KẾT LUẬN
Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy có sự liên
quan giữa răng khôn hàm dưới và gãy góc hàm.
Người có răng khôn mọc lệch có nguy cơ gãy lồi
cầu ít hơn nhưng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Nghiên cứu chỉ ghi nhận yếu tố nguy
cơ mà chưa nhằm so sánh về mức độ trầm trọng
trong gãy góc hàm và lồi cầu để đưa ra khuyến
cáo chính xác về việc nhổ răng khôn mọc lệch.
Do đó chúng tôi đề nghị những nghiên
cứu kế tiếp cần mở rộng thực hiện trên đa
trung tâm với số lượng mẫu lớn hơn, đồng
thời các nghiên cứu sinh cơ học trong tương
lai sẽ là cần thiết để làm rõ thêm nguy cơ gãy
góc hàm phụ thuộc vào các mức độ lệch khác
nhau và hướng của lực tác dụng bên cạnh
răng khôn hàm dưới mọc lệch.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 20 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên quan giữa răng khôn hàm dưới mọc lệch với gãy góc hàm và gãy lồi cầu xương hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 261
LIÊN QUAN GIỮA RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI MỌC LỆCH
VỚI GÃY GÓC HÀM VÀ GÃY LỒI CẦU XƯƠNG HÀM DƯỚI
Trần Đăng Minh*, Nguyễn Thị Bích Lý**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp những thông tin về mối liên quan giữa răng khôn
hàm dưới mọc lệch với các đường gãy góc hàm và gãy lồi cầu xương hàm dưới.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên 546 bệnh nhân bị gãy xương hàm dưới được điều trị tại bệnh
viện Răng Hàm Mặt Trung ương TPHCM từ tháng 12/2011 đến tháng 10/2013. Dữ liệu thu thập bao gồm tuổi,
giới tính, nguyên nhân chấn thương (tai nạn giao thông, đả thương, tai nạn lao động, tai nạn sinh hoạt), vị trí
răng khôn hàm dưới và vùng gãy xương.
Kết quả: Sự hiện diện răng khôn mọc lệch có nguy cơ gãy góc hàm cao gấp 2,06 lần so với người không có
răng khôn. Trong khi đó sự hiện diện răng khôn mọc lệch làm giảm nguy cơ gãy lồi cầu 0,81 lần nhưng sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu cũng cho thấy mối liên quan giữa nguyên nhân chấn thương với tình
trạng gãy xương hàm dưới.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của răng khôn mọc lệch làm tăng nguy cơ gãy góc hàm. Trong
khi đó nhóm có răng khôn mọc lệch có nguy cơ gãy lồi cầu ít hơn nhưng sư khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Từ khóa: Răng khôn hàm dưới mọc lệch, gãy góc hàm, gãy lồi cầu.
ABSTRACT
RELATIONSHIP BETWEEN IMPACTED LOWER THIRD MOLARS AND MANDIBLE ANGLE AND
CONDYLE FRACTURES
Tran Dang Minh, Nguyen Thi Bich Ly
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 261 - 266
Objective: The purpose of this study was to evaluate to relationship between impacted mandibular third
molars and the risk of mandibular angle fractures and condyle fractures.
Study design: This retrospective study reviews data from 546 patients attending the Division of Oral and
Maxillofacial Surgery from December 2011 till October 2013, all presented for treatment of mandible fractures.
Data collected included age, sex, injury cause (motor vehicle accident, assault, industrial accident, others),
position of mandibular third molars and fracture sites. Diagnosis of fracture sites was made by clinical
examination and panoramic radiograph.
Results: The incidence of mandibular angle fracture was significantly greater on sides with an impact third
molar, whereas the condylar fracture rate decreased in mandibles lacking a third molar but the rate was not
statistically significant different between groups. The risk of angle fracture was much more affected by impacted
mandibular third molar than that of condylar fracture, when injury causes were taken into consideration.
Conclusions: This study provides evidence to suggest that mandibular angle fractures are influenced by the
presence of impacted third molar but not observe any significant difference between the position of mandibular
*BS-Học viên Cao học khóa 2012-2014- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
** Bộ môn Phẫu thuật miệng-Khoa RHM, ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Đăng Minh ĐT: 0982295579 Email: dangminh_dds@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 262
third molars and the risk of condyle fractures.
