoft đã giảm 20 phần trăm so với cùng thời gian.
Và với xu hướng hiện nay ưa chuộng sự tiện lợi, nhỏ gọn dễ di chuyển, thời trang kèm với thời lượng pin cũng nhỉnh hơn laptop thì máy tính bảng cũng đang được giới trẻ hết sức quan tâm và trở thành thị trường tiềm năng cho các nhà sản xuất.
II. Ngành sản xuất phần mềm máy tính:
Hẳn ai cũng biết Google, Microsoft, Apple là 3 hãng công nghệ hàng đầu hiện nay. Dù khủng hoảng kinh tế tại Mỹ vẫn còn dư âm nhưng doanh thu của những tập đoàn này vẫn liên tục tăng và cạnh tranh gay gắt với nhau làm cho thị trường công nghệ vẫn luôn sôi động. Apple với doanh thu năm ngoái là 15,68 tỷ USD thì mới đây Apple công bố doanh thu của quý đầu tiên năm tài chính 2011 là 26,74 tỷ USD với lợi nhuận lên đến 6 tỷ USD. Microsoft với 9 sản phẩm phần mềm trên 10 sản phẩm thành công nhất năm 2010. Google đạt doanh thu 29 tỷ năm 2010. Bill Gates, tỷ phú giàu nhất nước Mỹ với tài sản lên đến 80 tỷ USD (năm 2009) là cha đẻ của tập đoàn Microsoft. Những điều này cho thấy ngành công nghệ nói chung và công nghệ phần mềm máy tính nói riêng là ngành trí tuệ đầy tiềm năng.
Lịch sử phát triển công nghệ phần mềm :
Thập niên 1940 : Các chương trình máy tính được viết bằng tay
Thập niên 1950 : Các công cụ đầu tiên xuất hiện như là phần phiên dịch Macro Assembler và phần mêm thông dịch đã được tạo ra và sử dụng rộng rãi để nâng cao năng suất và chất lượng. Các trình dịch được tối ưu hóa lần đầu tiên ra đời.
Thập niên 1960 : Các công cụ của thế hệ thứ hai như các trình dịch tối ưu hóa và công việc kiểm tra mẫu đã được dùng để nâng cao sản phẩm và chất lượng. Khái niệm công nghệ phần mềm được bàn thảo rộng rãi.
Thập niên 1970 : Các công cụ phần mềm, chẳng hạn trong UNIX các vùng chứa mã, lệnh make,… được kết hợp với nhau. Số lượng doanh nghiệp nhỏ về phần mềm và số lượng máy tính cỡ nhỏ tăng nhanh.
Thập niên 1980 : Các PC và máy trạm ra đời. Cùng lúc đó có sự xuất hiện mô hình dự đoán khả năng. Lượng phần mềm tiêu thụ tăng mạnh.
Thập niên 1990 : Phương pháp lập trình cực hạn được chấp nhận rộng rãi. Trong thập niên này, word wide web và các thiết bị cầm tay phổ biến rộng rãi.
Hiện nay : Các phần mềm biên dịch và quản lý như .NET, PHP và Java làm cho việc viết phần mềm trở nên dễ dàng hơn.
Một số phần mềm phổ biến :
Công nghệ phần mềm là ngành công nghệ thuộc về trí tuệ. Trí tuệ con người là vô hạn, vì thế phần mềm được sản xuất ra cũng tỷ lệ thuận với nó. Chúng ta khó có thể thống kê được số phần mềm đã, đang và sẽ được sử dụng. Điều này chứng tỏ được rằng ngành công nghệ phần mềm chứa đựng tiềm năng phát triển rất lớn. Sau đây là một số phần mềm phổ biến.
