Lịch sử văn hóa - Đình bảng

Theo các cụ cao niên trong làng, đình Đình Bảng có tất cả 28 kiểu chạm khắc bộ long và hàng chục kiểu chạm khắc bộ ly, quy, phượng, không một bộ nào giống nhau về hình thể cũng như kích cỡ. Những đường nét được chạm khắc tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ. Nét tinh tế trong nghệ thuật điêu khắc ở đình Đình Bảng khiến bất cứ ai đến đây cũng phải khâm phục bàn tay tài hoa của cha ông.

docx13 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 840 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lịch sử văn hóa - Đình bảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÌNH BẢNG Cách Hà Nội 20km về phía Bắc, Đình làng Đình Bảng (Đình Bảng) thuộc thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh (xưa là Hương Cổ Pháp). Vùng địa linh này là quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010). Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý, tạo thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia, đủ cả: Đình, Đền, Chùa, Lăng, Tẩm .... đặc trưng của văn hóa làng Việt Nam. Đình Bảng là một trong những ngôi đình có kiến trúc đẹp nhất còn tồn tại đến ngày hôm nay. Lịch sử: Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700 thời Hậu Lê kéo dài ba mươi sáu năm đến năm 1736 mới hoàn thành. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương, người Đình Bảng (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên, quê ở Thanh Hóa. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình. Đình Bảng là nơi hội tụ văn hoá tín ngưỡng, nguyên trước Đình thờ 3 vị nhiên thần: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần Trồng Trọt), đây là các vị thần được cư dân nông nghiệp tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tươi tốt. Hàng năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu khẩn cho một năm mùa màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân dân cũng thờ Lục Tổ (6 vị có công lập lại làng vào thế kỷ XV. Sau này khi đền Lý Bát Đế bị thực dân pháp phá năm 1948, nhân dân đã tiếp nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về thờ tại đình Đình Bảng. Kiến trúc: Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc, giữ được hình ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình làng. Nhìn lại lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn còn in giữ trên các trống đồng Đông Sơn - Một sáng tạo của cha ông ta trong lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi thế kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn nhưng phải nhận thấy cả hai mẫu hình này có phong thái thống nhất, có sự kế thừa và phát triển truyền thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng nước. Kiến trúc nhà sàn Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ, còn gọi theo dạng chữ Nho là kiểu "chữ đinh" 丁. Toà đại đình dài 20 m, rộng 14 m, cao 8 m, phần mái rủ xuống đẹp đẽ chiếm tới 5,5 m tổng chiều cao. Mặt bằng Đình Bảng Đình Bảng là một công trình kiến trúc quy mô, nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan trọng nhất của Đình Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà Bái Đường (Đại Đình). Bái Đường của đình có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy gian, hai chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ sộ của đình thể hiện qua phần mái toả rộng chiếm 2/3 chiều cao tổng thể và 6 hàng, khoảng 60 cột lim lớn nhỏ có đường kính từ 0,55- 0,65 mét được đặt trên các tảng đá xanh vuông vức. Mặt đứng Đình Bảng Tòa đại đình được xây trên nền cao ba bậc đá xanh bao quanh. Bốn mặt bưng kín bằng ván có thể tháo mở. Đại đình gồm 6 hàng chân cột với 60 cột cái bằng gỗ lim, giúp công trình thêm vững chắc. Đình Bảng có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ bề thế cao 0,7 m so với mặt nền. Mặt cắt dọc Nóc đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề thế. Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam. Đình có cửa bức bàn bao quanh. Chi tiết cấu tạo mặt cắt ngang Tỉ lệ ĐÌnh Bảng Phối cảnh góc kết cấu mái Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ". Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức gợi tả bao điều. Trên 28 chiếc kẻ hiên là 28 đầu rồng, mỗi đầu mang một vẻ sinh động. Có con rồng nhỏ nhắn, hai chân nắm râu mép, hình dáng ngộ nghĩnh, tươi cười; có con mang nét oai phong, hùng dũng; con lại vô cùng hiền từ... Một đầu mái của đình được chạm gỗ cầu kỳ, ngoài những hình rồng còn có nhiều kiểu chạm khắc khác. Trước cửa bước vào hai con nghê trong tư thế chầu nhau, căng đầy sức sống và vẻ mặt sinh động. Ở chính điện là một bức cửa võng lớn, chia thành bảy lớp, chín ô theo kiểu lồng hộp, trang trí dày đặc với các chữ triện, các con vật như rồng, phượng, ngựa, sư tử, mây, các cây trong bộ tứ quý... Kết cấu mái nhìn từ bên trong. Tất cả hệ kèo, cột đều được chạm khắc, các chi tiết không giống nhau. Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế kỷ 17, đầu 18 là nghệ thuật cung đình lấn át nghệ thuật dân gian. Trên các cấu kiện đều chạm khắc hình chữ triện, rồng với nhiều chủ đề như lưỡng long vờn mây, lưỡng long chầu nhật, ngũ long tranh châu, lục long ngự thiên, kèm theo đó là hình con phượng, nghê và hoa lá... Hình rồng chiếm số lượng lớn với khoảng 500 hình. Con rồng mang nhiều lớp nghĩa, như biểu hiện cho mây, mưa và ước vọng mùa màng thuận lợi của người nông dân. Rồng cũng biểu hiện cho uy quyền của bậc đế vương, đặt ở đình càng tăng thêm vị thế của Thành hoàng làng. Theo các cụ cao niên trong làng, đình Đình Bảng có tất cả 28 kiểu chạm khắc bộ long và hàng chục kiểu chạm khắc bộ ly, quy, phượng, không một bộ nào giống nhau về hình thể cũng như kích cỡ. Những đường nét được chạm khắc tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ. Nét tinh tế trong nghệ thuật điêu khắc ở đình Đình Bảng khiến bất cứ ai đến đây cũng phải khâm phục bàn tay tài hoa của cha ông.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxkien_truc_dinh_bang_8831.docx
Tài liệu liên quan