Trên thế giới, hiện tượng lưỡng hình giới
tính gặp ở một số nhóm loài sinh vật biển
như thú biển (Rall & Mesnick, 2002), giáp
xác (Ozawa, 2013), thân mềm (Pastorino,
2007), giun nhiều tơ (Orensky & Williams,
2009) Ở động vật da gai, hiện tượng này
không phổ biến, chỉ có 4 loài đuôi rắn
Ophiuroidea được xác định có sự lưỡng
hình giới tính rõ ràng là: Ophiodaphne
scripta (Koehler, 1904), O. formata
(Koehler, 1905), Ophiosphaera insignis
Brock, 1888 và Astrochlamys bruneus
Koehler, 1912. Đối với những loài trên, con
đực có kích thước nhỏ, sống bám vào mặt
bụng đĩa thân của con cái, ngoại trừ loài A.
bruneus – con đực bám vào lưng con cái.
Ngoài ra, loài Amphipholis linopneusti
Stohr, 2001 mới được phát hiện gần đây
cũng có sự lưỡng hình giới tính nhưng sự
chênh lệch về kích thước giữa con đực và
con cái không rõ ràng (Parameswaran &
cs., 2013).
Vị trí phân loại của loài là vấn đề gây
tranh cãi trong suốt một thời gian dài giữa
các nhà khoa học. Theo Clark (1980), cấu
trúc hàm ở đuôi rắn mang tính đặc trưng và54
là căn cứ cơ bản để phân biệt giữa hầu hết
các họ. Ở những loài lưỡng hình giới tính
và có hiện tượng con đực bám vào miệng
con cái như Ophiosphaera, Ophiodaphne
thì hàm của chúng được cho là có những
biến đổi đáng kể để phù hợp với lối sống
đặc biệt trên. Ban đầu, Brock (1888) xếp
vào họ Ophiotrichidae, tiếp theo đó,
Koehler (1930) xếp vào họ Amphiuridae,
Clark & Rowe (1971) xếp vào họ
Ophiactidae do một số đặc điểm giống
Ophiodaphne (lúc này, Ophiodaphne thuộc
họ Ophiactidae, nay chuyển sang họ
Amphiuridae), Cherbonnier & Guille
(1978) xếp vào họ Ophiocomidae. Hiện
nay, giống Ophiosphaera (Chỉ có 1 loài duy
nhất là O. insignis) được xếp vào họ
Amphiuridae (Stohr, 2015)
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 908 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Loài đuôi rắn ophiosphaera insignis brock, 1888 (lớp đuôi rắn – ngành da gai) mới ghi nhận ở vùng biển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 1: 50-55
LOÀI ĐUÔI RẮN OPHIOSPHAERA INSIGNIS BROCK, 1888
(LỚP ĐUÔI RẮN – NGÀNH DA GAI) MỚI GHI NHẬN Ở VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Nguyễn Thị Mỹ Ngân, Bùi Quang Nghị
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt Trong chuyến thu mẫu động vật da gai tại vịnh Nha Trang vào năm 2012,
loài đuôi rắn có hiện tượng lưỡng hình giới tính Ophiosphaera insignis
Brock, 1888 (thuộc lớp đuôi rắn) được ghi nhận là lần đầu tiên phát hiện ở
vùng biển Việt Nam. Điểm khác biệt của loài này là cá thể đực có kích thước
nhỏ hơn nhiều và sống bám vào miệng cá thể cái.
Báo cáo này mô tả hình thái loài (con đực và cái) thể hiện đặc điểm thích
nghi với lối sống khác biệt của loài; một số loài động vật khác có hiện tượng
lưỡng hình giới tính cũng được giới thiệu trong bài báo. Mẫu vật này hiện
được lưu trữ tại Bảo tàng Hải dương học.