Trình duyệt:
Sự ra đời của máy tính đã tạo tiền đề thúc đẩy cho hàng loạt các nhà sản xuất trình duyệt và ứng dụng đua nhau cạnh tranh mạnh mẽ, liên tục và không ngừng để chiếm lĩnh thị trường. Từ những ông vua sừng sỏi trong ngành cho đến những nhà sản xuất nhỏ lẻ đều muốn mau chóng khẳng định vị thế chỗ đứng cho doanh nghiệp mình trong lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng này đón đầu với xu thế thế giới bên cạnh sự phát triển và cải tiến không ngừng của máy tính. Nói đến trình duyệt, có lẽ người dùng máy tính nào cũng biết. Ngày nay, có khá nhiều trình duyệt đang tồn tại và phát triển cùng nhau. Nó giúp người ta có thể đọc được dữ liệu được viết dưới ngôn ngữ lập trình nhằm mục đích cho thương mại điện tử, tiếp cận thông tin và thường là thông qua đường truyền internet. Dù chỉ là một ứng dụng trên máy tính nhưng nó đã gây những cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty với nhau. Có thể nói vì doanh thu, lợi nhuận mà trình duyệt mang lại đã làm các công ty ganh đua nhau trên thương trường. Cuộc cạnh tranh diễn ra từ khi trình duyệt đầu tiên ra đời như sau :
Ngày 13 tháng 10 năm 1994, tập đoàn Mosaic Communications (sau đổi tên thành Netscape Communications) đã giới thiệu phiên bản beta của trình duyệt Mosaic Netscape, sau này được đổi tên thành Netscape Navigator. Phiên bản 1.0 của Navigator được phát hành vào ngày 15 tháng 12 trong cùng năm này. Đây là trình duyệt đầu tiên, tạo tiền đề cho sự phát triển trình duyệt sau này. Mới ra đời, Navigator nhanh chóng trở thành ông vua trên lãnh địa trình duyệt khi thâu tóm tới hơn 90% thị phần trình duyệt. Không chỉ thế nó còn tạo ra hiện tượng bong bóng trên cả thị trường chứng khoán với sự lên giá chóng mặt của giá cổ phiếu mà nó phát hành.
Không để cho ông vua này tiếp tục làm mưa làm gió, năm 1995 Microsoft đã ranh mãnh tích hợp chặt trình duyệt Internet Explorer vào hệ điều hành Windows. Năm 2000, thị phần của Netscape rơi xuống dưới mức báo động 1% và dần mai một cho tới năm 2008 thì ngừng phát triển. Ngày 24 tháng 8 năm 1995, Microsoft bắt đầu phát hành trình duyệt Internet Explorer phiên bản 1.0 được tích hợp chặt vào hệ điều hành Windows 95. "Mánh khóe" này là nguyên nhân cốt lõi khiến cho IE ngày càng trở nên phổ biến nên chỉ trong vòng 2 năm kể từ khi chào đời, Internet Explorer đã có trong tay 49% thị phần trình duyệt, chính thức giúp người khổng lồ phần mềm phế truất ngôi vị độc tôn của Netscape trong cuộc đua các nhà cung cấp trình duyệt. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, công ty phần mềm Opera Software đã giới thiệu trình duyệt web đầu tiên của hãng chạy trên hệ điều hành Windows mang tên Opera 2.1. Tuy nhiên, kể từ đó cho tới lần cập nhật gần đây nhất (ngày 1 tháng 9 với phiên bản Opera 10), thành tích của hãng phần mềm có trụ sở tại Nauy không được vang dội cho lắm khi thị phần Opera chỉ chiếm trung bình 1,1% thị trường trình duyệt với 40 triệu người dùng máy tính cùng 30 triệu người sử dụng Opera Mini trên điện thoại di động. Tháng 2 năm 1998, Netscape đang phải chịu sức ép vô cùng lớn từ phía Microsoft với số thị phần trình duyệt đã đảo lộn hoàn toàn so với 4 năm trước đó: Netscape: 28% và Microsoft 69%. Ngày 23 tháng 2 năm 2008, Mozilla Organization được Netscape thành lập trên danh nghĩa nhà phát triển mã nguồn mở cung cấp phiên bản miễn phí cho trình duyệt của hãng. Tháng 7 năm 2003, Mozilla Organization được đổi tên thành Mozilla Foundation và trở thành cái nôi sinh ra Mozilla Firefox vào năm sau đó.