Key words: impacted mandibular third molars, angle fractures, condyle fractures.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, gãy xương hàm dưới chiếm tỉ
lệ khoảng 43%(2) trong các trường hợp gãy xương
vùng hàm mặt do chấn thương mặc dù đây là
xương chắc và khỏe nhất. Điều này được giải
thích một phần là do vị trí đưa ra trước của
xương hàm dưới nên dễ tiếp xúc với lực nguy cơ
khi gặp chấn thương. Vị trí gãy xương hàm dưới
tùy thuộc vào nhiều yếu tố như vị trí lực tác
động trên xương, hướng và cường độ của lực,
cấu trúc mô mềm bao phủ, các đặc điểm sinh cơ
học của cấu trúc hàm dưới như mật độ và khối
lượng xương, trong đó những điểm yếu dễ gãy
là cằm, góc hàm, lỗ cằm, lồi cầu. Năm 1964,
Huelke(3) đã báo cáo rằng có mối liên quan đáng
kể giữa vị trí gãy xương và vùng có răng. Trong
một nghiên cứu thực nghiệm trên khỉ của Reitzik
cho thấy rằng chỉ cần lực khoảng 60% lực làm
gãy hàm dưới có răng khôn mọc hoàn toàn cũng
đủ làm gãy hàm dưới có răng khôn lệch(10). Nguy
cơ gãy góc hàm gia tăng từ 2-3 lần ở nhóm có
răng khôn mọc lệch so với nhóm răng khôn bình
thường. Mức độ lệch của răng khôn cũng là yếu
tố ảnh hưởng đến tỉ lệ gãy vùng góc hàm. Bên
cạnh đó, kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy ở
những đối tượng có răng khôn hàm dưới mọc
lệch thì tỉ lệ gãy cổ lồi cầu giảm đi rõ rệt. Theo
mô hình sinh cơ học ngày nay, người ta giả
thuyết rằng răng khôn hàm dưới tạo nên điểm
yếu tại vùng góc hàm do làm giảm khối lượng
xương, làm cho góc hàm dễ gãy hơn(6). Điểm yếu
này sẽ làm giảm nguy cơ gãy lồi cầu. Vì thế
chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu này
với các mục tiêu:
- Mô tả các đặc điểm dịch tễ học của những
bệnh nhân gãy xương hàm dưới điều trị tại Răng
Hàm Mặt Trung ương TPHCM từ tháng 12/2011
đến tháng 10/2013.
- Đánh giá mối liên quan giữa sự hiện diện
của răng khôn hàm dưới đến tỉ lệ gãy góc hàm
và lồi cầu xương hàm dưới.
- Đánh giá mối liên quan giữa vị trí răng
khôn hàm dưới đến tỉ lệ gãy góc hàm và lồi cầu
xương hàm dưới.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng
Đối tượng nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 546 hình ảnh toàn
cảnh và hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân được
chẩn đoán gãy xương hàm dưới được điều trị
nội trú tại khoa Phẫu thuật hàm mặt, Bệnh viện
Răng Hàm Mặt Trung ương TPHCM từ tháng
12/2011 đến tháng 10/2013.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân được chẩn đoán gãy xương hàm
dưới do chấn thương.
Bệnh nhân từ 17 tuổi trở lên.
Hồ sơ được chọn phải thỏa các điều kiện sau:
+ Có đầy đủ thông tin cá nhân có giá trị
gồm: tên họ, giới tính, ngày tháng năm sinh,
ngày chụp phim, nguyên nhân chấn thương.
+ Hình ảnh toàn cảnh kĩ thuật số phải có giá
trị khảo sát và có độ tương phản rõ nét, không
ảnh hưởng đến việc quan sát các chi tiết trên
phim.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân gãy xương hàm dưới do bệnh lý
u, nang xương hàm dưới.
Bệnh nhân có gãy kết hợp xương hàm trên.
Bệnh nhân có hồ sơ không đầy đủ.
Bệnh nhân mất răng toàn bộ.
Các bước tiến hành:
Huấn luyện và định chuẩn trước nghiên cứu.
Chọn lựa bệnh án
Thu thập dữ liệu từ hồ sơ bệnh nhân bao
gồm phần hành chính: họ tên, giới tính, nghề
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 263
nghiệp; nguyên nhân gây chấn thương, chẩn
đoán vị trí gãy xương
Thu thập dữ liệu trên hình ảnh toàn cảnh:
+ Tình trạng gãy xương: ghi nhận số đường
gãy, vị trí gãy xương hàm dưới.
