Kết luận
Có thể thấy, ở bất kỳ thời điểm nào của
lịch sử xã hội loài người, vấn đề công lý
là một vấn đề rất trừu tượng và khó hiểu,
các nhà triết học vì thế từ thời kỳ cổ đại
đều bỏ rất nhiều công sức của mình để lý
giải. Trong số đó có quan điểm mang tính
độc đáo và mới mẻ trong cách tiếp cận đó
là quan điểm của J. Rawls về công lý. Ông
đã đề xuất một giải pháp khả dĩ để giải
quyết một vấn đề tồn tại trong các nghiên
cứu trước đó - vấn đề giữa phát triển kinh
tế và công bằng xã hội, chỉ ra sự khác biệt
giữa các cá nhân và dẫn đến chuyện tồn
tại những bất bình đẳng trong xã hội là tất
yếu. Cốt lõi ở đây chính là từ những bất
bình đẳng tất yếu đó, con người phải tìm
cách ứng xử phù hợp nhất để đảm bảo lợi
ích tối đa và hạn chế tối thiểu thiệt hại cho
tất cả mọi người trong xã hội. Điều này
yêu cầu các quốc gia buộc phải xây dựng
các chính sách điều hành xã hội phù hợp
với quốc gia và công dân của mình, đảm
bảo tối đa khả năng thực thi của công lý
trong xã hội.
Trên tinh thần thừa kế và phát huy, nhà
triết học John Rawls đã có những nghiên
cứu sâu sắc, nhân văn và trở thành nền
tảng cho những nghiên cứu của thế hệ sau
khi nghiên cứu về công lý và những khía
cạnh liên quan. Mặc dù chúng ta vẫn phải
thừa nhận rằng để hiện thực hóa những tư
tưởng của Rawls vào thực tế xã hội là một
điều quả không dễ dàng./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lịch sử tư tưởng về công lý và quan điểm về công lý của nhà triết học John Rawl, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
HOÀNG THỊ BÍCH NGỌC
I. Lịch sử tư tưởng về công lý
Công lý là vấn đề thu hút được sự quan
tâm và tranh luận của rất nhiều nhà khoa
học từ hàng ngàn năm nay xoay quanh
khát vọng cháy bỏng về tự do, công bằng,
chính nghĩa, lẽ phải, lòng nhân ái và những
phẩm hạnh cao quý trong mỗi con người,
mỗi xã hội. “Công lý là gì cho đến nay và
tương lai sẽ không có câu trả lời cuối cùng bởi
đây là một khái niệm có nội hàm rộng, luôn mở
và động tùy thuộc vào nền văn hóa và bối cảnh
lịch sử cụ thể”1. Nhận thức về công lý chính
vì thế không phải luôn thống nhất mà có
những bước thăng trầm khác nhau trong
lịch sử. Đúng như Michael J. Sandel, trong
1 PGS. TS Nguyễn Minh Tuấn, Công Lý và Quyền
tiếp cận công lý, NXB Hồng Đức, tr54.
tác phẩm “What is the right thing to do”2,
đã viết “Thực tế công lý hay luật pháp phải
đặt trong hoàn cảnh cụ thể. Cá nhân chỉ có
thể nhận thức được về bản thân trong mối
quan hệ cộng đồng và vai trò của chính
mình”. Một điều không thể phủ nhận là
các lý thuyết về công lý trong lịch sử đã
góp phần to lớn tạo dựng tính chính đáng,
chính nghĩa, đạo lý, lòng nhân ái và lẽ công
bằng trong mỗi xã hội. Công lý vẫn đang
và sẽ tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung,
phát triển, hoàn thiện. Nó ngày càng có ảnh
hưởng lớn đến nghiên cứu, giảng dạy, xây
dựng và thực thi pháp luật trong thời đại
2 New York, 2007.
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG LÝ
CỦA NHÀ TRIẾT HỌC JOHN RAWL
HOÀNG THỊ BÍCH NGỌC*
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật hình sự và Kiểm sát
hình sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Công lý là khái niệm được nghiên cứu qua nhiều thế kỉ bởi nhiều nhà khoa học
trên khắp thế giới. Cho đến nay, vẫn rất khó để đưa ra một khái niệm thống nhất
giữa các quốc gia, bởi công lý là “một khái niệm có nội hàm rộng, luôn mở và động
tùy thuộc vào từng nền văn hóa và bối cảnh lịch sử cụ thể”. Bài viết tìm hiểu lịch
sử tư tưởng về công lý qua các thời kì cùng với các quan điểm tiêu biểu của các nhà
khoa học trên thế giới, đặc biệt tập trung vào quan điểm công lý trong thời hiện
đại mà tiêu biểu là quan điểm của tác giả John Rawls: “Công lý như là công bằng”.