Ngày 18 tháng 5 năm 1998, Bộ tư pháp Hoa Kỳ tiến hành một vụ kiện chống độc quyền nhằm vào Microsoft vì hành động tích hợp chặt Internet Explorer vào hệ điều hành Windows vốn có mặt trên 95% PC toàn cầu. Với sự ra mặt của công tố viên David Boies (ảnh), bộ tư pháp đã thắng vụ này và khiến cho gã khổng lồ xứ Redmond phải cắn răng chia sẻ giao diện lập trình ứng dụng API cho các các công ty đối thủ kể từ năm 2001 cho tới tháng 11 năm nay.
Ngày 24 tháng 11 năm 2008, AOL đã bỏ ra 4,2 tỷ USD để thu phục Netscape, song dù đã cố gắng hết sức nhưng AOL cũng không đủ khả năng vực dậy được Netscape Navigator dưới sự kìm kẹp của Internet Explorer. Tháng 12 năm 2007, Navigator coi như bị khai tử khi AOL tuyên bố ngừng mọi hỗ trợ dành cho biểu tượng Internet lẫy lừng một thời này. Không chịu lép vế trước kình địch Microsoft, ngày 7 tháng 1 năm 2003, Apple đã phát hành phiên bản beta của Safari – sau đó trở thành chuẩn trình duyệt được tích hợp vào các hệ điều hành Mac. Tháng 6 năm 2007, Apple cung cấp thêm 1 bản Safari dành cho các hệ điều hành Windows XP và Windows Vista. Ngoài ra, Safari còn được sử dụng trên 3 đời smartphone bom tấn iPhone của nhà táo. Tháng 6 năm 2009, Safari được nâng cấp lên phiên bản 4 với vô số cải thiện về tốc độ duyệt web, khả năng tương thích Windows cùng nhiều hiệu ứng đẹp mắt. Tuy gây ra được hiệu ứng khá lớn với kỷ lục 11 triệu bản được download trong 3 ngày đầu phát hành, tuy nhiên cho tới nay, thị phần của Safari vẫn chỉ ở mức khiêm tốn với không quá 1% thị trường trình duyệt.
Từ khi ra mắt vào ngày 9 tháng 2 năm 2008, Firefox ngày càng chứng tỏ mình là một đối thủ không thể xem thường khi liên tục bám đuổi và giành giật từng chút thị phần với Internet Explorer. Sau 5 năm phát triển, “cáo lửa” đã có trong tay 19,2% thị phần trình duyệt. Google bắt đầu tung ra phiên bản beta của trình duyệt mã nguồn mở Google Chrome vào ngày 2 tháng 9 năm 2009, ban đầu chạy trên hệ điều hành Microsoft Windows. 4 tháng sau, Google tiếp tục đưa đến tay các nhà phát triển một phiên bản Chrome khác hỗ trợ các hệ thống Linux và Apple Macintosh. Hiện nay, Chrome đã được nâng cấp lên phiên bản 3, mang nhiều ưu điểm vượt trội so với các trình duyệt đối thủ như thanh tìm kiếm thông minh Omnibox, chế độ duyệt web riêng tư, tốc độ duyệt web siêu nhanh cùng một giao diện cực kỳ thoáng và rộng rãi.
Đáp trả lại sự trỗi dậy mạnh mẽ của hàng loạt đối thủ cạnh tranh như Firefox, Safari, Opera và Chrome, ngày 19 tháng 3 năm 2009, Microsoft đã tung ra phiên bản 8.0 của trình duyệt lão làng Internet Explorer. Theo Microsoft quảng cáo, đây sẽ là trình duyệt an toàn, ổn định và nhanh nhất của công ty từ trước tới nay. Phiên bản 8 bổ sung một số cải tiến đáng chú ý như Web slice, Multiple tabs, tăng tốc lướt web, chế độ duyệt web riêng tư… Đây còn được hiểu là nỗ lực cứu vãn tình thế khi người khổng lồ nhận ra tầm ảnh hưởng của Internet Explorer đang ngày càng thu hẹp dần khi số thị phần trình duyệt mà hãng nắm giữ đã tụt xuống chỉ còn 68% ở thời điểm hiện tại.
