KẾT LUẬN
Nuôi cá lồng tại thị trấn Thuận An,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế là
nguồn tạo thu nhập lớn cho người dân với
địa hình thuận lợi thích hợp nuôi trồng một
số loại cá nước lợ có giá trị kinh tế cao.
Nghiên cứu cho thấy liên kết được thể hiện
qua sự hợp tác (liên kết ngang) giữa các
nông hộ với nhau ở mức độ chia sẻ thông
tin, một vài nông hộ liên kết thành nhóm
để đổi công cho nhau, bên cạnh đó vẫn có
hộ không tham gia liên kết. Các mối liên
kết giữa nông hộ với nhau, giữa đại lý
giống - nông hộ - đại lý thu mua chủ yếu
dựa vào sự tin tưởng trên quan hệ thân
quen trong vùng nên được hộ đánh giá liên
kết chặt chẽ, tuy nhiên, rất cần sự hỗ trợ từ
chính quyền để liên kết chặt chẽ hơn nữa
bằng việc hình thành được tổ, nhóm nhất
định và xây dựng hợp đồng chính thức
giữa các bên tham gia. Việc chỉ liên kết
với đại lý thu mua làm các nông hộ bị hạn
chế nhiều kênh thông tin và khả năng làm
việc với các đối tác khác không hiệu quả.
Trong xu thế phát triển kinh tế nông
nghiệp thì hợp tác liên kết là vô cùng cần
thiết. Các nông hộ vẫn tiếp tục duy trì mối
liên kết hiện tại, đồng thời chính quyền địa
phương cần quan tâm hơn đến thị trường
cho sản phẩm cá lồng, tìm hiểu các kênh
tiêu thụ khác, hỗ trợ và đảm bảo đầu ra sản
phẩm cho nông hộ. Các sản phẩm cá lồng
được nuôi trong điều kiện thuận lợi, có kỹ
thuật chăm sóc, vệ sinh lồng tốt sẽ dần
phát triển sản phẩm theo mô hình
VietGAP. Từ đó, hình thành mạng lưới
liên kết lâu dài, ổn định và quảng bá sản
phẩm cá lồng VietGAP mang thương hiệu
đảm bảo chất lượng đến tay nhiều người
tiêu dùng trong tương lai.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên kết trong nuôi trồng và tiêu thụ cá lồng tại thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2029-2037
2029
LIÊN KẾT TRONG NUÔI TRỒNG VÀ TIÊU THỤ CÁ LỒNG
TẠI THỊ TRẤN THUẬN AN, HUYỆN PHÚ VANG,
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nguyễn Trần Tiểu Phụng*, Lê Thị Hoa Sen, Lê Thị Hồng Phương
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế.
*Tác giả liên hệ: nguyentrantieuphung@huaf.edu.vn
Nhận bài: 20/02/2020 Hoàn thành phản biện: 19/06/2020 Chấp nhận bài: 27/08/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng liên kết trong nuôi trồng và tiêu thụ cá lồng của
nông hộ tại thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy
có 02 loại hình hợp tác liên kết chính của nông hộ trên địa bàn nghiên cứu là hợp tác (liên kết ngang)
giữa các hộ tham gia nuôi cá lồng và liên kết dọc giữa hộ nuôi cá lồng với các tác nhân trung gian
thông qua chuỗi đó là: “Liên kết giữa đại lý bán giống và các hộ nuôi - Liên kết giữa các hộ nuôi và
đại lý thu mua - Liên kết giữa các đại lý thu mua đến người tiêu dùng cuối cùng”. Có 04 yếu tố thúc
đẩy và 05 yếu tố hạn chế sự liên kết của nông hộ trong quá trình tiêu thụ cá lồng. Các mối liên kết chỉ
mang tính tự phát và hình thành dựa trên sự tin tưởng của các quan hệ thân quen, chưa có tổ hợp tác
liên kết cụ thể trong hoạt động nuôi cá lồng ở địa bàn nghiên cứu. Các giải pháp cần thiết lúc này là sự
tham gia của chính quyền địa phương trong việc phát triển các mối liên kết, tập huấn nâng cao năng
lực cho nông hộ để góp phần tăng thu nhập cho người dân, tạo thương hiệu và giải quyết được vấn đề
thị trường cho sản phẩm cá lồng tại thị trấn Thuận An.
Từ khoá: Hợp tác, Liên kết, Nuôi cá lồng, Ven biển Thừa Thiên Huế
LINKING IN AQUACULTURE AND CAGE FISH CONSUMPTION
IN THUAN AN TOWN, PHU VANG DISTRICT,
THUA THIEN HUE PROVINCE
Nguyen Tran Tieu Phung*, Le Thi Hoa Sen, Le Thi Hong Phuong
University of Agriculture and Forestry, Hue University.