NEW RECORD OF THE OPHUROID OPHIOSPHAERA INSIGNIS BROCK, 1888
(OPHIUROIDEA – ECHINODERMATA) IN VIETNAMESE SEAWATERS
Nguyen Thi My Ngan, Bui Quang Nghi
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology
Abstract During the survey to collect marine animals in Nha Trang bay in 2012, the
sexually dimorphic ophiuroid Ophiosphaera insignis Brock, 1888 (class
Ophiuroidea) was first recorded in Vietnamese seawaters. The special
characteristic of this species was the male much smaller than the female and
living attaching to the mouth of the female.
This paper provided a description in details on morphology of the species
(both male and female) with the adaptation for their unusual life style, some
other animals with sexual dimorphism were also mentioned. The specimens
were reserved at Museum of Oceanography.
I. MỞ ĐẦU
Các loài đuôi rắn (lớp Ophiuroidea) thuộc 1
trong 5 lớp của ngành động vật da gai
(Echinodermata), trong đó lớp đuôi rắn có
thành phần loài nhiều nhất ở vùng biển Việt
Nam. Qua kết quả của các chuyến điều tra
về sinh vật đáy nói chung và động vật da
gai nói riêng của nhiều tác giả trước đây, đã
góp phần bổ sung thành phần loài của nhiều
ngành, lớp. Đáng kể là các công trình của
các tác giả như Serene (1937), Dawydoff
(1952), Trần Ngọc Lợi (1967), Nguyễn Văn
Chung và cs. (1978a, b, 1980, 1991),
Nguyễn Văn Chung và cs., 1985 (Báo cáo
khoa học đề tài 48.06.08 91981-1985)
Gần đây, các báo cáo của các tác giả như
Đào Tấn Hỗ (2002, 2005, 2006), Đào Tấn
Hỗ & Nguyễn Thị Hồng Thắm (2007). Đào
Tấn Hỗ và cs. (2009), Nguyễn Thị Mỹ
51
Ngân & Đào Tấn Hỗ (2013) cũng đã góp
phần bổ sung một số loài mới cho thành
phần loài động vật da gai ở biển Việt Nam.
Ngoài việc bổ sung loài mới vào danh
mục thành phần loài, phần lớn những mẫu
vật này còn được lưu giữ ở Bảo tàng Hải
dương học (tại Nha Trang), góp phần làm
cho bộ mẫu nơi đây ngày càng thêm phong
phú. Trước đây, bộ mẫu sinh vật biển nơi
này được các nhà khoa học trong và ngoài
nước đánh giá là rất quý và có giá trị khá
cao về khoa học và lịch sử.
Bài báo này nhằm giới thiệu loài đuôi
rắn Ophiosphaera insignis Brock, 1888
được ghi nhận là lần đầu tiên phát hiện ở
biển Việt Nam, sau khi đối chiếu với các tài
liệu đã công bố trước đây. Báo cáo đã mô tả
hiện tượng lưỡng hình giới tính của loài
này, mẫu vật cũng được bảo quản và bổ
sung cho Bảo tàng Hải dương học.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mẫu vật thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Hải
dương học, gồm 2 cá thể cái và 1 cá thể đực
bám vào miệng cá thể cái. Mẫu được thu
cùng nhum sọ Tripneustes gratilla do ngư
dân lặn bắt và tập kết tại điểm lên cá ở Bãi
Tiên, Nha Trang ngày 26/4/2012. Tại thời
điểm thu, đuôi rắn tách rời, không bám trên
nhum sọ.
Mẫu được cố định và bảo quản bằng cồn
70% theo phương pháp của Mooi R. (trong
Rigby & cs., 2007).
Xác định tên loài theo khóa phân loại
của Clark & Rowe, 1971 và tài liệu của
Guille & cs., 1986.