Từ khóa: Lịch sử, công lý, công bằng, John Rawls.
Ngày nhận bài: 24/7/2019; Ngày biên tập xong: 15/8/2019; Ngày duyệt đăng:
24/10/2019.
Justice is a concept that has been studied for centuries by scientists around
the world. Till now, it is still difficult to come up with an unifying concept be-
tween nations because justice is “a concept with a broad connotation, always
open and dynamic depending on the specific culture and historical context”.
The article will explore the history of ideology about justice through periods
with the typical views of scientists in the world, especially focus on the view of
jutice in the modern era, typical is John Rawls’s viewpoint: “Justice is fairness”.
Keywords: History, justice, fair, John Rawls.
62
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG LÝ CỦA ...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
ngày nay.
Từ góc độ lịch sử, các nhà nghiên cứu
đã chỉ ra các giai đoạn phát triển của công
lý trong lịch sử văn minh nhân loại, ý tưởng
về công lý đã xuất hiện rất sớm, từ nhiều
thế kỷ trước khi triết học Hy Lạp cổ đại ra
đời. Theo đó, công lý trong giai đoạn đầu
tiên của xã hội thời cổ đại được thể hiện
khá rõ nét bằng sự trả thù cá nhân, luật báo
thù được áp dụng một cách triệt để và tàn
khốc. Trong bộ luật Hammurabi của nhà
nước Lưỡng Hà cổ đại được ban hành từ
năm 1792 đến năm 1750 trước công nguyên
(TCN), một mặt công nhận quyền tự do của
con người, coi công lý và chính nghĩa là cơ
sở của nền cai trị nhân từ, công bằng nhằm
đem lại sự thái bình và hạnh phúc chân
chính cho người dân. Nhưng bên cạnh đó,
công lý được được hiểu là áp dụng hình
phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ phạm
tội gây ra, công nhận sự trả thù tương ứng.
Nguyên tắc báo thù Talion (mắt đền mắt,
răng đền răng) được áp dụng một cách triệt
để, cứng nhắc và tàn khốc nhất. Một người
thợ xây làm chết con của chủ nhà thì con
của người thợ xây phải bị giết theo nguyên
tắc báo thù Talion này3. Những dấu vết của
luât Tatilon “giết người đền mạng” vẫn còn
có thể tìm thấy bóng dáng trong luật hình
sụ của nhiều quốc gia hiện nay, đặc biệt
tranh luận liên quan đến việc duy trì hay từ
bỏ hình phạt tử hình, liên quan đến quyền
sống của con người. Giai đoạn thứ hai của
sự phát triển nhận thức về công lý là thay
sự báo thù bằng bồi thường, hình phạt,
nhằm giữ hoà hảo trong nội bộ các thị tộc
bộ lạc. Đến giai đoạn thứ ba, để ngăn chặn
các cuộc trả thù cá nhân, Toà án đã được
3 Nguyễn Anh Tuấn, Khảo lược Bộ luật Hammurabi
của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, năm 2008.
thành lập để thẩm định, đánh giá các mức
độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình, phân
xử các xung đột giữa các cá nhân trong xã
hội. Công lý và tư pháp xét xử đã vững
bước song hành từ những bước phát triển
của lịch sử văn minh nhân loại như vậy cho
đến ngày nay.
Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại -
cái nôi của văn minh phương Tây, công lý
được cho rằng bắt nguồn từ trật tự xã hội,
một xã hội ổn định, có trật tự sẽ thúc đẩy
sự phát triển của công lý và ngược lại, một
nền công lý mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã
hội trật tự, ổn định. Những tư tưởng đầu
tiên của xã hội loài người về pháp luật tự
nhiên đã xuất hiện như một khát vọng, ước
nguyện với tên gọi “công lý” ngay trong
vở bi kịch xưa nhất của nhân loại - vở kịch
Antigone của kịch gia Sophocle (496-406
TCN), vở kịch được xếp hàng đầu, xưa
nhất, đặc sắc nhất sân khấu Hy Lạp và
thế giới. Nhân vật trung tâm của vở kịch
là nàng Antigone yếu ớt, bất hạnh, vì tình
thương, lẽ phải và đạo lý đã tự mình chống
lại đạo luật của bạo chúa Creon bởi mệnh
lệnh đó không mang những giá trị cao cả,
của lương tri, đạo lý, công lý. Cùng thời
điểm này, triết gia Socrate (470-399 TCN)
đã bàn rất triệt để về cách con người ta phải
biết sống theo lẽ công chính, trong những
bài giảng của ông hay khi ông giao tiếp,
tranh luận với người khác ông hay hỏi đáp
làm cho đối phương cải chính hoặc từ bỏ
quan niệm sai lầm của mình. Cái ông muốn
mọi người hướng đến là cần suy nghĩ sáng
suốt, trung thực thực sự, biết cách tư duy
một cách duy lý thì mới có công lý cho xã
hội.