ABSTRACT
This study aimed to assess the status of linkage in cage culture and consumption of households
in Thuan An town, Phu Vang district, Thua Thien Hue province. The research results showed that
there were two main types of cooperative cooperation among farmers in the study area such as
cooperation (cross-linkage) between households participating in cage fish farming and vertical linkage
between cage farming households and intermediary agent through that chain was “The linkage
between seed dealers and farmers - the linkage between farmers and buying agent - the linkage
between buying agent to the final consumers”. There were 04 motivating factors and 05 factors that
limited the households’ linkage during cage fish consumption. The linkage was spontaneous and
formed based on trust and familiarity, there was no specific cooperative group in cage fish farming
activities in the study area. The necessary solutions were participation of local authorities in
developing linkages, training to improve farmers’ capacity to contribute to increasing households
incomes for the people, creating brands and solving commercial issues for fish cage products in Thuan
An town.
Keywords: Cooperative, Linkage, Cage fish farming, Thua Thien Hue coastal area
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2029-2037
2030 Nguyễn Trần Tiểu Phụng và cs.
1. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh cả nước đang đẩy
mạnh tái cơ cấu nhằm đưa ngành Nông
nghiệp Việt Nam phát triển và có hướng
sản xuất hàng hoá chuyên môn cao, việc
liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm là xu thế tất yếu (Hồ Quế Hậu,
2012). Hợp tác, liên kết (HTLK) là nhu
cầu trong đời sống xã hội, đặc biệt phổ
biến và có ý nghĩa với những nhóm đối
tượng yếu thế (Oxfarm, 2014 ). Hợp tác,
liên kết mang những đặc thù khác nhau
song điểm chung là nông dân có thể liên
kết dưới nhiều hình thức. Phổ biến nhất là
hình thức hợp tác (còn gọi liên kết ngang)
giữa các tác nhân có sản phẩm, dịch vụ
liên quan nhau, có thể sử dụng 01 hệ thống
dịch vụ, hệ thống phân phối để gia tăng
hiệu quả như liên kết giữa nông dân với
nông dân, nông dân với các tổ chức kinh tế
nông nghiệp Hợp tác xã, Tổ hợp tác và
hình thức Liên kết (liên kết theo chiều dọc)
giữa các tác nhân chịu trách nhiệm ở các
khâu khác nhau trong chuỗi giá trị như
giữa nông dân và doanh nghiệp, giữa các
hình thức của tổ chức nông dân (Hợp tác
xã, Tổ hợp tác) với Doanh nghiệp. Tuy
nhiên, thực tế việc liên kết trong tiêu thụ
sản phẩm tại địa phương còn rất hạn chế,
chưa hướng đến việc tập trung sản xuất
mang tính hàng hoá mặc dù đã có nhiều
chính sách về phát triển các hình thức hợp
tác đã ra đời song vẫn chưa giải quyết
được vấn đề tồn tại (Nguyễn Việt Long và
cs., 2016). Nhận thức được tiềm năng của
việc liên kết, nghị định 98/2018/NĐ - CP
của Chính phủ ra đời về chính sách khuyến
khích phát triển HTLK trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm nhằm làm rõ vai trò liên
kết của các bên tham gia có sự gắn kết lâu
dài và bền vững.
Thị trấn Thuận An, huyện Phú
Vang, Thừa Thiên Huế là một trong những
xã điểm của tỉnh có tiềm năng phát triển
ngư nghiệp đặc biệt là nuôi cá lồng. Trong
những năm qua, hoạt động nuôi cá lồng
khá phổ biến tại địa phương được nhiều hộ
dân triển khai nuôi trong nhiều năm mang
lại hiệu quả nhất định cho nông hộ. Tuy
nhiên, thông tin thị trường đầu ra, các mối
liên kết trọng tâm không bền vững giữa
các tác nhân đang là vấn đề khó khăn đối
với tiềm năng sản phẩm cá lồng ngày một
cho giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó, việc
liên kết không có hợp đồng chính thống là
một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến khả năng kết nối thị trường của
sản phẩm cá lồng. Xuất phát từ tình hình
thực tế đó, nghiên cứu “Liên kết trong nuôi
trồng và tiêu thụ cá lồng” được thực hiện ở
địa bàn thị trấn Thuận An - Phú Vang -
Thừa Thiên Huế với mục tiêu nghiên cứu
nhằm phân tích thực trạng HTLK giữa các
nông hộ với các tác nhân trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm cá lồng làm cơ sở xác
định giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển
thị trường cho sản phẩm cá lồng ở địa bàn
nghiên cứu.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Điểm nghiên cứu và chọn mẫu
Thị trấn Thuận An, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế là một xã ven
biển được lựa chọn làm địa bàn nghiên
cứu. Có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát
triển nuôi trồng thuỷ sản như nuôi xen
ghép tôm, cá, các mô hình cao triều, hạ
triều, trắng sáo và tiếp cận thị trường. Phía
Bắc giáp với Thị xã Hương Trà thuận tiện
cho giao thông đi lại và kết nối giao
thương. Phía Đông giáp với đầm phá Tam
Giang để nuôi và phát triển các loại cá
nước lợ, trong đó nghề nuôi cá lồng giúp
ổn định cuộc sống và là nguồn sinh kế
chính của người dân tại địa phương.