III. KẾT QUẢ
1. Vị trí phân loại
Phylum Echinodermata
Class Ophiuroidea
Family Amphiuridae
Genus Ophiosphaera Brock, 1888
Species Ophiosphaera insignis Brock, 1888
Synnonym: không
2. Đặc điểm hình thái
2.1. Cá thể cái:
Đường kính đĩa thân cá thể cái từ 5 - 6 cm,
tay dài gấp 2 - 2,5 lần đĩa thân. Mặt lưng
đĩa không phẳng mà phồng lên dạng nửa
bán cầu thấp (Hình 1a). Vẩy đĩa và phần
miệng được che phủ bằng một lớp da có lớp
sắc tố đen dạng hạt. Sau một thời gian
ngâm trong cồn, màu sắc nhạt dần, có thể
thấy rõ vẩy lưng và các hạt sắc tố. Thuẫn
xuyên tâm hình chữ D (Hình 1d), chiều dài
nhỏ hơn ½ bán kính đĩa thân và dính liền
nhau suốt chiều dài thuẫn. Vẩy nhỏ và đều,
không phân biệt vẩy nguyên thủy. Mặt
bụng cũng mang vẩy và các đặc điểm tương
tự như mặt lưng đĩa.
Hàm hẹp, răng ở đỉnh hàm dạng gai nhỏ,
gồm 1 chùm, răng bên cũng có dạng gai
nhỏ nhưng chỉ có 1 chiếc đơn lẻ (Hình 1c).
Tấm xương tay ở mặt lưng hình quạt,
mép ngoài tròn. Tấm xương tay mặt bụng
hẹp, cạnh ngoài tròn. Gai tay gồm 7 chiếc,
hình trụ tròn, chiếc trên cùng ngắn nhất
(Hình 1f).
Lỗ xúc tu rõ, nhưng không có vẩy xúc
tu.
Lớp da mang sắc tố đen, răng và gai tay
là những đặc điểm quan trọng để xác định
loài (Clark & Rowe, 1971; Guille & cs.,
1986).
2.2. Cá thể đực:
Đĩa thân tròn, màu sáng, hơi đậm dần ở các
tay, đường kính đĩa thân khoảng 1,5 mm
(Hình 2a), tay dài gấp 1,5-2 lần đĩa thân.
Trên mặt lưng của đĩa thân có thể thấy rõ
những tấm vẩy to, vẩy nguyên thủy rõ.
Thuẫn xuyên tâm nhỏ, khoảng ½ bán kính
đĩa thân và dính nhau suốt chiều dài. Mặt
52
bụng phủ vẩy kích thước lớn tương tự như
mặt lưng. Hàm kín. Tấm xương tay ở mặt
lưng hình ngũ giác, không có vẩy xúc tu.
Gai tay gồm 3 chiếc, một số biến đổi thành
dạng móc.
a
b
c
d
e
f
Hình 1. Ophiosphaera insignis cái, tỉ lệ: 2 mm. a. Mặt lưng; b. Mặt bụng, cá thể đực nhỏ, bám vào
miệng; c. Hàm, T: gai răng, PA: gai miệng; d. RD: thuẫn xuyên tâm, DP: tấm xương tay mặt lưng,
AS: gai tay; e. Tay (mặt lưng); f. Tay (mặt bụng): VA: tấm xương tay mặt bụng, TP: lỗ xúc tu
Fig. 1. Ophiosphaera insignis cái, scale: 2 mm. a. Dorsal view; b. Ventral view,
the male small and white, attached to the mouth; c. Jaw, T: Teeth, PA: Oral papillae;
d. RD: Radial sheild, DP: Dorsal arm plate, AS: arm spine; e. Arm (dorsal view);
f. Arm (ventral view): VA: Ventral arm plate, TP: tentacle pore
53
a
b
Hình 2. Ophiosphaera insignis đực. a. Mặt lưng, tỉ lệ: 1 mm. b. Mặt bụng
Fig. 2. Ophiosphaera insignis đực. a. Dorsal view, scale: 1 mm. b. Ventral view
3. Hiện tượng lưỡng hình giới tính
Đĩa thân cá thể cái có đường kính lớn gấp 3
lần cá thể đực khác. Giữa chúng còn có sự
khác biệt lớn về vẩy đĩa: ở cá thể cái, vẩy
đĩa nhiều, trong khi vẩy đĩa cá thể đực ít,
nhưng to và rõ; số lượng, hình dạng gai tay:
cá thể cái mang 7 gai tay to hình dạng đặc
trưng như mô tả, trong khi cá thể đực mang
3 gai tay nhỏ; cấu trúc hàm: cá thể cái có
răng dạng chùm, hàm hở, nhưng ở cá thể
đực hàm kín, răng không có dạng chùm.
