Chúng tôi không ghi nhận các dấu hiệu bất thường
về mặt hình thái học của cả hai thai trong các lần siêu
âm theo dõi tiếp theo, chúng tôi loại trừ biến chứng
thường gặp của loạn sản trung mô bánh nhau là hội
chứng Beckwith – Wiedemann với các đặc điểm thai
to, lưỡi to, thoát vị rốn, tật cằm nhỏ, các dấu hiệu ở mặt
– não, bất thường tai. Tuy nhiên, ở trường hợp thứ 2,
chúng tôi nghĩ rằng đây là một tình trạng thai chậm tăng
trưởng trong tử cung độ I, với cân nặng dưới đường
bách phân vị thứ 10th và có biến đổi trên doppler màu
(chỉ số CPR < 1,1). Điều này phù hợp với các nghiên
cứu của A. Nayeri (2009) với 33% [7], với Truc Pham
là 6/11 trường hợp [1] có thai chậm tăng trưởng trong
tử cung. Ở trường hợp thứ nhất ghi nhận trọng lượng
thai nằm trong khoảng bách phân vị thứ 10th đến 90th,
và tốc độ phát triển của thai hoàn toàn phù hợp theo
biểu đồ tăng trưởng mặc dù dây rốn bám vào vùng mô
nhau bất thường. Sở dĩ có sự khác biệt này là do sự
gia tăng kích thước bánh nhau ở thai thứ nhất, đảm
bảo cung cấp đầy đủ máu và chất dinh dưỡng cho thai
nhi. Ở trường hợp thứ hai bánh nhau không lớn, vì vậy
không đủ nuôi thai dẫn đến thai chậm tăng trưởng trong
tử cung.
Kết quả mô bệnh học cả hai trường hợp này đều
chẩn đoán loạn sản trung mô bánh nhau với các đặc
điểm các mạch máu giãn lớn, trục liên kết thoái hóa
nước, tế bào liên kết giảm, quá sản tế bảo biểu mô
nuôi mức độ vừa, không có hiện tượng tăng sinh tế
bào nuôi.
Như vây, các triệu chứng trên siêu âm, hình ảnh
đại thể và vi thể của bánh nhau đều phù hợp với chẩn
đoán loạn sản trung mô bánh nhau.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Loạn sản trung mô bánh nhau: Báo cáo trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 105
PBPB
ABSTRACT:
Introduction: Placental mesenchymal dysplasia (PMD) is a rare vascular anomaly characterized by
mesenchymal stem villous hyperplasia. it is important to distinguish PMD from partial hydatidiform mole or a twin
pregnancy with a normal fetus and coexistent complete mole and placenta mosacism due to the completely difference
in prediction and prognosis. It is also crucial to manage PMD because the association between this problem and
severe pregnancy outcomes.
Case report: 02 outpatient PMD cases was diagnosed and monitored at Obstetrics and Gynecology Department,
Hue University Hospital during pregnancy. The placental histopathologic and grossly findings correspond to the
diagnosis of PMD and the prenatal ultrasound findings. The results was similar with other publications worldwide.
There was no severe pregnancy outcomes on two pregnant woman, but 1 of 2 fetus was suspected intrauterine
growth restriction.
Conclusion: It is necessary to evaluate morphology carefully to make a sutable diagnosis. Amniocentesis
should be thought. PMD relates to some pregnancy outcomes, however it is a benign disease so we should evaluate
carefully the fetal growth and pregnancy outcomes.
Keywords: Placental mesenchymal dysplasia, fetal growth, pregnancy outcomes.