Phương pháp chọn mẫu phân tầng
theo 03 thôn kết hợp với ngẫu nhiên được
tiến hành để thu thập số liệu 45 mẫu (hộ)
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2029-2037
2031
đại diện được lựa chọn theo 03 thôn của
vùng nghiên cứu bao gồm: thôn An Hải 12
mẫu, thôn Hải Tiến 15 mẫu và thôn Hải
Bình 18 mẫu. Đây là những địa bàn có quy
mô nông hộ nuôi cá lồng lớn chiếm
khoảng 60% số hộ nuôi tại địa phương.
2.2. Phương pháp thu thập thông tin
Thông tin thứ cấp được thu thập qua
các công trình nghiên cứu tài liệu liên quan
đến liên kết trong sản xuất nông nghiệp;
các báo cáo kinh tế xã hội của thị trấn
Thuận An từ năm 2017 - 2019; các số liệu
thống kê hoạt động nuôi cá lồng trong năm
2019.
Thông tin sơ cấp được thu thập qua
phỏng vấn sâu 04 người am hiểu là cán bộ
nông nghiệp và trưởng thôn An Hải, Hải
Tiến và Hải Bình về tình hình nuôi cá lồng
tại địa phương, chính sách phát triển
HTLK nuôi trồng thuỷ sản nói chung và
sản phẩm cá lồng nói riêng. Phỏng vấn
bằng bảng hỏi bán cấu trúc về 45 hộ dân
nuôi cá lồng để thu thập những thông tin
về diện tích, năng suất và các mối liên kết
của người dân tại địa phương cho sản
phẩm cá lồng.
2.3. Phương pháp phân tích thông tin
Đề tài sử dụng phương pháp thống
kê mô tả để phân tích giá trị định tính và
giá trị định lượng. Bao gồm các số liệu
được mã hoá và xử lý theo giá trị trung
bình (Average); độ lệch chuẩn (Stevd); tỷ
lệ phầm trăm (%), đếm tần suất xuất hiện
của các giá trị (countif) được quản lý trên
phần mềm Excel 2010.
Phương pháp thang đo Likert 5 mức
độ (1 - Không chặt chẽ đến 5 - Rất chặt
chẽ) (Rennis Likert, 1932) kết hợp phương
pháp thống kê mô tả để tính khoảng cách
giá trị trung bình của các biến tiêu chí
được dùng để đánh giá mức độ liên kết
giữa các tác nhân tham gia từ hoạt động
sản xuất đến tiêu thụ cá lồng tại địa
phương qua 06 tiêu chí. Từ đó có thể
khuyến nghị và đề xuất giải pháp phát triển
liên kết tại địa phương.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình phát triển nuôi cá lồng ở
Thị trấn Thuận An
Hoạt động nuôi cá lồng tại địa
phương bắt đầu từ năm 2011 và đến năm
2019 đã có 186 hộ nuôi với 307 lồng, diện
tích mặt nước sử dụng trung bình
/hộ. Điều này cho thấy, điều kiện
thuận lợi về vị trí địa lý giúp người dân có
thể phát triển sinh kế thông qua hoạt động
nuôi cá lồng. Bên cạnh đó, những thuận lợi
đến từ điều kiện tự nhiên như: ít dịch bệnh,
không sử dụng thuốc, vật liệu làm lồng rẻ,
cá tăng trưởng nhanh, địa hình rộng rãi,
gần cửa biển, nguồn nước ra vào tốt rất
thích hợp trong việc nuôi lồng các loại
phong phú như cá chẽm, cá diêu hồng, cá
dìa, cá bớp, cá vặt. Trung bình mỗi hộ nuôi
từ 05 đến 06 lồng. Năm 2017 việc xả lũ từ
nhà máy thuỷ điện đã gây thiệt hại đáng kể
cho các hộ nuôi, chất lượng cá không tốt,
giá thành không cao. Một trong những yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả
trong nuôi cá lồng đến từ việc thiếu kiến
thức, kỹ năng chăm sóc, của nông hộ thể
hiện qua Bảng 1.
Bảng 1. Tình hình tiếp cận kỹ thuật nuôi trồng của hộ trên địa bàn nghiên cứu
Chỉ tiêu Số hộ %
Từ kinh nghiệm 35 77,78
Học hỏi từ những hộ khác 6 13,33
Tập huấn 4 8,89
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2029-2037
2032 Nguyễn Trần Tiểu Phụng và cs.
Đa số nông hộ đều dựa vào kinh
nghiệm tích luỹ chiếm 77,78% mà thiếu đi
phương pháp, kỹ thuật nuôi hiệu quả.
Chính vì thiếu những kiến thức nhất định
nên nông hộ gặp những khó khăn trong các
công tác quản lý cũng như ảnh hưởng đến
tình hình nuôi cá lồng (Bảng 2).