Plato (428-348), nhà triết học Hy Lạp
xuất sắc, người mà ảnh hưởng của ông
được mô tả một cách tuyệt vời bởi nhà triết
63Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
HOÀNG THỊ BÍCH NGỌC
học thế kỷ 20 Alfred North Whitehead:
“Nét đặc trưng chung rõ ràng nhất của
truyền thống triết học châu Âu là nó bao
gồm một chuỗi những phụ chú cho tác
phẩm của Platon”. Ông cũng là người ghi
lại những quan điểm mang tính triết học
của Socrate. Vì vậy, thời nay người ta khó
có thể phân biệt được đâu là quan điểm
của Platon, đâu là quan điểm của Socrate.
Tuy vậy, người ta vẫn tìm thấy một số nét
đặc thù trong quan điểm của ông về công
lý trong những tranh luận về vấn đề đạo
đức và pháp luật, đặc biệt trong cuốn Luật
pháp, tác phẩm cuối cùng còn dang dở
trước khi ông qua đời.
Các luận điểm chỉ trích thời kỳ đó cho
rằng đạo đức là phát minh của kẻ yếu
nhằm vô hiệu hoá quyền lực của kẻ mạnh
và công lý không phải là đạo đức của người
xuất chúng mà là thứ đạo đức nô lệ. Đáp lại
những luận điểm nêu trên, Plato cho rằng
công lý là kết quả của sự đồng tâm hợp
tác giữa những cá nhân có đức hạnh tham
gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng và
quốc gia. Công lý là một vấn đề giản dị nếu
con người cũng giản dị, rời xa lòng tham
lam và sự xa hoa và sống theo đúng chức
phận của mình. “Cống hiến lớn nhất của
nhà triết học Hy Lạp trong đó có Plato là
việc đầu tiên trong lịch sử loài người đã
nhìn thấy vị trí, vai trò của luật pháp trong
đời sống xã hội”4.
Còn theo Aristotle (384-322 TCN), một
trong những người thầy có ảnh hưởng
nhất đối với môn triết học chính trị, thì
công lý được bàn đến khi ông viết về các
vấn đề chung của chính trị trong tác phẩm
Chính trị luận. Toàn bộ ý tưởng của ông
về công lý gắn liền với cách mà ông quan
4 Lịch sử tư tưởng về công lý, Công lý và quyền
tiếp cận công lý, NXB Hồng Đức, 2018, tr16.
niệm về một cộng đồng chính trị tốt đẹp
- cộng đồng sẽ đảm bảo đời sống tốt đẹp
với nhiều phẩm hạnh đạo đức được tôn
vinh cho các thành viên sống trong đó. Một
xã hội tốt đẹp như thế sẽ xem xét công lý
như là mục tiêu, giá trị quan trọng nhất để
đảm bảo sự phân phối công bằng cho tất cả
ai xứng đáng với những đóng góp của họ
trong xã hội và công lý là giá trị quy chuẩn
để đánh giá các giá trị khác được tôn vinh
trong xã hội. Theo ông, “công lý” được chia
thành “công lý cải tạo” - nơi mà Toà án sửa
chữa một lỗi lầm do một bên phạm phải
đối với bên khác và “công lý phân phối” -
cách thức, nỗ lực cố gắng để công bằng với
mỗi người, đúng theo những gì mà người
đó xứng đáng được hưởng”5. Aristotle có
khuynh hướng đặt đạo đức phải phục vụ
pháp luật. Đạo đức như là cơ sở của pháp
luật, hành động theo công lý là hành động
theo pháp luật. Trường hợp cá biệt không
nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật,
người thi hành cần phải bổ sung đúng như
người lập pháp sẽ làm. Trong suốt chiều
dài lịch sử cách tiếp cận công lý từ góc độ
đạo đức trong đó chỉ rõ chủ đề của công lý
chính là vấn đề thưởng phạt - ai xứng đáng
với cái gì là chủ đề có tính chất vạch đường
đi cho những nghiên cứu hay quan niệm
về công lý.