Logo firefox
Ngày 30 tháng 6 năm 2009, Mozilla chính thức phát hành Firefox 3.5, phiên bản mới nhất của firefox với nhiều cải tiến đáng khích lệ về tốc độ, tính bảo mật cùng nhiều tiện ích bổ sung. Dù không phải là trình duyệt nhanh nhất hiện nay, tuy nhiên Firefox 3.5 đang ngày càng trở nên hấp dẫn với số thị phần không ngừng được nâng cao. Ở phiên bản này, người dùng có thể xem video không cần plug-in, tìm kiếm các nhà hàng hay cửa hiệu bán lẻ gần nhất và đặc biệt, firefox 3.5 bổ sung chức năng duyệt web riêng tư – tính năng đã được cung cấp trước đó ở 3 trình duyệt đối thủ là Chrome, Safari và Internet Explorer. Theo các số liệu từ Mozilla, hiện nay trên thế giới đã có hơn 300 triệu người chơi với “cáo lửa”. Ngày 13 tháng 8 năm 2009, Marc Andreessen, cha đẻ của Netscape, đã tiết lộ với tờ New Yorks Time rằng ông đang nuôi hoài bão sẽ gây dựng lại tên tuổi cho đứa con cưng từng một thời vang bóng, và phiên bản 2 của Netscape sẽ có tên là RockMelt. Dự án vẫn còn trong giai đoạn trứng nước, tuy nhiên giới công nghệ được dịp đoán già đoán non rằng trình duyệt mới có thể sẽ tập trung chủ yếu để tối ưu hóa chức năng của các mạng xã hội như Facebook, Myspace, Twitter...
Hệ điều hành :
Nếu con người có bộ não để điều khiển mọi hoạt động của cơ thể thì máy tính có hệ điều hành để vận hành. Thực ra hệ điều hành là một phần mềm đặc biệt, khi có nó các phần mềm khác trên máy tính mới có thể cài đặt và chạy được. Trước kia, hệ điều hành chỉ được sử dụng trên máy tính nhưng hiện nay nó được cài đặt trên một số loại thiết bị cầm tay. Những công ty nổi tiếng cung cấp hệ điều hành hiện nay như Microsoft với Windows, Apple với Linux trên các máy Mac, Honeycomb - hệ điều hành di động dành riêng cho máy tính bảng di động của Google. Hàng năm họ thu được một khoản khổng lồ từ bán bản quyền hệ điều hành. Hệ điều hành được phá triển qua nhiều thế hệ cụ thể như sau :
Thế hệ 1 (1945 - 1955)
Vào khoảng giữa thập niên 1940, Howard Aiken ở Havard và John von Neumann ở Princeton, đã thành công trong việc xây dựng máy tính dùng ống chân không. Những máy này rất lớn với hơn 10000 ống chân không nhưng chậm hơn nhiều so với máy rẻ nhất ngày nay. Mỗi máy được một nhóm thực hiện tất cả từ thiết kế, xây dựng lập trình, thao tác đến quản lý. Lập trình bằng ngôn ngữ máy tuyệt đối, thường là bằng cách dùng bảng điều khiển để thực hiện các chức năng cơ bản. Ngôn ngữ lập trình chưa được biết đến và hệ điều hành cũng chưa nghe đến.
Vào đầu thập niên 1950, phiếu đục lổ ra đời và có thể viết chương trình trên phiếu thay cho dùng bảng điều khiển.