LOẠN SẢN TRUNG MÔ BÁNH NHAU:
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Placental mesenchymal dysplasia: case report
Nguyễn Hoàng Long*, Hà Tố Nguyên**, Võ Văn Đức*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Loạn sản trung mô bánh nhau là một bất thường
mạch máu hiếm gặp, tỷ lệ ước tính khoảng 0,02% trên
tổng số thai kỳ, đặc trưng bởi tình trạng tăng sản thân
nhung mao ở màng đệm. Các đặc điểm đại thể của
loạn sản trung mô bánh nhau bao gồm bánh nhau lớn,
dãn các mạch máu nguyên bào nuôi, có những vùng
chiếm dịch tích lớn có vi nhung mao dạng nang bên
cạnh vùng mô nhau bình thường. Hình ảnh vi thể bao
gồm loạn sản trung mô của bánh nhau với các mạch
máu có thành dày, giãn phình các mạch máu thân
nhung mao và có thể có tăng sinh mạch máu và tế bào
liên kết mức độ vừa tại thân nhung mao. Tại thời điểm
quý 1, các đặc điểm của Loạn sản trung mô bánh nhau
trên siêu âm tương tự với bệnh lý thai trứng, như bánh
nhau lớn có nhiều nang và những tổn thương giảm âm.
Mặc dù đa số các trường hợp loạn sản trung mô bánh
nhau đều có hình thai học thai nhi bình thường, đặc
điểm phân biệt với thai trứng, tuy nhiên cần phải chẩn
đoán phân biệt loạn sản trung mô bánh nhau với thai
trứng bán phần hoặc song thai có một thai bình thường
và một thai trứng toàn phần cùng tồn tại vì tiên lượng
và điều trị hoàn toàn khác nhau.
Loạn sản trung mô bánh nhau có liên quan đến
rất nhiều biến chứng kể cả ở thai phụ lẫn thai nhi, vì
vậy việc theo dõi lâm sàng kỹ là điểm chính yếu khi
chẩn đoán bệnh lý này, bao gồm đánh giá sự phát
triển của thai, các chỉ số sinh học, các chỉ số doppler
như động mạch rốn, động mạch não giữa và ống tĩnh
mạch. Có khoảng 20% các trường hợp loạn sản trung
mô bánh nhau có liên quan đến hội chứng Beckwith –
Wiedemann (thường có các triệu chứng như thai to,
lưỡi to, thoát vị rốn, tật cằm nhỏ, các dấu hiệu ở mặt
– não, bất thường tai). Những trường hợp thai không
kèm hội chứng Beckwith – Wiedemann, tỷ lệ thai chậm
*Bộ môn phụ sản – Đại Học Y Dược Huế
**Khoa CĐHA – Bệnh Viện Từ Dũ
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018106
tăng trưởng trong tử cung và tỷ lệ thai chết trong tử
cung lần lượt là 50% và 40%. Tỷ lệ sinh non là 53%,
ối vỡ non và chấm dứt thai kỳ lần lượt là 17% và 19%.
Tương tự, các biến chứng trên thai phụ có thể kể đến
tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật và sản giật chiếm
9%. Chỉ có 9% các trường hợp loạn sản trung mô bánh
nhau không đi kèm các biến chứng trên thai phụ và sơ
sinh.
Việc hiểu rõ bản chất và các tính chất đặc trưng
của loạn sản trung mô bánh nhau có thể giúp giảm
thiểu được việc chấm dứt thai kỳ không đúng cũng như
theo dõi các biến chứng tốt hơn khi chẩn đoán loạn sản
trung mô bánh nhau. Hai trường hợp loạn sản trung mô
bánh nhau đã được theo dõi và chẩn đoán tại trung tâm
của chúng tôi dựa vào các đặc điểm hình ảnh trước
sinh và mô bệnh học sau sinh.
II. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Trường hợp thứ 1:
Sản phụ Nguyễn Thị B. N., 28 tuổi. Nghề nghiệp:
điều dưỡng. Mang thai lần thứ 2 PARA (1001). Không
có tiền sử bệnh lý về cá nhân, gia đình và chồng. Lần
mang thai trước mổ lấy thai do thai to 4200 gram, không
có bất thường trong quá trình mang thai. Sản phụ đi
khám lần tiên vào thời điểm 06/08/2016, ghi nhận thai 7
tuần 2 ngày có tim thai, bóc tách túi thai 30% tại phòng
khám tư nhân. Quá trình theo dõi đến thời điểm 16 tuần
chưa phát hiện bất thường về mặt siêu âm, sản phụ
không có triệu chứng và dấu chứng gì bất thường về
mặt lâm sàng. Ngày 14/10/2016, sản phụ được siêu âm
tại phòng khám tư nhân với mô tả trên siêu âm bánh
nhau có nhiều vùng echo trống, được chẩn đoán thai
16 tuần 4 ngày theo dõi thai trứng bán phần, đề nghị
nhâp viện.