Người La Mã tiếp tục phát triển khái
niệm về công lý với nhận định rằng, luật
pháp là tổng hợp các quyền cá nhân. Công
lý được xem là yêu cầu bắt buộc trao cho
con người những quyền của họ. Tuy nhiên,
người La Mã cũng không còn coi đó là
một chức năng của xã hội mà coi công lý
là một nội dung và khía cạnh pháp lý của
xã hội. Nội dung này được thể chế hoá
5 Raymond Wacks, Triết học luật pháp (Phạm
Kiều Tùng dịch), Nhà xuất bản tri thức, năm 2011.
64
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG LÝ CỦA ...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
trong các chức năng của các thiết chế bảo
vệ các quyền của từng cá nhân hơn là dành
sự quan tâm xã hội cho tất các công dân.
Nhà lý luận chính trị tiêu biểu của La Mã
biện minh cho sự bất công của xã hội, bảo
vệ quyền lợi của tầng lớp quý tộc, đại điền
chủ và quan chức. Tuy nhiên ông cũng cho
rằng, chức năng của công lý là giữ mỗi
người khỏi làm những điều ác, có hại cho
người khác.
Công lý thời kỳ trung cổ được coi là
phẩm hạnh mang tính thể chế. Tính chính
đáng, chính nghĩa của một chính quyền
thường được đánh giá thông qua việc
nhà nước đó có thừa nhận, bảo vệ và bảo
đảm thực thi công lý hay không, nhà triết
học có ảnh hưởng đâu tiên thời kỳ này là
St. Augustine (354-420 TCN). Ông coi công
lý là điểm tựa chính trị, đạo lý trong mỗi
thể chế: Nếu không có công lý nhà nước chỉ
là một băng cướp có tổ chức mà thôi. Nhà
triết học và thần học Ytalia Thomas Aquinas
(1225 - 1274 SCN) cho rằng giá trị của công
lý cung cấp tiêu chí quan trọng để đánh giá
hiệu lực của các đạo luật thực định. Công
lý tự nhiên - tức là những đòi hỏi của mỗi
cá nhân hoặc nhóm được hưởng những gì
mà họ xứng đáng, cao hơn luật pháp luật.
Những lý luận về tự do và công lý này
tiếp tục được tiếp thu và phản ánh một cách
mạnh mẽ trong các học thuyết pháp quyền
từ giữa thế kỷ XVIII - thế kỷ chuẩn bị cho
những tư tưởng tiến bộ cho sự hình thành
một xã hội mới với các học giả tiêu biểu
như Montesquieu, Voltaire, Rousseau
Spinoza (1622-1677) người Hà Lan có
những đóng góp quan trọng trong việc
phân tích cội nguồn của công lý. Theo ông,
công lý là biểu hiện của lý trí không bao
giờ xen lẫn với cảm xúc, bởi cảm xúc của
con người luôn gắn với mưu lợi ích kỷ cho
mình, dễ làm khó bỏ, con người ta vì thế
khó mà có thể nhận biết được lý luận. I.
Kant (1724-1804) nhà triết học cổ điển Đức
có rất nhiều đóng góp đáng kể cho lịch sử tư
tưởng công lý khi đặt ra mối quan hệ giữa
công lý với đạo đức. Bộ phận quan trọng
nhất của học thuyết về đạo đức học của
Kant là ở sự tự trị cá nhân, cuộc sống của cá
nhân con người phải có lý tính, tức là phải
tuân thủ một số quy tắc được thiết lập một
cách độc lập. Tuy nhiên, nó không phải là
tuyệt đối bởi theo ông, nó còn phụ thuộc
vào tính cách mỗi người, hoàn cảnh sống
và nhiều thứ khác. Chính ông là người đặt
nền móng cho chủ nghĩa tự do cá nhân của
phương Tây, trong đó có biểu hiện cạnh
tranh giữa các cá nhân, nó hướng tới kiện
toàn và tăng cường trật tự xã hội.
Như vậy, tồn tại một mâu thuẫn mà
các nhà tư tưởng bàn đến ở đây là mâu
thuẫn giữa những điều có lợi cho xã hội và
những điều được xã hội đồng thuận. Trong
xã hội hiện đại, những giải thích về công lý
có khuynh hướng tập trung vào việc làm
thế nào để xã hội có thể phân phối một
cách công bằng nhất những gánh nặng và
phúc lợi của đời sống xã hội, từ đó đã đưa
khái niệm công lý mang tính thực tiễn và
chính trị hơn là một quan niệm siêu hình
trước đây.