Thế hệ 2 (1955 - 1965)
Sự ra đời của thiết bị bán dẫn vào giữa thập niên 1950 làm thay đổi bức tranh tổng thể. Máy tính trở nên đủ tin cậy hơn. Nó được sản xuất và cung cấp cho các khách hàng. Lần đầu tiên có sự phân chia rõ ràng giữa người thiết kế, người xây dựng, người vận hành, người lập trình, và người bảo trì. Để thực hiện một công việc (một chương trình hay một tập hợp các chương trình), lập trình viên trước hết viết chương trình trên giấy (bằng hợp ngữ hay FORTRAN) sau đó đục lỗ trên phiếu và cuối cùng đưa phiếu vào máy. Sau khi thực hiện xong nó sẽ xuất kết quả ra máy in. Hệ thống xử lý theo lô ra đời, nó lưu các yêu cầu cần thực hiện lên băng từ, và hệ thống sẽ đọc và thi hành lần lượt. Sau đó, nó sẽ ghi kết quả lên băng từ xuất và cuối cùng người sử dụng sẽ đem băng từ xuất đi in. Hệ thống xử lý theo lô hoạt động dưới sự điều khiển của một chương trình đặc biệt là tiền thân của hệ điều hành sau này. Ngôn ngữ lập trình sử dụng trong giai đoạn này chủ yếu là FORTRAN và hợp ngữ.
Thế hệ 3 (1965 - 1980)
Trong giai đoạn này, máy tính được sử dụng rộng rãi trong khoa học cũng như trong thương mại. Máy IBM 360 là máy tính đầu tiên sử dụng mạch tích hợp (IC). Từ đó kích thước và giá cả của các hệ thống máy giảm đáng kể và máy tính càng phỗ biến hơn. Các thiết bị ngoại vi dành cho máy xuất hiện ngày càng nhiều và thao tác điều khiển bắt đầu phức tạp. Hệ điều hành ra đời nhằm điều phối, kiểm soát hoạt động và giải quyết các yêu cầu tranh chấp thiế bị. Chương trình hệ điều hành dài cả triệu dòng hợp ngữ và do hàng ngàn lập trình viên thực hiện. Sau đó, hệ điều hành ra đời khái niệm đa chương. CPU không phải chờ thực hiện các thao tác nhập xuất. Bộ nhớ được chia làm nhiều phần, mỗi phần có một công việc (job) khác nhau, khi một công việc chờ thực hiện nhập xuất CPU sẽ xử lý các công việc còn lại. Tuy nhiên khi có nhiều công việc cùng xuất hiện trong bộ nhớ, vấn đề là phải có một cơ chế bảo vệ tránh các công việc ảnh hưởng đến nhau. Hệ điều hành cũng cài đặt thuộc tính spool. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự ra đời của hệ điều hành chia xẻ thời gian như CTSS của MIT. Đồng thời các hệ điều hành lớn ra đời như MULTICS, UNIX và hệ thống các máy mini cũng xuất hiện như DEC PDP-1.
Thế hệ 4 (1980 –Đến nay )
Giai đoạn này đánh dấu sự ra đời của máy tính , đặc biệt là hệ thống IBM PC với hệ điều hành MS-DOS và Windows sau này. Bên cạnh đó là sự phát triển mạnh của các hệ điều hành tựa Unix trên nhiều hệ máy khác nhau như Linux. Ngoài ra, từ đầu thập niên 90 cũng đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hệ điều hành mạng và hệ điều hành phân tán.
Những bản windows theo thứ tự ra đời như: DOS, Windows 1.0, Windows 2.0, Windows 3.0, Windows 3.1, Windows cho các nhóm làm việc (Workgroup) windows NT, windows 95, windows 98, windows me, windows 2000, windows XP, windows Vista, Windows 7. Đặc biệt, với sự ra đời của Windows 95 có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành Windows.
Giao diện Windows 95
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows 95 có diện mạo đẹp hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo. (Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu Start; các shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù không có trong phiên bản ban đầu – đó là trình duyệt web Internet Explorer của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất hiện là trong Windows 95 Plus. Với tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong Win95 Service Pack 1,gói dịch vụ được phát hành vào tháng 12 năm 1995.
Hiện nay Windows 7 đang là phiên bản mới nhất của hệ điều hành Windows Microsoft với những tính năng mới hơn so với Vista.