Hình 1. Hình ảnh siêu âm bánh nhau có dạng hình tổ ong của sản phụ N., 28 tuổi.
Một ngày sau đó, sản phụ chuyển viện đến khoa
Phụ Sản, Bệnh viện Đại học Y Dược Huế. Tại đây,
chúng tôi ghi nhận 01 thai 17 tuần có hình thái học bình
thường về mặt siêu âm, bánh nhau có dạng hình tổ ong
chiếm 2/3 bánh nhau, 1/3 bánh nhau có cấu trúc bình
thường. Dây rốn bám vào vùng mô nhau bất thường.
Chẩn đoán được đưa ra ở trường hợp này là thai 17
tuần theo dõi loạn sản trung mô bánh nhau. Sản phụ
được tư vấn và đồng ý chọc ối. Kết quả bộ NST bình
thường là 46,XX.
Sản phụ được tư vấn tiếp tục theo dõi sự phát triển
thai kỳ và đánh giá sự tăng trưởng của thai 4 tuần/lần
với các nguy cơ cho thai và cho sản phụ đã được trình
bày ở trên. Trong quá trình theo dõi, chúng tôi ghi nhận,
các số đo sinh học của thai nhi đều nằm trong khoảng
bách phân vị từ 10th đến 90th, chỉ số nước ối trong giới
hạn bình thường, không phát hiện các bất thường về
mặt hình thái học thai nhi, không có bất thường trên
Doppler màu. Bánh nhau vẫn còn dạng tổ ong với tỷ lệ
nhau tổ ong/nhau bình thường là 2/1.
Đến ngày 08/03/2017, sản phụ nhập viện tại đơn
vị của chúng tôi vì lí do vỡ ối. Sản phụ được chỉ định
mổ lấy thai. Kết quả mổ lấy thai: sinh ra 01 bé Gái, cân
nặng 2800 gram, chỉ số Apgar 8 điểm tại thời điểm 1
phút, 9 điểm tại thời điểm 5 phút. Trẻ hồng hào, bú tốt.
Không phát hiện bất thường về mặt hình thái học.
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 107
Trường hợp thứ 2:
Sản phụ Nguyễn Thị H., 35 tuổi. Nghề nghiệp: công
nhân may. Sản phu mang thai lần thứ 3 PARA (1011).
Không có tiền sử bệnh lý về cá nhân, gia đình và chồng.
Lần mang thai sinh thường, không có bất thường trong
quá trình mang thai, bổ sung viên sắt và đảm bảo dinh
dưỡng. Sản phụ có đi khám thai thường xuyên, không
phát hiện bất thường trên siêu trong quý 1 của thai kỳ.
Sản phụ vào đơn vị siêu âm sàng lọc trước sinh để siêu
âm sàng lọc quý II ngày 16/2/2017. Tại đây, chúng tôi
nhận thấy hình thái học thai nhi không có bất thường,
tuy nhiên bánh nhau có nhiều hốc nhỏ dạng tổ ong, phần
nhau bất thường chiếm phần lớn diện tích của bánh
nhau, dây rốn bám vào vùng nhau bất thường. Sản phụ
được chẩn đoán loạn sản trung mô bánh nhau, tuy nhiên
sản phụ không đồng ý chọc ối và được tư vấn theo dõi
mỗi 4 tuần. Trong quá trình theo dõi sau đó, chúng tôi
ghi nhận thai phát triển bình thường, tỷ lệ mô nhau bất
thường/bình thường không thay đổi, kích thước các hốc
trên siêu âm có xu hướng giảm dần.