Bảng 2. Đánh giá về khó khăn khi nuôi cá lồng
Khó khăn Số hộ (n = 45) % Ghi chú
Khả năng tiếp cận đầu vào trong
hoạt động nuôi
15 33,33
Loại đầu vào như: giống, vật liệu làm
lồng, vay vốn, thức ăn
Khả năng quản lý của nông hộ 23 51,11 Quản lý tài chính, thời vụ
Thông tin nhu cầu thị trường 30 66,67 Thông tin giá cả, giá bán, đại lý
Khả năng thu hồi vốn 21 46,67 Khi có dịch bệnh, thiên tai
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
Kết quả Bảng 2 cho thấy có 04 chỉ
tiêu về khó khăn chủ yếu đến từ năng lực
của nông hộ. Năng lực nông hộ bao gồm:
kỹ thuật nuôi (Bảng 1), trình độ văn hoá
(Bảng 3). Theo Phạm Lê Thông và cs.,
(2010) trình độ văn hoá thấp sẽ ảnh hưởng
đến khả năng tiếp cận kỹ thuật và khả năng
quản lý khác của nông hộ. Trong đó, khả
năng nắm thông tin về nhu cầu thị trường
được nông hộ đánh giá khó khăn nhất
chiếm 66,67%, bên cạnh đó, nông hộ dễ bị
rủi ro khi có thiên tai hay dịch bệnh sẽ rất
khó thu hồi vốn ban đầu. Những khó khăn
trên sẽ ảnh hưởng phần nào đến thu nhập
của nông hộ trong tương lai.
3.2. Đặc điểm và kết quả nuôi cá lồng
của hộ
Chủ hộ là người quyết định đến mọi
hoạt động trong gia đình nên các thông tin
rất hữu ích để nắm tình hình chung của hộ
trong nuôi cá lồng, trong đó thể hiện được
khả năng tham gia liên kết với nhau tạo
thành cộng đồng đặc trưng là rất cần thiết
cho nghiên cứu.
Bảng 3. Một số thông tin của hộ nuôi cá lồng
Chỉ tiêu (ĐVT) Giá trị Ghi chú
Tuổi chủ hộ (tuổi) 48,58 7,34
Văn hóa chủ hộ (lớp) 6,378 2,605
Số khẩu/hộ (người) 5,13 0,94
Số lao động/hộ (LĐ) 3,4 0,76 1,49 0,55 LĐ nuôi cá lồng
Hộ nghèo (hộ) 12 26,7% tổng số hộ
Hộ không nghèo (hộ) 33 73,3% tổng số hộ
Số lồng/hộ (lồng) 6,7 3 m x 3 m x 1,5 m
Sản lượng cá thu hoạch (tạ/hộ/năm) 177,7 Kích thước 1kg/con
Tổng thu từ cá lồng (triệu đồng/hộ/năm) 214,1 Giá 1tạ/lồng = 32 triệu đồng
Chi phí nuôi cá (triệu đồng/hộ/năm) 83,97 giống, làm lồng, thức ăn, công
Thu nhập cá lồng (triệu đồng/hộ/năm) 130,13 19,4 triệu đồng/lồng
Dấu ký hiệu giá trị độ lệch chuẩn
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
Kết quả Bảng 3 cho thấy tuổi trung
bình của các chủ hộ vẫn trong tuổi lao
động tạo thu nhập tốt. Chủ hộ chủ yếu là
nam giới là thế mạnh cho việc nuôi cá lồng
hiệu quả. Trình độ học vấn của các chủ hộ
nuôi cá lồng nơi đây (từ lớp 6) là tương đối
thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng chủ động
tìm hiểu kỹ thuật mới trong sản xuất. Số
lao động trong gia đình bình quân trên 03
người chứng tỏ có ít nhất 01 lao động tham
gia nuôi cá lồng/hộ. Năm 2019, thu nhập
bình quân của nông hộ khoảng 19,4 triệu
đồng/lồng. Vì chi phí nuôi khá cao và nông
hộ có hạn chế nhất định về năng lực (Bảng
2) nên thu nhập về sản phẩm cá
lồng/năm/hộ vẫn chưa cải thiện. Nhưng
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2029-2037
2033
nhìn chung, các nông hộ đã có sự liên kết
với nhau nên giá bán luôn ổn định và
không có sự phá giá.
3.3. Hiện trạng hợp tác (liên kết ngang)
trong nuôi cá lồng
Bảng 4. Tình hình liên kết ngang trong nuôi cá lồng tại địa phương
Hình thức hợp tác Số hộ (%) Nội dung hợp tác Ghi chú
Hợp tác giữa các hộ nuôi cá
lồng
32 (71,11%)
Hợp tác theo từng vụ, chia sẻ kinh
nghiệm nuôi, cách chăm sóc.
Ổn định giá cả, chi phí
Hợp tác theo tổ sản xuất 8 (17,78%)
Thực hiện và giám sát thực hiện
quy định nuôi trong vùng.
Đổi công chăm sóc hoặc thu hoạch
nếu cần.