Phần cứng cũ và phần mềm cũ tương thích nhiều hơn, và thậm chí còn có cả tính năng Windows XP Mode cho phép chạy các ứng dụng trong thời đại XP trong môi trường nguyên bản của Windows 7. User Account Control cũng được cải thiện nhiều hơn để giảm bớt sự gián đoạn gây khó chịu đối với người dùng.
Tiếp đến, Windows 7 còn có một số thay đổi về mặt giao diện. Sidebar bị bỏ đi và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế độ Aero Peek mới cho phép bạn nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy những gì bên dưới desktop, cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép bạn dễ dàng di chuyển và cực đại hóa các cửa sổ.
Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar, một dải cố định trên màn hình xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7 cho phép bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa thích của bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump List các tài liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút taskbar, bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả các tài liệu. Có thể nói Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ, tuy nhiên được nhiều người nhận định là những cách mang tính tích cực.
Phát hành Windows 7 sắp tới đã kết thúc lịch sử của Windows cho đến thời điểm này. Tuy nhiên các chuyên gia phát triển của Microsoft vẫn đang làm việc trên các phiên bản mới của hệ điều hành lõi, và vì vậy chúng ta vẫn có thể mong đợi những điều thú vị sẽ xuất hiện trong một tương lai gần. Và Windows sẽ không bao giờ ngừng phát triển.
Windows 7 là một trong sản phẩm đã góp phần đáng kể vào lợi nhuận của Microsoft quý III năm 2010. Microsoft tuyên bố doanh số bán ra của hệ điều hành Windows 7 đã vượt quá con số 240 triệu bản chỉ trong năm đầu tiên phát hành. Con số này đã đưa Windows 7 trở thành hệ điều hành có tốc độ bán ra nhanh nhất trong lịch sử và đem về lợi nhuận khổng lồ cho đại gia phần mềm Microsoft. Cách đây hơn một năm, Windows 7 đã đến tay người dùng máy tính trên toàn thế giới để thay thế cho nỗi thất vọng mang tên Vista, với các mức giá từ 80 USD cho một bản nâng cấp đơn giản cho đến 320 USD cho một bản đầy đủ các tính năng cao cấp. Tami Reller, người đứng đầu bộ phận tài chính của Microsoft cho biết khoảng 89% các công ty và tập đoàn - nhóm khách hàng đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho Microsoft - đang dự tính sẽ chuyển hẳn từ Windows XP (vẫn còn đang rất phổ biến) sang dùng Windows 7.
Giao diện Windows 7
Dù Mac OS X của Apple Inc và các hệ điều hành dựa trên nền tảng mở Linux đã chiếm được nhiều thị phần trong vài năm qua. Hiện nay nhiều các nhân hướng tới Mac OS X hơn vì sự sẵn sàng thiết kế phần mềm theo xu hướng người dùng của Apple. Tuy nhiên, Microsoft vẫn nắm quyền kiểm soát tới 90% số lượng (ước tính) 1,4 triệu máy tính cá nhân trên toàn thế giới, và con số khách hàng dự định nâng cấp lên hoặc chuyển sang dùng Windows 7 vẫn đang tiếp tục tăng. Báo cáo tài chính của Microsoft cho biết lợi nhuận của họ tăng phần lớn đến từ Windows. Windows vẫn là con bài chủ thể hiện quyền lực của Microsoft, bởi doanh số bán ra của Windows chiếm hơn một phần tư tổng doanh số của Microsoft và lợi nhuận do nó đem lại chiếm hơn một nửa tổng lợi nhuận của công ty.
III. ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC CÔNG TY VIỄN THÔNG
Từ năm 1995 đến năm 2001, thị trường chứng khoán thế giới chứng kiến sự tăng giá nhanh đến chóng mặt của cổ phiếu các công ty hoạt động trong lĩnh vực Internet, tin học và một số ngành liên quan. Sự kiện này được gọi là “Bong bóng Internet", Dot-com Bubble. Các nhà đầu tư cá nhân hấp dẫn bởi lợi nhuận “nhiều mà nhanh” đã ra sức đổ tiền vào chứng khoán, chỉ số NASDAQ đạt tới đỉnh là 5132,52 điểm vào ngày 10 tháng 3 năm 2000. Sự tuột dốc bắt đầu ngay sau đó, dẫn đến phá sản hàng loạt và cuộc suy thoái của ngành công nghệ thông tin những năm sau đó.
Đặc biệt trong sự bùng nổ này là hiện tượng đầu tư quá mức vào các công ty viễn thông, đầu tư quá mức vào việc xây dựng các đường cáp quang. Còn gọi là Bong Bóng Cáp Quang.
cáp quang
Cáp quang được cấu thành từ những sợi thủy tinh trong suốt và mỗi sợi mỏng như sợi tóc, và các sợi này được cuộn thành bó. Thông tin ở dạng hình ảnh, âm thanh, dữ liệu được máy tính số hóa rồi chuyển sang một máy phát ở đầu hệ thống cáp quang, máy phát này sẽ chuyển các dữ liệu số hóa thành các xung ánh sáng, truyền qua hệ thống cáp quang để đến đầu bên kia.
Việc lắp đặt hệ thống cáp quang thương mại đầu tiên được thực hiện 1977, sau đó cáp quang dần thay thế các đường dây điện thoại bằng đồng bởi vì các sợi cáp quang có thể chuyễn tải dữ liệu ngày càng nhanh hơn và với khối lượng lớn hơn. Hơn nữa cáp quang có thể truyền tải những xung quang học có tần số rất cao trên cùng nhửng sợi quang đơn lẻ mà không làm tín hiệu yếu đi trên khoảng cách nhiều mét. Trong khi xung điện được truyền trong dây đồng bị yếu đi chỉ sau khoảng cách vài mét do những hiệu ứng kí sinh.
Bong Bóng Hình Thành:
Năm 1995 là năm xuất hiện những dấu hiệu hình thành bong bóng. Ngành công nghệ thông tin lúc bấy giờ được xem là có tiềm năng phát triển vô cùng mạnh mẽ. Người ta đổ xô nhau đầu tư vào việc xây dựng các đường cáp quang với suy nghĩ “nếu tất cả mọi người đều muốn mọi thứ được số hóa, chuyển thành các Bit và truyền qua Internet thì nhu cầu đối với công ty dịch vụ mạng và nhu cầu đối với các đường cáp quang để vận chuyển các thông tin được số hóa trên thế giới sẽ là vô tận. Bạn không thể thất bại nếu bạn đầu tư vào lĩnh vực này.” Các công ty viễn thông lắp đặt số lượng khổng lồ cáp quang trên đất liền và dưới lòng đại dương.
Họ tìm cách xây dựng hạ tầng của riêng mình, để cạnh tranh về tốc độ truyền tải với các công ty khác. Điều không may là các công ty viễn thông không chú ý đầy đủ tới sự mất cân đối giữa nhu cầu và thực tế. Thị trường đang bị cơn sốt internet cho phối và và các công ty không ngừng đầu tư. Sự bùng nổ thỉ trường chứng khoáng đồng nghĩa với việc kiếm tiền dễ như không. Vì vậy tất cả các công ty viễn thong mới được thành lập trên những viễn cảnh lạc quan thái quá đều được huy động vốn. Trong vòng 5-6 năm, những công ty viễn thong này đã đầu tư hơn 1000 tỷ USD vào việc kết nối thế giới. Lúc đó không ai nghi ngờ những dự báo về những dịch vụ trên,
Ít có công ty nào điên rồ hơn công ty Global Grossing. Đây là một trong số các công ty được các công ty viễn thong mới thành lập thuê lắp đặt đường cáp quang trên thế giới. Global Crossing được Gary Winnick sang lập vào năm 1997 và bán cổ phiếu cho công chúng đợt đầu một năm sau đó. Robert Annunziata, người giữ cương vị giám đốc điều hành chỉ trong một năm, đã có một hợp đồng từng được đánh giá là một trong những hợp đồng tội tệ nhất (từ quan điểm của các cổ đông) ở nước Mỹ. Ngoài các nội dung khác, hợp đồng này còn bao gồm cả vé máy bay hạng nhất cho mẹ của Annunziata tới thăm ông mỗi tháng một lần. Nó cũng bao gồm một khoảng tiền thưởng cho việc ký hai triệu cổ phiếu với giá mỗi cổ phiếu là 10 USD, thấp hơn giá thị trường.