Hình 2. Hình ảnh đại thể bánh nhau sản phụ B.N., 28 tuổi.
Hình A: nhiều mạch máu tăng sinh giãn lớn, kích thước bánh nhau lớn
Hình B: vùng mô nhau bất thường với nhiều hình ảnh túi nước.
Kiểm tra bánh nhau thấy bánh nhau lớn, kích thước 40x40 cm, có nhiều cấu trúc dạng túi nước nhỏ dạng chùm
nho ở vùng mô bất thường, có một phần mô nhau bình thường về mặt đại thể. Bề mặt thai của bánh nhau có nhiều
mạch máu giãn lớn, ngoằn nghoèo. Kết quả mô học cho thấy không có hiện tượng tăng sinh tế bào nuôi, có hình ảnh
các mạch máu vi nhung mao giãn lớn.
Hình 3. Hình ảnh mô bệnh học bánh nhau vùng bất thường của sản phụ B. N., 28 tuổi
Hình A: Hình ảnh lông nhau neo với các mạch máu giãn rộng, thành mạch dày
Hình B: Hàng tế bào biểu mô nuôi nhỏ, đều, không có hình ảnh quá sản (mũi tên);
tăng sinh các tế bào mô đệm của lông nhau.
Ghi nhận nồng độ hCG sau sinh là 1075 mIU/ml, sau 1 tuần 7.05 mIU/ml, và âm tính trong lần xét nghiệm sau
đó 4 tuần.
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018108
Đến thời điểm 30 tuần, chúng tôi ghi nhận trọng
lượng thai nhỏ hơn bách phân vị thứ 10th, tăng trở kháng
động mạch rốn (PI= 1,82), không có hình ảnh mất sóng/
đảo ngược sóng tâm trương độnh mạch rốn, chưa có
biến đổi trên doppler động mạch não giữa, và ống tĩnh
mạch, chỉ số rốn/não < 1,1. Sản phụ được chẩn đoán thai
30 tuần, chậm tăng trưởng trong tử cung độ I, loạn sản
trung mô bánh nhau. Sản phụ được tư vấn theo dõi mỗi 2
tuần. Các lần siêu âm tiếp theo đều cho kết quả tương tự.
Đến thời điểm 14/06/2017, sản phụ vào viện vì lý
do đau bụng chuyển dạ. Kết quả CTG nhóm 1, sản phụ
được chỉ định cho sinh thường. Kết quả sinh thường:
01 bé trai, cân nặng 2600 gram, chỉ số Apgar 8 điểm
tại thời điểm 1 phút và 9 điểm tại thời điểm 5 phút. Trẻ
hồng hào, bú tốt, phản xạ bình thường. Không phát
hiện bất thường về mặt hình thái. Bánh nhau về mặt
đại thể: kích thước không lớn 20 x 20 cm, bề mặt thai
của bánh nhau có vài mạch máu tăng sinh giãn lớn, mô
nhau bất thường chiếm 2/3 bánh nhau, bên trong có
nhiều cấu trúc dạng bọng nước nhỏ.
Hình 4. Hình ảnh siêu âm của sản phụ H.
Bánh nhau có dạng hình tổ ong và các chỉ số sinh học đều nhỏ hơn bách phân vị thứ 10th theo tuổi thai.
Hình 5. Hình ảnh đại thể bánh nhau của sản phụ H., 34 tuổi
Hình A: nhiều mạch máu tăng sinh giãn lớn, kích thước bánh nhau bình thường
Hình B: vùng mô nhau bất thường (bên phải) với nhiều hình ảnh túi nước.
Kết quả mô bệnh học: trục liên kết thoái hóa nước, tế bào liên kết giảm, quá sản tế bảo biểu mô nuôi mức độ
vừa . Sản phụ không theo dõi βhCG.
Hình 5. Hình ảnh mô bệnh học bánh nhau vùng bất thường của sản phụ H., 28 tuổi
Hình A: Hình ảnh lông nhau neo (stem villi) với các mạch máu giãn rộng, thành mạch dày
Hình B: Hàng tế bào biểu mô nuôi nhỏ, đều, không có hình ảnh quá sản.