4. Hình thức sống
O. insignis được biết sống trên nhum đen
Diadema setosum. Chúng bám gần miệng
nhum để trú ẩn và thuận lợi cho việc
tìm thức ăn (
com/wildfacts/echinodermata/ophiuroidea/
ophiuroidea.htm). Trong trường hợp mẫu
vật ở báo cáo này, 2 mẫu đuôi rắn được thu
cùng nhum sọ T. gratilla, khi tìm thấy,
chúng đã tách rời khỏi nhum, nhưng rất có
thể nhum sọ T. gratilla cũng là một vật chủ
của loài đuôi rắn trên.
5. Phân bố
Khu vực phân bố ở vùng biển nhiệt đới
nhưng không liên tục: Tây Ấn Độ Dương:
Nosy Bé, Madagascar và Zanzibar (Clark,
1980); Philippine, Đông Phi (Rowe & Gate,
1995) - ở độ sâu đến 110 m, vịnh Thái Lan
(Lane & cs., 2000) – độ sâu 18-245 m.
IV. THẢO LUẬN
Trên thế giới, hiện tượng lưỡng hình giới
tính gặp ở một số nhóm loài sinh vật biển
như thú biển (Rall & Mesnick, 2002), giáp
xác (Ozawa, 2013), thân mềm (Pastorino,
2007), giun nhiều tơ (Orensky & Williams,
2009) Ở động vật da gai, hiện tượng này
không phổ biến, chỉ có 4 loài đuôi rắn
Ophiuroidea được xác định có sự lưỡng
hình giới tính rõ ràng là: Ophiodaphne
scripta (Koehler, 1904), O. formata
(Koehler, 1905), Ophiosphaera insignis
Brock, 1888 và Astrochlamys bruneus
Koehler, 1912. Đối với những loài trên, con
đực có kích thước nhỏ, sống bám vào mặt
bụng đĩa thân của con cái, ngoại trừ loài A.
bruneus – con đực bám vào lưng con cái.
Ngoài ra, loài Amphipholis linopneusti
Stohr, 2001 mới được phát hiện gần đây
cũng có sự lưỡng hình giới tính nhưng sự
chênh lệch về kích thước giữa con đực và
con cái không rõ ràng (Parameswaran &
cs., 2013).
Vị trí phân loại của loài là vấn đề gây
tranh cãi trong suốt một thời gian dài giữa
các nhà khoa học. Theo Clark (1980), cấu
trúc hàm ở đuôi rắn mang tính đặc trưng và
54
là căn cứ cơ bản để phân biệt giữa hầu hết
các họ. Ở những loài lưỡng hình giới tính
và có hiện tượng con đực bám vào miệng
con cái như Ophiosphaera, Ophiodaphne
thì hàm của chúng được cho là có những
biến đổi đáng kể để phù hợp với lối sống
đặc biệt trên. Ban đầu, Brock (1888) xếp
vào họ Ophiotrichidae, tiếp theo đó,
Koehler (1930) xếp vào họ Amphiuridae,
Clark & Rowe (1971) xếp vào họ
Ophiactidae do một số đặc điểm giống
Ophiodaphne (lúc này, Ophiodaphne thuộc
họ Ophiactidae, nay chuyển sang họ
Amphiuridae), Cherbonnier & Guille
(1978) xếp vào họ Ophiocomidae. Hiện
nay, giống Ophiosphaera (Chỉ có 1 loài duy
nhất là O. insignis) được xếp vào họ
Amphiuridae (Stohr, 2015).