Kiểm soát dịch bệnh,
môi trường và giá cả
Không tham gia hợp tác 5 (11,11%) -
Chủ yếu bán tự phát cho
các cơ sở hoặc tại chợ
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
Khảo sát tại địa bàn nghiên cứu cho
thấy hợp tác (liên kết ngang) thể hiện chủ
yếu là liên kết giữa các nông hộ với nhau
chiếm 71,11%. Đây là hình thức liên kết
dưới dạng trao đổi thông tin về thời tiết,
thời vụ và tự phát giữa các nông hộ. Ngoài
ra, một số nông hộ nhận thấy rằng việc liên
kết thành nhóm trong một vụ nuôi là cần
thiết, bởi các nông hộ có thể đổi công
chăm sóc cho nhau, khi thu hoạch bán cho
đại lý được nhanh chóng và đồng bộ hơn.
Các tổ chức hỗ trợ hợp tác khác
cũng liên kết với nông dân nhưng không
thường xuyên như chi hội nghề cá gồm 50
thành viên có thể cho các nông hộ vay vốn
trong thời gian mới bắt đầu nuôi cá lồng
nhưng đa số các nông hộ không lựa chọn
vay ở đây vì vốn ban đầu để đầu tư nuôi cá
không cao, cho nên hoạt động của chi hội
nghề cá chủ yếu phục vụ cho nông hộ có
đánh bắt xa bờ. Chi cục thuỷ sản hàng năm
có mở lớp tập huấn an toàn vệ sinh thực
phẩm, kỹ thuật nuôi nhưng tập trung tập
huấn cho nông hộ điển hình nuôi diện tích
lớn và phân bổ kinh phí tập huấn cho
những hoạt động nông nghiệp khác.
Nhìn chung, liên kết ngang tại địa
phương còn khá rời rạc, từ chi phí nuôi
trồng, mua giống, hỗ trợ nhau vay vốn các
hộ hoàn toàn hoạt động độc lập, không có
quỹ tín dụng, không có sự liên kết rõ ràng
về nguồn vốn hay tư liệu sản xuất dẫn đến
11,11% nông hộ không tham gia liên kết.
Hiện tại, địa phương chưa hình
thành được các tổ hợp tác hay hợp tác xã
có tư cách pháp nhân. Bởi tâm lý nông hộ
còn ngại với việc tham gia vào tổ, hoạt
động sẽ dễ bị ràng buộc và phải chịu trách
nhiệm chung. Hợp tác xã muốn hình thành
phải qua nhiều giai đoạn ban đầu và vốn
điều lệ để duy trì. Bên cạnh đó, chính
quyền điạ phương chưa thật sự thúc đẩy,
vận động nông hộ và tạo điều kiện cho
nông hộ nuôi cá lồng hiệu quả.
3.4. Hiện trạng liên kết (liên kết dọc)
trong nuôi và tiêu thụ cá lồng
Liên kết dọc mối liên kết cơ bản
trong hoạt động nuôi cá lồng ở thị trấn
Thuận An bao gồm: (1) liên kết giữa các
đại lý bán giống (tác nhân đầu vào) và các
hộ nuôi, (2) liên kết giữa các hộ nuôi đến
đại lý thu mua (tác nhân trung gian), (3)
liên kết giữa các đại lý thu mua đến người
tiêu dùng cuối cùng.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2029-2037
2034 Nguyễn Trần Tiểu Phụng và cs.
Bảng 5. Tình hình liên kết dọc trong nuôi cá lồng tại địa phương
Nội dung liên kết Số hộ Số đại lý Hình thức liên kết/cam kết
Cung cấp (đại lý) bán cá
giống cho nông hộ
43 2
- Thoả thuận giữa 2 cá nhân không có văn bản (1
vụ/lần)
- Cam kết mua bán lâu dài dựa trên sự tin tưởng.
Cung cấp (đại lý) bán thức
ăn nuôi cá
39 5
- Mua bán trực tiếp.
- Không có hợp đồng
- Cam kết cá tươi sạch, không chết. Bán giá cố
định không đổi.
- Đại lý bán cá cùng địa phương.
Cung ứng (hộ) và (đại lý)
tiêu thụ sản phẩm cá
40 2
- Mua bán trực tiếp.
- Đại lý thu mua 1 lượt tất cả các lồng của nông
hộ/vụ
- Không có hợp đồng kinh tế
- Đại lý là người địa phương
Cung ứng (hộ) và (hộ) tiêu
thụ sản phẩm cá tại chợ
17 Nhiều hộ
- Mua bán trực tiếp
- Không có hợp đồng
- Hộ mua là người quen, người địa phương.
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
Kết quả ở Bảng 5 cho thấy mối liên
kết dọc theo chuỗi giữa các nông hộ với
đại lý bán giống, đại lý thu mua và đại lý
bán thức ăn lần lượt chiếm 43/45 hộ; 39/45
hộ và 40/45 hộ tham gia và bán tại chợ có
17/45 hộ tham gia. Điều này cho thấy
nguồn thu của nông hộ từ đại lý thu mua là
chủ yếu và số đông đều lựa chọn mua cố
định nguồn giống tại địa phương trong
nhiều năm.