+ Tình trạng răng khôn hàm dưới: ghi
nhận sự hiện diện răng khôn hàm dưới của
bệnh nhân. Ở những trường hợp bệnh nhân có
răng khôn, xác định vị trí của răng khôn theo
chiều ngang tương quan với cành đứng xương
hàm dưới (Phân loại I, II, III) và theo chiều dọc
so với mặt nhai răng cối lớn thứ hai (Phân loại
A, B, C) theo phân loại của Pell và Gregory.
Độ nghiêng của răng khôn được phân loại
theo Shiller, dựa vào góc mọc của răng khôn.
Đó là góc tạo bởi mặt phẳng nhai của răng
khôn và mặt phẳng nhai RCL thứ hai. Răng
khôn được phân thành các loại: răng khôn
mọc thẳng (-100 đến 100), nghiêng gần (110 đến
700), nghiêng xa (góc lớn hơn 700 hay nhỏ hơn -
700), nằm ngang (-110 đến -700).
Răng khôn ở mỗi phần hàm phải và trái
được chia làm ba nhóm:
+ Nhóm 1: Bệnh nhân không có răng khôn.
+ Nhóm 2: Bệnh nhân có răng khôn mọc
thẳng: răng có phân loại IA và có độ nghiêng -100
đến 100.
+ Nhóm 3: Bệnh nhân có răng khôn mọc
lệch: răng thuộc các phân loại còn lại.
Phân tích số liệu
Dữ liệu thu thập được mã hóa và phân tích
bởi phần mềm thống kê SPSS phiên bản 16.0
Thống kê mô tả: Tính các giá trị trung bình,
phần trăm về số liệu tổng quát của nghiên cứu
Thống kê phân tích:
+ Bước 1: Phân tích đơn biến để xác định
các yếu tố liên quan. Kiểm định mối liên quan
bằng phép kiểm chi bình phương (2). Nếu giá
trị p<0,05 thì xác định có mối liên quan. Giá trị
RR được đo lường để đánh giá mức độ liên
quan. Trường hợp không có sự tương đồng giữa
giá trị p và khoảng tin cậy 95% (giá trị p<0,05
nhưng khoảng tin cậy chứa giá trị trung tính) thì
sẽ dùng test-based để xác định chính xác khoảng
giá trị của khoảng tin cậy 95%.
+ Bước 2: Phân tích đa biến với hồi quy
tuyến tính để xác định mối liên quan độc lập đến
gãy góc hàm, lồi cầu (những biến số trong phân
tích đơn biến liên quan có ý nghĩa thống kê hoặc
có giá trị p<0,2 được đưa vào mô hình đa biến).
Trị số của phép kiểm 2 chọn theo giá trị của chỉ
số thống kê Z.
Phép kiểm trên đều được sử dụng với độ tin
cậy 95% và được kết luận dựa vào giá trị p:
- Nếu p < 0,05: sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê.
- Nếu p > 0,05: sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Bảng 1: Mối liên quan giữa sự hiện diện răng khôn
hàm dưới và nguy cơ gãy góc hàm (phân tích đa biến)
Các yếu tố RR(KTC 95%) p
Nhóm tuổi
≤20 1
21-30 0,95(0,69-1,33) 0,80
31-40 0,82(0,54-1,24) 0,35
41-60 0,90(0,54-1,50) 0,70
>60 0,78(0,18-3,31) 0,74
Răng khôn
Có
1,54 (1,11-2,14) 0,009
Không có
Không có 1
Mọc thẳng 1,07(0,71-1,63) 0,73
Mọc lệch 2,06(1,41-3,03) <0,001
Nguyên
nhân chấn
thương
Giao thông 1
Đả thương 2,38(1,68-3,38) <0,001
Sinh hoạt 1,84(1,06-3,21) 0,03
Lao động 1,68(0,62-4,55) 0,31
Những người có răng khôn mọc thẳng tuy có
khả năng gãy góc hàm cao gấp 1,07 (KTC 95%:
0,71-1,63) lần so với người không có răng khôn,
tuy vậy sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). Tuy vậy, so với những người không có
răng khôn, thì những người có răng khôn mọc lệch có
nguy cơ gãy góc hàm cao gấp 2,06 (KTC 95%: 1,41-
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 264
3,03) lần và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p<0,05).