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 109
Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng hai trường hợp loạn sản
trung mô bánh nhau
Trường hợp Trường hợp
1
Trường hợp
2
Tuổi mẹ 28 34
Tiền sử sản khoa 1001 1011
Phương pháp thụ thai Tự nhiên Tự nhiên
Bộ nhiễm sắc thể thai
nhi
46, XX Không làm
Kết quả thai kỳ Thai sống
(36 tuần)
Thai sống/ chậm
tăng trưởng
(38 tuần)
Phương pháp kết
thúc thai kỳ
Mổ lấy thai Sinh thường
Kích thước bánh
nhau
44 x 40 cm 20x20 cm
Tỷ lệ mô nhau bình
thường
30% 40%
Vị trí dây rốn bám Vùng mô
nhau bất
thường
Vùng mô nhau
bất thường
III. BÀN LUẬN
Loạn sản trung mô bánh nhau là một bệnh lý hiếm
gặp và đôi khi được xem là một “cái bẫy” của bác sĩ sản
phụ khoa và bác sĩ siêu âm. Tỷ lệ loạn sản trung mô
bánh nhau hiện nay ghi nhận là 0,02% trong tổng số thai
kỳ [3], [4]. Thực tế, từ trường hợp được mô tả đầu tiên
trên thế giới bởi Moscoso và cộng sự năm 1991 [5] đến
năm 2013, có 212 trường hợp loạn sản trung mô bánh
nhau đã được công bố trong y văn thế giới [7]. Những
tính chất của loạn sản trung mô bánh nhau trên siêu âm
trong quí một của thai kỳ rất giống với các trường hợp
thai trứng bán phần hoặc song thai có một thai bình
thường và một thai trứng toàn phần cùng tồn tại hoặc
nhau thể khảm. Vì vậy, việc đưa ra chẩn đoán phân biệt
trong giai đoạn sớm của thai kỳ là rất quan trọng do tiên
lượng và xử trí hoàn toàn khác nhau. Hình ảnh bánh
nhau của các dạng này đều được mô tả tương tự nhau
là có bánh nhau có hình ảnh tổ ong. Để loại trừ trường
hợp song thai có một thai trứng toàn phần cùng tồn tại,
có thể trên hình ảnh siêu âm sẽ tương đồng với loạn
sản trung mô bánh nhau, nhưng có thể dựa vào các
triệu chứng lâm sàng của thai trứng toàn phần để loại
trừ như nồng độ βhCG tăng cao > 100.000 mUI/ml, tử
cung lớn hơn tuổi thai thông thường, nôn nghén nhiều,
có nang hoàng tuyến hai bên, cường giáp. Khó khăn
nhất trong việc chẩn đoán phân biệt bệnh lý này trong
giai đoạn sớm của thai kỳ là thai trứng bán phần, vì
triệu chứng lâm sàng thường không đặc hiệu, hình ảnh
trên siêu âm tương tự nhau với một phần bánh nhau
có dạng tổ ong và đi kèm với một thai trong tử cung.
Để nghi ngờ loạn sản trung mô bánh nhau, cần khảo
sát kỹ hình thái học thai nhi. Trong trường hợp này,
hình thái học thai nhi đa số đều bình thường theo tuổi
thai vì không có lệch bội. Ngược lại, bộ nhiễm sắc thể
trong thai trứng bán phần đa số đều là 69 nhiễm sắc
thể. Khi có nghi ngờ, nên chọc ối hoặc làm sinh thiết
gai nhau để chẩn đoán phân biệt. Ngoài hình ảnh đại
thể bánh nhau sau sinh, việc chẩn đoán chắc chắn loạn
sản trung mô bánh nhau được thực hiện bởi mô bệnh
học [1], [2], [3], [7]. Hình ảnh mô bệnh học sẽ cho thấy
có hiện tượng phù đoạn tận cùng vi lông nhau, phù thân
lông nhau, giãn phình các mạch máu thân lông nhau
nhưng không có hiện tượng tăng sinh tế bào nuôi [8].