II. Lý thuyết “Công lý như là công
bằng”
Quan điểm tiếp cận
John Rawls (1921- 2002) một triết gia
người Mỹ với tác phẩm “Một lý thuyết về
công lý”6 đã gây một tiếng vang với giới
nghiên cứu triết học khi đưa ra quan niệm
mới mẻ về công lý. Công lý như là sự công
6 John Rawls, A theory of jusitce, Harvard University
Press, 1971.
65Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
HOÀNG THỊ BÍCH NGỌC
bằng là tâm điểm của toàn bộ học thuyết
của ông. Chuẩn mực của công bằng trong
một thể chế xã hội cụ thể chính là nguyên
tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ cho
mỗi cá nhân. Theo ông, công bằng chỉ có
được khi con người tự nguyện cùng tham
dự vào quá trình hợp tác xã hội để làm sao
mỗi cá nhân giành được lợi ích nhiều hơn
so với khi họ sống đơn lẻ. Song sau khi tác
phẩm ra đời, những đối lập cũng như hiểu
lầm với quan điểm này của ông ngày càng
sâu sắc. Vì vậy, trong cuốn “Công lý như là
công bằng - sự tái trình bày”, Rawls đã chỉ rõ
lý do ông viết cuốn sách này để sửa chữa
những sai lầm đã làm lu mờ đi ý nghĩa
của công lý. Về logic, ông viết lại tư tưởng
chính làm nền tảng xuất phát để trên đó,
ông triển khai quan niệm về công lý như
công bằng.
Trước hết, lý thuyết mà J. Rawls đưa ra
được coi là sự tiếp nối và phát triển những
tư tưởng truyền thống về công bằng xã hội
trong lịch sử, đặc biệt là tư tưởng về Khế
ước xã hội của Lốccơ, G.G. Rútxô cũng như
những tư tưởng về đạo đức học của Cantơ.
Tuy có những tiến bộ trong tư tưởng của
học thuyết này trả lời về sự hình thành các
thể chế chính trị, sự hình thành Nhà nước
và Pháp luật song nó không thể tự trả lời
cho câu hỏi tại sao cá nhân lại tự nguyện
đem quyền tự do của mình trao cho một
nhóm khác mà những quyền con người
vẫn không được đảm bảo. Trong nghiên
cứu của mình, Rawls muốn làm rõ những
căn cứ cá nhân tham gia vào các quá trình
xã hộị bằng thỏa ước và ông nhận ra rằng,
cần có một hệ thống các nguyên tắc chung
đảm bảo cho thỏa ước của con người trước
khi quyết định tham gia khế ước xã hội. Và
từ đó, ông đưa ra quan điểm “công lý như
là công bằng” với mong muốn sẽ trở thành
giải pháp thay thế cho những quan điểm
truyền thống từ lâu trong lịch sử tư tưởng
triết học, đạo đức.
Bên cạnh đó, Rawls cũng dựa trên lý
luận về tính tự trị của ý chí và mệnh lệnh
tuyệt đối trong đạo đức học của Kant để
đưa ra quan điểm về sự tự quyết trong
lý thuyết về công lý của mình. Ông cho
rằng, con người đầu tiên phải là công dân
có quyền tự quyết, nó là điều kiện tiên
quyết để đạt tới những thỏa thuận hoặc
một sự thống nhất nào đó, trong đó có sự
đồng thuận về nguyên tắc của công lý. Tuy
nhiên, đối với Rawls, quyền tự lựa chọn các
nguyên tắc để tham gia vào một thỏa thuận
chung của cá nhân thay thế cho cách dùng
từ của Kant về trạng thái tự trị của ý chí.
Quan điểm của Rawls về công lý là một
sự phủ định đối với lý thuyết của chủ nghĩa
vị lợi về công lý – ra đời ở Anh vào cuối thế
kỷ XVII. Ông phê phán nguyên tắc tối đa
hóa lợi ích trong quan điểm của chủ nghĩa
vị lợi. Bởi theo ông, không có bất cứ một
lý do gì khiến cho việc lấy lợi ích của đa
số người trong xã hội làm chuẩn cho công
lý mà quên đi những đau khổ của thiểu
số người trong xã hội. Ông phê phán chủ
nghĩa vị lợi khi chỉ bàn tới vấn đề lợi ích mà
chưa bàn tới việc phân phối làm sao giữa
hạnh phúc với nghĩa vụ cá nhân; không
tính đến những khác biệt của các bên tham
gia về động cơ, hoàn cảnh nên không thể lý
giải nổi các cuộc chiến tranh vẫn xảy ra khi
các bên tham gia đều nhằm đảm bảo lợi ích
tối đa của mình.