Bảng 2: Mối liên quan giữa sự hiện diện răng khôn
hàm dưới và nguy cơ gãy lồi cầu
Các yếu tố
Gãy lồi cầu
[Tần số(tỉ lệ%)]
RR (KTC
95%)
p
Có Không
Nhóm
tuổi
≤20 45(21,2) 167(78,8) 1
21-30 96(19,1) 406(80,9)
0,90 (0,66-
1,23)
0,52
31-40 38(16,9) 186(83,0)
0,80(0,54-
1,17)
0,26
41-60 32(22,5) 110(77,5)
1,06(0,71-
1,58)
0,77
>60 5(41,7) 7(58,3)
1,96(0,96-
4,02)
0,06
Giới tính
Nam 186(19,9) 750(80,1) 1,03(0,73-
1,46)
0,85
Nữ 30(19,2) 126(80,8)
Răng
khôn
Có 160(19,5) 660(80,5)
0,95(0,72-
1,24)
0,70 Không
có
56(20,6) 216(79,4)
Không
có
56(20,6) 216(79,4) 1
Mọc
thẳng
82(22,3) 285(77,7)
1,07(0,79-
1,44)
0,66
Mọc lệch 77 (17,0) 375 (83,0)
0,81(0,59-
1,10)
0,20
Nguyên
nhân
chấn
thương
Giao
thông
195(20,5) 755(79,5) 1
Đả
thương
7(7,9) 81(92,1)
0,38(0,19-
0,79)
0,01
Sinh
hoạt
11(27,5) 29(72,5)
1,33(0,79-
2,25)
0,27
Lao
động
3(21,4) 11(78,6)
1,04(0,38-
2,67)
0,93
Người có răng khôn có nguy cơ gãy lồi cầu
0,95 lần so với người không có răng khôn nhưng
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Tương tự, sự khác biệt về nguy cơ gãy lồi cầu
giữa những người không có răng khôn, có răng
khôn mọc thẳng, có răng khôn mọc lệch không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3: Mối liên quan giữa vị trí răng khôn hàm
dưới và nguy cơ gãy góc hàm
Vị trí răng khôn
Gãy góc hàm RR(KTC
95%)
p
Có Không
Ngang
I 109(21,2)
405
(78,8)
1
II 80(27,5)
211
(72,5)
1,29 (1,01-
1,66)
0,04
III 11(73,3) 4(26,7)
3,45(2,44-
4,89)
<0,001
Dọc
A 121(21,6)
440(78,
4)
1
B 71(33,5)
141(66,
5)
1,55(1,21-
1,98)
<0,001
C 8(17,0)
39
(83,0)
0,79 (0,41-
1,51)
0,47
Độ
nghiêng
Thẳng 76(17,2)
367
(82,8)
1
Nghiêng
gần
87(35,1)
161
(64,9)
2,04 (1,57-
2,67)
<0,001
Ngang 27(29,7)
64
(70,3)
1,72 (1,18-
2,52)
0,004
Nghiêng
xa
10(26,3)
28
(73,7)
1,53 (0,87-
2,71)
0,14
Người có răng khôn loại III có nguy cơ gãy
góc hàm cao hơn đáng kể 3,45 lần (KTC 95%:
2,44-4,89), trong khi đó người có răng khôn loại
II có nguy cơ gãy góc hàm cao hơn 1,29 lần (KTC
95%: 1,01-1,66) so với người có răng khôn loại I.