Lời cảm ơn. Báo cáo này là một phần kết
quả của Đề tài cấp cơ sở năm 2012 do Viện
Hải dương học cấp kinh phí. Chúng tôi xin
cảm ơn TS. Nguyễn Ngọc Lâm đã hỗ trợ xử
lý hình ảnh cho báo cáo và các đồng nghiệp
ở Bảo tàng giúp chúng tôi hoàn thành bài
báo trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Brock J., 1888. Die Ophiuridenfauna des
indischen Archipels. Zeitschrift für
Wissenschaftliche Zoologie, 47: 465 -
539.
Cherbonnier G. & A. Guille, 1978.
Echinodermes: Ophiurides. Faune de
Madagascar. No 48: iv +272 pp.
Clark A. M., 1980. Some Ophiuroidea from
the Seychelles Islands and Inhaca,
Mozambique (Echinodermata). Rev.
Zool. Afr. (1974), 94(3): 534-558. In:
Revue de Zoologie Africaine. Musée
Royal de l'Afrique Centrale: Tervuren.
Clark A. M. and F. W. E. Rowe, 1971.
Monograph of shallow-water Indo-West
Pacific Echinoderms. Trustees of the
British Museum (Natural History):
London. x + 238 p. + 30 pls.
Dawydoff C., 1952. Contribution à l’étude
des invertébrés de la faune marine
benthique de l’Indochine. Bull. Biol. Fr.
Belg. Suppl., 37, 158 pp.
Đào Tấn Hỗ, 2002. Động vật da gai vùng
biển tỉnh Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học
và Công nghệ Biển, T.2 (1): 1-11.
Đào Tấn Hỗ, 2005. Mô tả các loài da gai
(Echinodermata) bổ sung cho khu hệ
động vật không xương sống biển Việt
Nam (Phần I: Các loài đuôi rắn -
Ophiuroidea). Tạp chí Khoa học và
Công nghệ Biển, phụ trương 4 (5): 139-
149.
Đào Tấn Hỗ, 2006. Mô tả các loài da gai
(Echinodermata) bổ sung cho khu hệ
động vật không xương sống biển Việt
Nam (Tiếp theo). Tuyển tập Nghiên cứu
Biển, XV: 231-240.
Đào Tấn Hỗ & Nguyễn Thị Hồng Thắm,
2007. Thành phần động vật da gai
(Echinodermata) trong rạn san hô ở vịnh
Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa). Những
vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học
sự sống. Báo cáo tuyển tập Hội thảo
quốc gia về khoa học sự sống – Quy
Nhơn 2007, 51-54.
Đào Tấn Hỗ, Nguyễn Thị Mỹ Ngân,
Nguyễn Thị Hồng Thắm, 2009. Kết quả
phân tích mẫu động vật da gai
(Echinodermata) thu được trong 2
chuyến khảo sát trên tàu “Viện sĩ
Oparin”. Tuyển tập Nghiên cứu Biển,
XVI: 191-202.
Guille A., P. Laboute & J.-L. Menou (eds),
1986. Guide des etoiles de mer, oursins
et autres echinodermes du lagon de
Nouvelle-Caledonie, 109-197. Paris.
Koehler R., 1930. Ophiures recueillies par
le Docteur Th. Mortensen dans les Mers
d’Australie et dans l’Archipel Malais.
Papers from Dr. Th. Mortensen’s
Pacific Expedition 1914-16. LIV.
Videnskabelige Meddelelser fra Dansk
naturhistorisk Forening, 89: 1-295, 22
pls.
Lane D. J. W., L. M. Marsh, D.
Vandenspiegel, F. W. E. Rowe, 2000.
Echinoderm fauna of the South China
Sea: an inventory and analysis of
55
distribution patterns. The Raffles
Bulletin of Zoology, 8: 459-493.
Nguyễn Thị Mỹ Ngân & Đào Tấn Hỗ,
2013. Một số loài sao biển mới được ghi
nhận tại vùng biển Việt Nam. Tuyển tập
Nghiên cứu Biển, XIX: 176-181.