Các nông hộ lựa chọn liên kết với
đại lý thu mua bởi đại lý là người tại địa
phương nên mối quan hệ khá gần gũi. Mối
liên kết này hiện nay tại các địa phương
khá phổ biến, bởi dựa trên sự quen biết
hình thành sự tin tưởng và cam kết nên
nông hộ có sự an tâm mà không cần hợp
đồng kinh tế. Tuy nhiên, chính liên kết này
lại gây ra sự cản trở lớn cho nông hộ về
thông tin thị trường. Thực tế, nông hộ có
khả năng liên kết qua nhiều kênh để có thể
lựa chọn cung ứng và tự do thị trường của
mình. Khả năng tham gia liên kết giữa các
tác nhân trong chuỗi thể hiện qua Sơ đồ 1.
Sơ đồ 1 thể hiện các tác nhân tham
gia liên kết trực tiếp với nông hộ thông qua
kênh:
Thứ nhất là liên kết đầu vào giữa
nông hộ với đại lý bán giống trên địa bàn
(93,33%). Vì là người trong địa phương
nên mỗi vụ cam kết thông qua hình thức
mua bán trực tiếp.
Thứ hai là liên kết giữa nông hộ và
đại lý thu mua 88,89%. Đại lý thu mua sẽ
độc quyền cho tất cả các lồng cá của nông
hộ khi đến mùa thu hoạch. Đối với cá tươi
họ sẽ mua với giá 70.000 đồng/con, tuy
nhiên, nếu cá chết do yếu tố thời tiết họ
vẫn sẽ mua với giá 50.000 đồng/con. Vì
thế, các hộ dân rất yên tâm mặc dù hình
thức mua bán chỉ hợp đồng bằng miệng,
không có ràng buộc pháp lý nào. Điều này
về lâu dài rất khó khăn cho hộ nuôi trồng
bởi một khi đại lý không liên kết nữa nông
hộ sẽ khó tìm đầu ra cho sản phẩm cá lồng
trong thời gian nhất định. Một số ít hộ dân
chọn thêm kênh tiêu thụ đó chính là chợ.
Chợ là nơi buôn bán và trao đổi sản phẩm
đa dạng, tuy nhiên, theo đánh giá người
dân, giá tại chợ không cao bằng giá bán
cho đại lý.
Qua sơ đồ ta thấy, nông hộ mặc dù
nuôi nhiều giống đa dạng nhưng vẫn rất ít
thị trường để tiêu thụ. Nông hộ hoàn toàn
không có liên kết nào với người tiêu dùng
sử dụng trong nhà hàng, siêu thị, chưa có
thông tin về nhu cầu ở tỉnh thành khác.
Nếu cá không tiêu thụ hết sẽ mang ra chợ
bán với giá bán theo mùa.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2029-2037
2035
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
Sơ đồ 1. Mối liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi nuôi trồng và tiêu thụ cá lồng
3.5. Đánh giá của nông hộ về mức độ
liên kết giữa các tác nhân tham gia
Thang đo Likert 5 cấp độ được dùng
để đánh giá mức độ liên kết giữa các tác
nhân qua 06 tiêu chí. Dùng phương pháp
thống kê mô tả tính giá trị trung bình xác
định mức độ liên kết dựa vào giá trị
khoảng cách. Kết quả phân tích số liệu
được trình bày ở Bảng 6.
Bảng 6. Mức độ liên kết giữa các tác nhân tham gia liên kết
Hình thức Nội dung liên kết Giá trị Mức độ
Liên kết ngang
Giữa nông hộ - nông hộ 2,69 0,95 Chặt chẽ
Giữa nông hộ - tổ sản xuất 1,93 0,65 Ít chặt chẽ
Liên kết dọc
Giữa đại lý bán giống - nông hộ 3,38 0,54 Chặt chẽ
Giữa đại lý bán thức ăn cho cá - nông hộ 2,27 0,78 Ít chặt chẽ
Giữa nông hộ - đại lý thu mua 3,16 0,61 Chặt chẽ
Giữa nông hộ - người tiêu dùng 1,82 0,69 Ít chặt chẽ
Dấu ký hiệu giá trị độ lệch chuẩn
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
Kết quả Bảng 6 cho thấy, đa số nông
hộ đều đánh giá liên kết giữa nông hộ -
nông hộ trong liên kết ngang, liên kết giữa
đại lý bán giống - nông hộ - đại lý thu mua
trong liên kết dọc đều có mối liên kết chặt
chẽ (2,61 - 3,4). Họ cho rằng sự tin tưởng
lẫn nhau sẽ tạo mối quan hệ tốt và lâu dài,
nhưng chưa hoàn toàn tin tưởng để đánh
giá sự bền vững. Bên cạnh đó, liên kết
nông hộ - tổ sản xuất hay liên kết đại lý
bán thức ăn - nông hộ, liên kết nông hộ -
người tiêu dùng là ít chặt chẽ (1,81 - 2,6)
bởi vì các liên kết này chỉ mang tính chất
thời vụ và ít có sự tương tác hay mối quan
hệ thân thiết nào.