Bảng 4: Mối liên quan giữa vị trí răng khôn hàm
dưới và nguy cơ gãy lồi cầu
Vị trí răng khôn
Gãy lồi cầu RR(KTC
95%)
p
Có Không
Ngang
I 104(20,2) 410(79,8) 1
II 55(18,9) 236(81,1)
0,93(0,69-
2,15)
0,65
III 1(6,7) 14(93,3)
0,33(0,04-
2,20)
0,25
Dọc
A 115(20,5) 446(79,5) 1
B 38(17,9) 174(82,1)
0,87(0,63-
1,22)
0,42
C 7(14,9) 40(85,1)
0,73(0,36-
1,46)
0,36
Độ
nghiêng
Thẳng 104(23,5) 339(76,5) 1
Nghiêng
gần
40(16,1) 208(83,9)
0,68(0,49-
0,95)
0,03
Ngang 13(14,3) 78(85,7)
0,61(0,37-
1,03)
0,07
Nghiêng
xa
3(7,9) 35(92,1)
0,34(0,11-
1,00)
0,06
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
nguy cơ gãy lồi cầu với các vị trí răng khôn
tương quan theo chiều ngang với cành đứng và
tương quan theo chiều dọc với răng cối lớn thứ
hai. Về độ nghiêng, răng khôn nghiêng gần có
nguy cơ gãy lồi cầu 0,68 lần (KTC 95%: 0,49-0,95)
so với răng khôn mọc thẳng, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 265
BÀN LUẬN
Mối liên quan giữa sự hiện diện và vị trí
của răng khôn hàm dưới và nguy cơ gãy
góc hàm
Răng khôn hàm dưới là răng xuất hiện sau
cùng trên cung hàm, cũng là răng mọc lệch,
ngầm nhiều hơn bất kỳ răng nào khác. Khi răng
khôn lệch, ngầm có thể gây ra nhiều biến chứng
như viêm quanh thân răng, viêm mô tế bào,
nang, sâu chân răng kế cận, viêm mô nha chu,
chen chúc muộn ảnh hưởng đến kết quả điều trị
chỉnh hình. Kết quả trong nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy răng khôn mọc lệch có nguy cơ gãy
góc hàm gấp 2,06 lần (KTC 95%: 1,41-3,03) so với
không có răng khôn và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê, trong khi đó nguy cơ gãy góc
hàm khi có răng khôn mọc thẳng gần tương
đương với không có răng khôn và sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê. Như vậy có thể thấy
nguy cơ gãy góc hàm ở nhóm có răng khôn mọc
lệch cũng tương tự so với nhóm răng khôn mọc
thẳng. Phát hiện này phù hợp với các nghiên cứu
của các tác giả trên thế giới, trong đó nguy cơ
tương đối dao động trong khoảng từ 1,2 đến 3,8.
Nghiên cứu của Huelke(3) đã báo cáo rằng các
đường gãy xảy ra thường xuyên hơn ở những
vùng còn răng hơn những vùng mất răng xương
hàm dưới.
Khi phân tích các đặc điểm về độ nghiêng
của răng khôn, chúng tôi nhận thấy rằng vị trí
lệch gần vừa là vị trí phổ biến nhất vừa có liên
quan cao đến nguy cơ gãy góc hàm. Nguy cơ gãy
góc hàm khi răng khôn nghiêng gần là 2,04 (KTC
95%: 1,57-2,67), răng khôn nghiêng xa là 1,72 lần
(KTC 95%: 1,18-2,52) so với răng khôn thẳng
đứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Giải
thích cho điều này, chúng tôi nghĩ rằng do chân
răng khôn trong nhóm răng nghiêng gần và nằm
ngang hướng trực tiếp về góc hàm nên có thể
đóng vai trò như một chêm tách góc hàm xương
hàm dưới và tạo điểm yếu tại đây, vì thế lực gây
chấn thương được chuyển tới cành đứng và góc
hàm xương hàm dưới.
Nghiên cứu của Tevepaugh và Dodson(11);
Meisami(8) đã khuyến khích nhổ răng khôn để
dự phòng nhằm ngăn chặn nguy cơ gãy góc
hàm, đặc biệt là ở những vận động viên chơi
thể thao trẻ tuổi. . Việc nhổ răng khôn hàm
dưới mọc lệch có thể làm tăng hoặc không
tăng sức đề kháng của xương hàm dưới vùng
góc hàm. Nếu góc hàm xương hàm dưới có thể
đề kháng hơn với gãy xương dưới một lực
chấn thương, vậy khi lực này tác dụng lên,
xương hàm dưới có bị gãy không? Có thể các
chấn thương này sẽ tạo ra đường gãy ở một vị
trí khác trên xương hàm dưới(7).
Mối liên quan giữa sự hiện diện và vị trí
của răng khôn hàm dưới và nguy cơ gãy lồi
cầu
Khi so sánh với nhóm không có răng khôn,
nhóm có răng khôn mọc lệch có nguy cơ gãy lồi
cầu ít hơn 0,81 (KTC 95%: 0,59-1,10) lần nhưng
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,2).
Kết quả này tương tự với một số nghiên cứu trên
thế giới(1,4,9,12) nhưng chưa đủ để kết luận về vai
trò của răng khôn mọc lệch đối với các trường
hợp gãy lồi cầu.
Nếu xét chung về vị trí răng khôn, chúng tôi
thấy rằng xương hàm dưới có răng khôn theo
phân loại IA có nguy cơ tương đối bị gãy lồi cầu
cao nhất. Kết quả này ủng hộ giả thuyết rằng sự
hiện diện của răng khôn hàm dưới mọc thẳng
làm nguy cơ gãy lồi cầu tăng lên. Điều này phù
hợp với nghiên cứu của Duan(1), Zhu(12) và Iida.