Ở cả hai trường hợp của chúng tôi, tuổi mẹ lần
lượt là 28 và 34 tuổi. Hầu hết các kết quả nghiên cứu
trước đây cho thấy loạn sản trung mô bánh nhau có
thể xuất hiện ở tất cả các độ tuổi khác nhau. Theo
Paradinas (2001), trong 11 trường hợp ghi nhận, tuổi
mẹ thấp nhất là 16 tuổi và lớn nhất 38 tuổi, tuy nhiên
tập trung vào nhóm nhỏ hơn 20 tuổi và trên 30 tuổi
[8]. Tương tự, kết quả nghiên cứu của Nayeri (2009)
cho thấy độ tuổi trung bình là 28.2 ± 0.7 [7]. Tuy nhiên,
kết quả nghiên cứu của Truc Pham (2006) cho thấy tất
cả các trường hợp đều có tuổi mẹ lớn hơn 25 tuổi [1].
Hai trường hợp chúng tôi ghi nhận đều là những sản
phụ đã từng mang thai đủ tháng trước đây, điều này
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nayeri (2009) chỉ
có 21% mang thai con so có loạn sản trung mô bánh
nhau [7]. Cả hai trường hợp đều có thai tự nhiên, điều
này tương tự kết quả nghiên cứu của Tanuma (2015)
[2]. Các nghiên cứu khác không ghi nhận phương pháp
mang thai.
Ở trường hợp thứ 1, tại thời điểm siêu âm lần đầu
tiên vào lúc 17 tuần, sở dĩ chúng tôi nghĩ đến loạn sản
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018110
trung mô bánh nhau vì các dấu hiệu trên siêu âm ngoài
bánh nhau có 2/3 diện tích có dạng hình tổ ong với các
hốc trống âm nhỏ, chúng tôi khảo sát kỹ về mặt hình
thái học tương ứng với thai 17 tuần chưa có dấu hiệu
bất thường, các lần siêu âm tiếp theo cho kết quả tương
tự, càng củng cố chẩn đoán của chúng tôi. Tương tự,
đối với trường hợp thứ 2, đến với đơn vị của chúng tôi
vào tuổi thai 24 tuần, với bánh nhau có dạng hình tổ
ong chiếm hầu hết diện tích của bánh nhau nhưng kích
thước bánh nhau có vẻ bình thường trên siêu âm, với
tuổi thai này chúng tôi khảo sát về mặt hình thái thai
nhi tốt hơn. Ở trường hợp thứ 1, tuổi thai còn nhỏ khi
đến đơn vị chúng tôi, chưa cho phép khảo sát toàn diện
hình thái học thai nhi, cùng với đó chưa có các biến
chứng xảy ra trên sản phụ và thai nhi vì vậy cần thiết
phải làm nhiễm sắc đồ để loại trừ thai trứng bán phần,
thường đi kèm với một thai đa dị tật hoặc thai ngừng
phát triển với tam bội thể (69 nhiễm sắc thể). Ở trường
hợp thứ 2, chúng tôi không làm nhiễm sắc đồ vì hình
thái học thai nhi bình thường, kích thước bánh nhau
không lớn và sản phụ không đồng ý chọc ối. Chúng
tôi không nghĩ đến song thai có một thai bình thường
và một thai trứng toàn phần vì sản phụ không có các
triệu chứng điển hình của thai trứng toàn phần, bánh
nhau không quá lớn tương quan với kích thước thai.
Chúng tôi nghĩ rằng không cần thiết chẩn đoán phân
biệt trường hợp bánh nhau dạng khảm vì hướng xử trí
tương tự với loạn sản trung mô bánh nhau là theo dõi
thai kỳ và có thể chẩn đoán phân biệt dựa vào mô bệnh
học sau sinh.