Nguyễn Văn Chung, Đào Tấn Hỗ, Lê Trọng
Minh, Tôn Thất Thống, Trần Đình Nam,
Nguyễn Văn Lượm, 1978a. Điểm lại các
công trình điều tra nghiên cứu cơ bản
động vật đáy biển Việt Nam. Tuyển tập
Nghiên cứu Biển, I(1): 57-72.
Nguyễn Văn Chung, Đào Tấn Hỗ, Lê Trọng
Minh,Tôn Thất Thống, Trần Đình Nam,
Nguyễn Văn Lượm, 1978b. Kết quả sơ
bộ nghiên cứu động vật đáy vịnh Bình
Cang – Nha Trang. Tuyển tập Nghiên
cứu Biển, I(1): 95 - 110.
Nguyễn Văn Chung, Đào Tấn Hỗ, Lê Trọng
Minh, Nguyễn Huy Yết, Tôn Thất
Thống, Trần Đình Nam, Tạ Minh
Đường, Phạm Thị Dự, Nguyễn Văn
Lượm, Nguyễn Thị Huệ, Lê Quốc Dũng,
1991. Sinh vật đáy vùng biển Thuận Hải
– Minh Hải. Tuyển tập Nghiên cứu Biển,
III: 137-149.
Nguyễn Văn Chung, Nguyễn Xuân Dục,
Phạm Đình Trọng, Nguyễn Huy Yết,
1980. Động vật đáy vùng ven biển
Quảng Ninh – Hải Phòng. Tuyển tập
Nghiên cứu Biển, II(1): 133-151.
Orensky L. D. & J. D. Williams, 2009.
Morphology and ecology of a new
sexually dimorphic species of Polydora
(Polychaeta: Spionidae) associated with
hermit crabs from Jamaica, West Indies.
Zoosymposia, 2: 229-240.
Ozawa H., 2013. Chapter 4: The history
of sexual dimorphism in Ostracoda
(Arthropoda, Crustacea) since the
Palaeozoic. In: Moriyama, H. (Ed).
Sexual Dimorphism. In Tech Open
Access Company, Rijeka, pp. 51-80.
Parameswaran U. V., K. U. Abdul Jaleel,
V. N. Sanjeevan, 2013. Ophiodaphne
scripta (Ophiuroidea: Amphiuridae), a
brittle star exhibiting sexual dimorphism
and epibiosis: first record from India,
with notes on adaptations, systematics
and distribution. Marine Biodiversity,
43: 333-339.
Pastorino G., 2007. Sexual dimorphism
in shells of the Southwestern Atlantic
gastropod Olivella plata (Ihering, 1908)
(Gastropoda: Olividae). 73 (3): 283-285.
Ralls K. and S. L. Mesnick, 2002. Sexual
dimorphism. In: Encyclopedia of Marine
Mammals (eds., W. F. Perrrin, B.
Wursig and H.G.M. Thewissen).
Academic Press, pp. 1071 - 1078.
Rigby P. R., K. Iken, Y. Shirayama,
2007. Sampling biodiversity in coastal
communities. NaGISA protocols for
seagrass and macroalgal habitats. Japan:
Kyoto University Press.
Rowe F. W. E & J. Gates, 1995. Echino-
dermata. In ‘Zoological Catalogue of
Australia’. 33 (Ed A. Wells.) pp xiii +
510 (CSIRO Australia, Melbourne).
Serene R., 1937. Inventaire des Invertébrés
marine de l’Indochine. 1. Notes Stn.
Marit. Cauda, 30: 1-83.
Stohr S., 2015. Ophiosphaera insignis
Brock, 1888. In: Stohr, S.; O’Hara, T. &
Thuy, B. (Eds), 2015. World Ophiu-
roidea database. Accessed through:
World Register of Marine Species at
ea/aphia.php?p=taxdetails&id=213453
on 2015-04-10.
Trần Ngọc Lợi, 1967. Peulements animaux
et végétaux du substrat dur intertidal de
la Baie de Nhatrang, Vietnam. Mem.
Inst. Ocean. Nhatrang, no.11: 236 p.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 07_nguyenthimyngan_trang50_55_2852_2070859.pdf