Có thể giải thích các phát hiện này là do việc
giảm hấp thu lực của góc hàm. Theo Kober(5),
kháng lực của góc hàm dưới gia tăng khi răng
khôn đã mọc hoặc không có răng khôn; điều này
đưa đến lực được truyền tới một vùng dễ gãy
hơn, đó là lồi cầu.
KẾT LUẬN
Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy có sự liên
quan giữa răng khôn hàm dưới và gãy góc hàm.
Người có răng khôn mọc lệch có nguy cơ gãy lồi
cầu ít hơn nhưng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Nghiên cứu chỉ ghi nhận yếu tố nguy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 266
cơ mà chưa nhằm so sánh về mức độ trầm trọng
trong gãy góc hàm và lồi cầu để đưa ra khuyến
cáo chính xác về việc nhổ răng khôn mọc lệch.
Do đó chúng tôi đề nghị những nghiên
cứu kế tiếp cần mở rộng thực hiện trên đa
trung tâm với số lượng mẫu lớn hơn, đồng
thời các nghiên cứu sinh cơ học trong tương
lai sẽ là cần thiết để làm rõ thêm nguy cơ gãy
góc hàm phụ thuộc vào các mức độ lệch khác
nhau và hướng của lực tác dụng bên cạnh
răng khôn hàm dưới mọc lệch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Duan DH., Zhang Y. (2008), "Does the presence of mandibular
third molars increase the risk of angle fracture and
simultaneously decrease the risk of condylar fracture?", Int J
Oral Maxillofac Surg, 37(1), pp.25-8.
2. Hồ Nguyễn Thanh Chơn, Lâm Hoài Phương (2010), "Đánh
giá hiệu quả điều trị gãy xương hàm dưới bằng hệ thống nẹp-
vít nén", Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học, tr.180-185.
3. Huelke D. F. (1964), "Location of mandibular fractures related
to teeth and edentulous regions", J Oral Surg Anesth Hosp Dent
Serv, 22, pp.396-405.
4. Iida S., Nomura K., Okura M., Kogo M. (2004), "Influence of
the incompletely erupted lower third molar on mandibular
angle and condylar fractures", J Trauma, 57(3), pp.613-7.
5. Kober C, Sader R, Thiele H, Bauer HJ, Zeilhofer HF,
Hoffmann KH, Horch HH (2001), "[Stress analysis of the
human mandible in standard trauma situations with
numerical simulation]", Mund Kiefer Gesichtschir, 5(2), pp.114-
9.
6. Lee JT, Dodson TB (2000), "The effect of mandibular third
molar presence and position on the risk of an angle fracture", J
Oral Maxillofac Surg, 58(4), pp.394-8; discussion 399.
7. Mechan JG (2000), "The effect of mandibular third molar
presence and position on the risk of an angle fracture", Journal
of Oral and Maxillofacial Surgery, 58(4), pp.399.
8. Meisami T, Sojat A, Sandor GK, Lawrence HP, Clokie CM
(2002), "Impacted third molars and risk of angle fracture",
International Journal of Oral and Maxillofacial Surgery, 31(2),
pp.140-4.
9. Patil PM (2012), "Unerupted lower third molars and their
influence on fractures of the mandibular angle and condyle",
Br J Oral Maxillofac Surg, 50(5), pp.443-6.
10. Reitzik M, Lownie JF, Cleaton-jones P, Austin J (1978),
"Experimental fractures of monkey mandibles", International
Journal of Oral Surgery, 7(2), pp.100-3.
11. Tevepaugh DB, Dodson TB (1995), "Are mandibular third
molars a risk factor for angle fractures? A retrospective cohort
study", J Oral Maxillofac Surg, 53(6), pp.646-9; discussion 649-
50.
12. Zhu SJ, Choi BH, Kim HJ, Park WS, Huh JY, Jung JH, Kim BY,
Lee SH (2005), "Relationship between the presence of
unerupted mandibular third molars and fractures of the
mandibular condyle", Int J Oral Maxillofac Surg, 34(4), pp.382-
5.
Ngày nhận bài báo: 30/01/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2015
Người phản biện: PGS-TS Nguyễn Thị Hồng
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lien_quan_giua_rang_khon_ham_duoi_moc_lech_voi_gay_goc_ham_v.pdf