Vì vậy, các kết quả cho thấy có sự
liên kết giữa các tác nhân nhưng không
mối liên kết nào tại địa phương là khá chặt
chẽ hoặc rất chặt chẽ vì không có hợp đồng
kinh tế. Mọi mối quan hệ thân quen hay
các mối liên kết đều có hợp đồng pháp lý
sẽ dễ dàng hợp tác lâu dài và ổn định.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2029-2037
2036 Nguyễn Trần Tiểu Phụng và cs.
3.6. Ý kiến của hộ đánh giá hiện trạng
và kết quả hợp tác, liên kết trong nuôi
cá lồng
Bảng 7. Đánh giá về hiện trạng hợp tác liên kết trong nuôi và tiêu thụ cá lồng tại địa phương
Chỉ tiêu Số hộ % hộ Ghi chú
Yếu tố thúc đẩy liên kết
Nguồn giống uy tín 10 22,22
Đại lý thu mua là người trong vùng 27 60
Lấy giống cùng một nơi 33 73,33
Bán sản phẩm cho một đại lý cố định 21 46,67
Yếu tố hạn chế liên kết
Ràng buộc thời gian thu hoạch 3 6,67 Có thể bán theo từng tháng
Kênh thông tin ít 12 26,67
Hợp đồng bằng miệng 30 66,67
Lấy giống cùng một nơi 12 26,67
Bán cho một đại lý cố định 24 53,33 Chỉ có 02 đại lý thu mua
Giải pháp hỗ trợ HTLK
Thành lập tổ hợp tác nuôi cá lồng 35 77,78 Hoạt động lâu dài, ổn định
Hình thành các hợp đồng thu mua cá lồng
với đại lý
43 95,55
Hình thành hợp đồng kinh tế,
rõ ràng
Mở lớp tập huấn về HTLK nuôi cá lồng 28 62,22
Nâng cao năng lực quản lý cho
nông hộ
Phát triển các kênh dịch vụ thông tin nuôi
cá lồng
41 91,11
Chính quyền hỗ trợ thông tin
cho nông hộ
Nguồn: Phỏng vấn hộ (2019)
Kết quả Bảng 7 cho thấy, có 04 yếu
tố thúc đẩy và 05 yếu tố hạn chế quá trình
thực hiện liên kết. Tuy nhiên, có 02 yếu tố
là lấy giống cùng một nơi và bán cho đại lý
cố định được nông hộ nhận xét vừa mang
yếu tố thúc đẩy lại vừa hạn chế. Việc lấy
giống cùng một nơi là sự liên kết đặc trưng
của nông hộ tại địa phương nhận xét lợi
ích chiếm 73,33%, tuy nhiên 26,67% nhận
xét bất lợi bởi việc lấy giống chỉ một nơi
khiến nguồn giống ít đa dạng, phong phú.
Các nông hộ muốn nhiều nguồn giống hơn
để có thể phát triển kinh tế cho gia đình.
Cùng bán cho một đại lý là người
trong vùng là một thuận lợi được người
dân đánh giá cao. Tuy nhiên, nông hộ cho
rằng, việc chỉ bán cho một đại lý thu mua
như đã phân tích ở Sơ đồ 1 cho thấy các
nông hộ rất ít thông tin về kênh tiêu thụ
cũng như lựa chọn tin tưởng đại lý thu mua
không qua hợp đồng kinh tế. Nếu rủi ro
xảy ra nông hộ rất khó để tìm đầu ra cho
sản phẩm của mình.
Ngoài ra, còn 03 yếu tố hạn chế đó
là thời gian thu hoạch bị ràng buộc bởi đại
lý thu mua, nông hộ có ít thông tin về kênh
tiêu thụ, chỉ có thể mua bán qua đại lý thu
mua, hợp đồng bằng miệng. Trong đó, hợp
đồng không giấy tờ cam kết được hộ dân
đánh giá rủi ro nhất chiếm 66,67%. Việc
có quá ít kênh thông tin khiến nông hộ
không có định hướng cho tương lai được
đánh giá hạn chế chiếm 26,67%.
Qua đó, ta thấy rằng, các mối liên
kết mặc dù lâu dài nhưng không có ràng
buộc về pháp lý cũng khiến người dân thấy
dễ bị rủi ro, nhất đối với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội ngày nay. Trên cơ sở
những kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đã
tiến hành đề xuất một số giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả liên kết thông qua
những nghiên cứu liên quan về nhu cầu
liên kết của nông hộ, tuy nhiên có 04 giải
pháp được người dân đánh giá phù hợp
trong bối cảnh tại địa phương. Có 95,55%
hộ đồng ý với việc hình thành hợp đồng
thu mua cá lồng với đại lý, bởi nghiên cứu
chỉ ra rằng khi có hợp đồng thì các bên liên
kết sẽ thực hiện đúng nhiệm vụ của mình.