Đứng trước luận điểm công lý như là
sự công bằng, mọi người đều không khỏi
băn khoăn. Tại sao lại như vậy? Và Rawls
đã giải thích nó trên cơ sở kế tục truyền
thống của các lý thuyết về khế ước xã hội
đã từng có trong lịch sử, khơi gợi cảm hứng
từ tư tưởng triết học của Kant, đồng thời
66
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG LÝ CỦA ...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
phê phán một cách sâu sắc với tư tưởng
đương thời của chủ nghĩa vị lợi. Đây được
xem như một kế thừa để đưa ra quan điểm
về công lý lên một dạng phủ định cao hơn.
Nội dung chính trong quan niệm về
“công lý”
Khái niệm công lý, công bằng, bình đẳng
Trước khi đi vào phân tích nội dung
quan điểm của Rawls về “công lý như là
công bằng” cần có một sự minh định nội
hàm chính của các khái niệm “công lý”,
“công bằng” và “bình đẳng”. Bởi trên thực
tế, các thuật ngữ này thường được hiểu
như nhau, hoặc đồng nhất với nhau về
mặt logic.
Công lý, theo cách hiểu thông thường
là đem lại cho ai đó cái gì mà họ xứng đáng
được hưởng. Như thế, hàm nghĩa trong
khái niệm công lý là sự tôn trọng quyền tự
do của con người cá nhân và đòi hỏi mọi
cá nhân phải được đối xử bình đẳng với
nhau. Công bằng chính là khả năng phán
xét về một điều gì đó có được thực thi theo
công lý hay không. Bình đẳng đó là sự
ngang nhau của con người về việc hưởng
những quyền tự nhiên và cơ bản của con
người. Bình đẳng có được dựa trên nguyên
tắc của công lý và công bằng. Nhưng bình
đẳng cũng là điều kiện để cho công lý và
công bằng được ra đời và thực thi.
Trong quan niệm về công lý như là
công bằng của J. Rawls, công lý được hiểu
là lẽ phải, điều thiện, hay phẩm hạnh tối
cao của con người, là chuẩn mực của trạng
thái xã hội lý tưởng mà ở đó, mỗi cá nhân
khi tham dự vào hợp tác xã hội hoàn toàn
dựa trên sự tự nguyện (tự do cá nhân) và
ngày càng đạt được lợi ích tối đa của mình.
Nói cách khác, ở trạng thái xã hội lý tưởng,
công lý với tính cách là công bằng sẽ đạt
đến giá trị công lý thực sự. Nếu chuẩn mực
để xác định sự công bằng trong một thể chế
xã hội cụ thể chính là nguyên tắc phân chia
quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân, thì
tiêu chí để xác định thể chế xã hội gọi là
công bằng ấy được J. Rawls cho rằng chỉ có
được khi con người tự nguyện cùng tham
dự vào xã hội để sao cho mỗi cá nhân giành
được lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống
đơn lẻ.
Cả ba khái niệm trên đều đề cập đến
sự cân bằng nói chung trong các mối quan
hệ. Tuy nhiên, giữa những khái niệm ấy
có những điểm khác biệt về mặt nội hàm.
“Nếu chỉ đơn thuần xem xét khái niệm “công
lý” - một chuẩn mực gắn liền với luật pháp theo
cách hiểu thông thường - thì có thể một điều
gì đó là công lý với giai cấp này, song không là
công lý với giai cấp khác. Tương tự, khái niệm
“công bằng” - gắn liền với những đánh giá có
tính chủ thể - thì một điều gì đó có thể là công
bằng với người này, song không là công bằng
với người khác. Và cuối cùng “bình đẳng” khi
được hiểu chỉ đơn giản là sự ngang nhau, thì
trong một số trường hợp nó có thể bị xem là
cào bằng. Chính ở điểm này đòi hỏi phải có một
quan niệm có tính tổng quan, vượt lên trên
những quan niệm thông thường về “công lý”,
“công bằng”, và “bình đẳng”. Quan niệm đó
được Rawls định hình trong triết học của mình
bằng một khái niệm mới mẻ - “công lý như là
công bằng”7.
Đương nhiên, theo J. Rawls, bất cứ một
xã hội nào đều không thể là một cơ chế hợp
tác dựa trên sự bình đẳng tuyệt đối, vì mỗi
người sinh ra ở một hoàn cảnh, điều kiện
đã ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của
7 Đoàn Thị Vượng, Vấn đề công lý trong tư tưởng
triết học của Jonh Rawls, Luận văn thạc sỹ triết
học, Hà Nội, 2014.
67Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
HOÀNG THỊ BÍCH NGỌC
mỗi cá nhân. Thế nhưng, nếu một xã hội cụ
thể, phù hợp với nguyên tắc công bằng thì
nó sẽ ngày càng trở thành một cơ chế hợp
tác được mọi người thừa nhận và họ mới
thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự
nguyện.
Tìm ra bí mật của công lý, Rawls đã
góp phần làm dịu đi những mâu thuẫn
vốn đang diễn ra gay gắt ở Mỹ lúc bấy
giờ. Ông chủ trương phải tạo ra sự nhất
trí trong quan niệm của tất cả mọi người
về công bằng để vận hành xã hội và điều
chỉnh hành vi của mỗi người cụ thể. Rawls
nói: “Và vai trò đầu tiên mang tính thực dụng
của nó - triết học chính trị- xuất phát chính từ
những mâu thuẫn trong phân chia quyền lực
chính trị và nhu cầu cần làm lắng dịu những
vấn đề của hệ thống”. Theo ông, chính những
mâu thuẫn của siêu hình học trên cơ sở tôn
giáo trong lịch sử Tây Âu vốn đã đặt ra
những vấn nạn lớn cho triết học chính trị.
Ông viết: “Có những giai đoạn kéo dài trong
lịch sử của bất kỳ xã hội nào đã cho thấy, tồn tại
những vấn đề thực sự cơ bản của xã hội đã dẫn
đến những mâu thuẫn sâu sắc, và nó được xem
như là những khó khăn thực sự nếu không tìm
ra một nền tảng chung đúng đắn nào đó cho
những thỏa thuận mang tính chính trị”8. Có rất
nhiều những mâu thuẫn trong mối quan hệ
của con người với xã hội, nhưng đặc trưng
hơn cả đó là những mâu thuẫn tư tưởng
liên quan đến tự do và công bằng. Và chính
sự khác biệt căn bản này đã hình thành nên
những mâu thuẫn, xung đột, hay những
cuộc chiến tranh kéo dài trong lịch sử. Vì
thế, trong một xã hội nhất định, luôn luôn
phải thực hiện nhiệm vụ hóa giải các mâu
thuẫn trong tư tưởng của các thành viên để
từ đó đi tới sự đồng thuận chính trị chung.
8 John Rawls, A theory of justice, Harvard University
Press, 1971.
Nội hàm khái niệm “công lý như là
công bằng”
Công lý như là công bằng để muốn nói
rằng công lý bao gồm trong nó cả những
điều đúng đắn nên làm, những điều thiện
và những điều công bằng.
Xem xét khái niệm công lý, cần hiểu
nó theo nghĩa đa nguyên, không nên áp
đặt một quan niệm bất kỳ nào về công lý
và xem nó là cái đúng trong mọi hoàn cảnh
bởi với những chủ thể khác nhau, có thể sẽ
có những quan niệm khác nhau về công lý.
Ngoài ra, khi xem “công lý như là công
bằng” chúng ta cần tìm ra giải pháp cho sự
xung đột giữa hai vấn đề rất quan trọng
của đời sống, đó là vấn đề công bằng xã
hội và hiệu quả kinh tế. Bối cảnh kinh tế
của Mỹ chính là cơ sở thực tế khi Rawls
viết cuốn “Một lý thuyết về công lý” (1971).
Người ta nhìn thấy một nước Mỹ cường
thịnh, nhưng ở một khía cạnh khác, người
ta còn thấy một nước Mỹ của sự phân hóa
giàu nghèo, của tình trạng thất nghiệp và
tệ nạn xã hội tràn lan. “Như vậy, một sự
phát triển bền vững không những cần đạt được
hiệu quả kinh tế cao mà còn phải đảm bảo được
các yêu cầu của con người, mà trong đó, phải
đảm bảo được yêu cầu về công bằng xã hội”9.
Khi xem “công lý như là công bằng”, Rawls
muốn chỉ rõ rằng trong sự phát triển của
xã hội, cá nhân tham gia vào hợp tác xã hội
bắt nguồn từ động cơ lợi ích kinh tế của họ,
họ cảm thấy sự hợp tác là có lợi, và vì thế
họ tự nguyện đóng góp. Nhưng khi một
thể chế ra đời, nó phải lấy nguyên tắc tôn
trọng sự tự do và bình đẳng của cá nhân
9 Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế
trong “Lí thuyết về công lí của nhà triết học Mỹ
John Rawls, NXB Thế giới, Hà Nội.
68
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG LÝ CỦA ...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
làm nguyên tắc cho bất cứ cái gì được xem
là công bằng.