Tất cả mọi người cho rằng đây là một thế giới mới và nó sẽ không bao giờ ngừng lại. Người tra cho rằng đây là một đường tăng trưởng thằng đứng và chỉ cần đầu tư thì ai cũng có được phần bánh của mình.
Bong Bóng Nổ:
Do khối lượng khổng lồ các hệ thống cáp quang được lắp đặt, việc truyền tải thông tin trở nên cực kì dễ dàng và nhanh chóng. Thực tế, các công ty viễn thông này đang thương mại hóa chính bản thân họ. Họ sẽ tiến hành cuộc chiến giá cả với tất cả các công ty khác, và điều này sẽ dẫn đến một thảm họa.
Cuộc chiến giá cả đã làm giảm mạnh chi phí lắp đặt điện thoại và truyền dữ liệu tới bất cứ nơi nào trên thế giới. Mức cước điện thoại đường dài ở Mỹ giảm từ 2 dollar xuống còn 10 cent một phút (1dollar = 100 cent) và việc truyền dữ liệu trở nên hoàn toàn miễn phí.
Đó chính là thảm họa cho rất nhiều công ty và những người đầu tư. Nhiều công ty đã phài xin phá sản vì chi phí đầu tư lên đến hàng triệu dollar nhưng lợi nhuận thì không thấy đâu do phí quá rẻ. Công ty Global Crossing đã nộp đơn xin phá sản vào tháng 1 năm 2002, với số nợ lên đến 12,4 tỷ dollar.
Một số công ty cũng thất bại trong giai đoạn này:
- eToys: Giá cổ phiếu từ 80 đôla trong đợt IPO tháng 5 năm 1999 sụt xuống dưới 1 đôla và thời điểm tuyên bố phá sản tháng 2 năm 2001.
- Inktomi: Có giá 241 đôla một cổ phiếu vào tháng 3 năm 2000, đến khi Yahoo! mua lại chỉ còn 1,63 đôla một cổ phiếu.
- InfoSpace: Vào tháng 3 năm 2000 có giá cổ phiếu là 1305 đôla, đến tháng 4 năm 2001 chỉ còn 22 đôla.
- Lycos, thành lập năm 1995, mua lại bởi Terra Networks vào năm 2000 với giá 12,5 tỷ đôla, sao đó lại được bán lại cho Daum Communications vào năm 2004 chỉ với 95 triệu đôla.
- Nortel Networks, công ty Canada với cổ phiếu từ 124 giảm xuống còn 0,47 đôla Canada.
- theGlobe.com giữ kỷ lục tăng giá cao nhất trong một ngày khi IPO (606%) đạt 97 đôla một cổ phiếu, hiện giờ chỉ đáng giá chưa đến 1 đôla.
IV. Tổng kết:
Nhìn chung, máy vi tính ra đời mở ra một kỷ nguyên mới của loài người. Một doanh nghiệp hay một cá nhân, máy vi tính là một công cụ cần thiết phục vụ công việc của họ tốt hơn, thuận lợi hơn. Sự kết nối giữa người với người giữa các châu lục được xích gần nhau hơn nhờ sự ra đời của máy vi tính kéo theo sự phát triển công nghệ internet. Những ngành công nghiệp liên quan đến sự ra đời máy vi tính giúp tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nâng cao mức sống loài người, nâng cao công nghệ qua cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Những điều đó thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa nhanh hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L7883ch s7917 ra 2737901i my vi tnhs7921 7843nh h4327903ng .doc