Kênh thông tin tiêu thụ được 91,11%
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2029-2037
2037
người dân quan tâm, bởi trong xu thế hiện
nay việc có nhiều thông tin thị trường sẽ
chiếm ưu thế nhất định. Việc thành lập
được tổ hợp tác cá lồng chiếm 77,78%,
liên kết tạo thành nhóm sản xuất sẽ thúc
đẩy việc hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm,
giảm chi phí đầu vào hay giảm những rủi
ro phát sinh khác như thời tiết, dịch bệnh,
thị trường tiêu thụ. Ngoài ra, nông hộ còn
mong muốn mở các lớp tập huấn về cách
chăm sóc và vệ sinh lồng và hướng đến
VietGAP.
4. KẾT LUẬN
Nuôi cá lồng tại thị trấn Thuận An,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế là
nguồn tạo thu nhập lớn cho người dân với
địa hình thuận lợi thích hợp nuôi trồng một
số loại cá nước lợ có giá trị kinh tế cao.
Nghiên cứu cho thấy liên kết được thể hiện
qua sự hợp tác (liên kết ngang) giữa các
nông hộ với nhau ở mức độ chia sẻ thông
tin, một vài nông hộ liên kết thành nhóm
để đổi công cho nhau, bên cạnh đó vẫn có
hộ không tham gia liên kết. Các mối liên
kết giữa nông hộ với nhau, giữa đại lý
giống - nông hộ - đại lý thu mua chủ yếu
dựa vào sự tin tưởng trên quan hệ thân
quen trong vùng nên được hộ đánh giá liên
kết chặt chẽ, tuy nhiên, rất cần sự hỗ trợ từ
chính quyền để liên kết chặt chẽ hơn nữa
bằng việc hình thành được tổ, nhóm nhất
định và xây dựng hợp đồng chính thức
giữa các bên tham gia. Việc chỉ liên kết
với đại lý thu mua làm các nông hộ bị hạn
chế nhiều kênh thông tin và khả năng làm
việc với các đối tác khác không hiệu quả.
Trong xu thế phát triển kinh tế nông
nghiệp thì hợp tác liên kết là vô cùng cần
thiết. Các nông hộ vẫn tiếp tục duy trì mối
liên kết hiện tại, đồng thời chính quyền địa
phương cần quan tâm hơn đến thị trường
cho sản phẩm cá lồng, tìm hiểu các kênh
tiêu thụ khác, hỗ trợ và đảm bảo đầu ra sản
phẩm cho nông hộ. Các sản phẩm cá lồng
được nuôi trong điều kiện thuận lợi, có kỹ
thuật chăm sóc, vệ sinh lồng tốt sẽ dần
phát triển sản phẩm theo mô hình
VietGAP. Từ đó, hình thành mạng lưới
liên kết lâu dài, ổn định và quảng bá sản
phẩm cá lồng VietGAP mang thương hiệu
đảm bảo chất lượng đến tay nhiều người
tiêu dùng trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng việt
Lê Thanh Sang và Nguyễn Đặng Minh Thảo.
(2014). Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
tôm xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà
Mau. Tạp chí Khoa học Xã hội thành phố
Hồ Chí Minh, 1(197), 22 - 35.
Oxfarm. (2014). Hợp tác liên kết nông dân
trong sản xuất nông nghiệp theo tiếp cận
thúc đẩy quyền, tiếng nói, lựa chọn của
nông dân: Hiện trạng, khuyến nghị chính
sách. Khai thác từ
https://www.oxfamblogs.org/vietnam/wp-
content/uploads/2009/03/Oxfam_Bao-cao-
GROW-ve-Lien-ket-nong-dan-_Vie.pdf
Nguyễn Thị Dương Nga. (2017). Giải pháp
tăng cường liên kết trong tiêu thụ một số
sản phẩm nông nghiệp thuỷ sản chủ yếu tại
tỉnh Ninh Bình. Hà Nội: Khoa kinh tế và
phát triển nông thôn - Học viện nông
nghiệp Việt Nam.
Hồ Quế Hậu. (2012). Liên kết giữa doanh
nghiệp chế biến nông sản với nông dân ở
Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà nội.
Nguyễn Việt Long và Trần Đức Viên. (2016).
Thúc đẩy liên kết với người sản xuất trong
nông nghiệp. Tạp chí Tia Sáng, Ấn phẩm
báo khoa học và phát triển Bộ Khoa học và
Công nghệ, (1).
Phạm Lê Thông, Huỳnh Việt Khải, Tống Yên
Dân, Huỳnh Thị Đan Xuân và Khổng Tiến
Dũng. (2010). Phân phối hiệu quả kỹ thuật ,
phân phối và kinh tế của việc sản xuất lúa ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Đề tài khoa học
cấp Bộ, trường Đại học Cần Thơ
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Likert, R. (1932). A technique for the
Measurement of Attitudes. Archives of
Psychology, (140), 5 - 55.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
lien_ket_trong_nuoi_trong_va_tieu_thu_ca_long_tai_thi_tran_t.pdf