Sở dĩ quan điểm của Rawls gây được
sự chú ý chính là do ông đưa nguyên tắc
tôn trọng quyền tự do cá nhân lên hàng
đầu. Rawls đòi hỏi rằng, điều được xem
là đúng đắn trước hết nó phải đạt được
việc xem quyền tự do ở mỗi cá nhân trong
bất kỳ xã hội nào đều phải bình đẳng như
nhau. Ở “vị trí đầu tiên”, mỗi thành viên
của xã hội đều có quyền tự do như nhau
trong các vấn đề cơ bản như quyền bầu
cử, quyền nắm giữ các chức vụ công cộng,
quyền tự do tư tưởng... Đó là nội hàm của
nguyên tắc thứ nhất, mà Rawls gọi với cái
tên là “nguyên tắc bình đẳng”. Ở nguyên
tắc thứ hai ông gọi tên là “nguyên tắc khác
biệt”, trong đó, đề cập tới cách thức phân
phối phúc lợi xã hội cũng như các nghĩa vụ
đối với các thành viên. Dựa vào tính đúng
đắn của “nguyên tắc bình đẳng”, “nguyên
tắc khác biệt” chỉ rõ rằng sự bất bình đẳng
sẽ tất yếu diễn ra, nhưng nó cần đảm bảo
chia đều các cơ hội cho các thành viên, và
đem lại lợi ích cao nhất có thể cho nhóm
người ít có cơ hội nhất.
III. Kết luận
Có thể thấy, ở bất kỳ thời điểm nào của
lịch sử xã hội loài người, vấn đề công lý
là một vấn đề rất trừu tượng và khó hiểu,
các nhà triết học vì thế từ thời kỳ cổ đại
đều bỏ rất nhiều công sức của mình để lý
giải. Trong số đó có quan điểm mang tính
độc đáo và mới mẻ trong cách tiếp cận đó
là quan điểm của J. Rawls về công lý. Ông
đã đề xuất một giải pháp khả dĩ để giải
quyết một vấn đề tồn tại trong các nghiên
cứu trước đó - vấn đề giữa phát triển kinh
tế và công bằng xã hội, chỉ ra sự khác biệt
giữa các cá nhân và dẫn đến chuyện tồn
tại những bất bình đẳng trong xã hội là tất
yếu. Cốt lõi ở đây chính là từ những bất
bình đẳng tất yếu đó, con người phải tìm
cách ứng xử phù hợp nhất để đảm bảo lợi
ích tối đa và hạn chế tối thiểu thiệt hại cho
tất cả mọi người trong xã hội. Điều này
yêu cầu các quốc gia buộc phải xây dựng
các chính sách điều hành xã hội phù hợp
với quốc gia và công dân của mình, đảm
bảo tối đa khả năng thực thi của công lý
trong xã hội.
Trên tinh thần thừa kế và phát huy, nhà
triết học John Rawls đã có những nghiên
cứu sâu sắc, nhân văn và trở thành nền
tảng cho những nghiên cứu của thế hệ sau
khi nghiên cứu về công lý và những khía
cạnh liên quan. Mặc dù chúng ta vẫn phải
thừa nhận rằng để hiện thực hóa những tư
tưởng của Rawls vào thực tế xã hội là một
điều quả không dễ dàng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thảo Nguyên, Triết học kinh tế trong “Lý
thuyết về công lí của nhà triết học Mỹ John Rawls”,
NXB Thế giới, Hà Nội, 2006.
2. John Rawls, A theory of justice, Harvard
University Press, 1971.
3. Michael J. Sandel, What is the right thing to do,
New York, 2007.
4. Nguyễn Anh Tuấn, Khảo lược Bộ luật
Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, 2008.
5. PGS. TS Nguyễn Minh Tuấn, Công Lý và Quyền
tiếp cận công lý, NXB Hồng Đức, trang 54.
6. Tập thể tác giả, Lịch sử tư tưởng về công lý, Công
lý và quyền tiếp cận công lý, NXB Hồng Đức,
2018, trang 16.
7. Đoàn Thị Vượng, Vấn đề công lý trong tư tưởng
triết học của Jonh Rawls, Luận văn thạc sỹ triết
học, Hà Nội, 2014.
8. Raymond Wacks, Triết học luật pháp (Phạm
Kiều Tùng dịch), Nhà xuất bản tri thức, 2011.
9. Tập thể tác giả, Công lý và Quyền tiếp cận công
lý, NXB Hồng Đức, 2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lich_su_tu_tuong_ve_cong_ly_va_quan_diem_ve_cong_ly_cua_nha.pdf