Chúng tôi không ghi nhận các dấu hiệu bất thường
về mặt hình thái học của cả hai thai trong các lần siêu
âm theo dõi tiếp theo, chúng tôi loại trừ biến chứng
thường gặp của loạn sản trung mô bánh nhau là hội
chứng Beckwith – Wiedemann với các đặc điểm thai
to, lưỡi to, thoát vị rốn, tật cằm nhỏ, các dấu hiệu ở mặt
– não, bất thường tai. Tuy nhiên, ở trường hợp thứ 2,
chúng tôi nghĩ rằng đây là một tình trạng thai chậm tăng
trưởng trong tử cung độ I, với cân nặng dưới đường
bách phân vị thứ 10th và có biến đổi trên doppler màu
(chỉ số CPR < 1,1). Điều này phù hợp với các nghiên
cứu của A. Nayeri (2009) với 33% [7], với Truc Pham
là 6/11 trường hợp [1] có thai chậm tăng trưởng trong
tử cung. Ở trường hợp thứ nhất ghi nhận trọng lượng
thai nằm trong khoảng bách phân vị thứ 10th đến 90th,
và tốc độ phát triển của thai hoàn toàn phù hợp theo
biểu đồ tăng trưởng mặc dù dây rốn bám vào vùng mô
nhau bất thường. Sở dĩ có sự khác biệt này là do sự
gia tăng kích thước bánh nhau ở thai thứ nhất, đảm
bảo cung cấp đầy đủ máu và chất dinh dưỡng cho thai
nhi. Ở trường hợp thứ hai bánh nhau không lớn, vì vậy
không đủ nuôi thai dẫn đến thai chậm tăng trưởng trong
tử cung.
Kết quả mô bệnh học cả hai trường hợp này đều
chẩn đoán loạn sản trung mô bánh nhau với các đặc
điểm các mạch máu giãn lớn, trục liên kết thoái hóa
nước, tế bào liên kết giảm, quá sản tế bảo biểu mô
nuôi mức độ vừa, không có hiện tượng tăng sinh tế
bào nuôi.
Như vây, các triệu chứng trên siêu âm, hình ảnh
đại thể và vi thể của bánh nhau đều phù hợp với chẩn
đoán loạn sản trung mô bánh nhau.
IV. KẾT LUẬN
Loạn sản trung mô bánh nhau là một bệnh lý hiếm
gặp, các triệu chứng về mặt hình ảnh siêu âm gần giống
với thai trứng bán phần, và cần phân biệt với song thai
có một thai bình thường và một thai trứng toàn phần
cùng tồn tại và tình trạng khảm của bánh nhau. Khi đặt
ra chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt, cần khảo sát
hình thái học thai nhi kỹ để có hướng chẩn đoán phù
hợp. Để loại trừ thai trứng bán phần, cần làm nhiễm sắc
đồ thai nhi. Loạn sản trung mô bánh nhau có liên quan
đến một số biến chứng trong thai kỳ, tuy nhiên đây là
bệnh lý lành tính vì vậy cần theo dõi sát sự phát triển
của thai và sự xuất hiện các biến chứng nếu có.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pham T, Steele J, Stayboldt C, Chan L,
Benirschke K. Placental mesenchymal dysplasia
is associated with high rates of intrauterine growth
restriction and fetal demise: a report of 11 new cases
and a review of the literature. Am J Clin Pathol.
2006;126:67–78.
TÓM TẮTĐặt vấn đề: Loạn sản trung mô bánh nhau là một bất thường mạch máu hiếm gặp, đặc trưng bởi sự quá sản các thân nhung mao ở màng đệm. Cần phải chẩn đoán phân biệt một cách chính xác loạn sản trung mô bánh nhau với các bệnh lý như chửa trứng bán phần, song thai có một thai bình thường và một thai trứng toàn phần hay nhau thể khảm vì tiên lượng và điều trị hoàn toàn khác nhau. Việc theo dõi và tiên lượng loạn sản trung mô bánh nhau rất quan trọng vì tình trạng này liên quan đến một số kết cục thai kỳ không tốt trên sản phụ lẫn thai nhi. Báo cáo trường hợp lâm sàng: 02 trường hợp loạn sản trung mô bánh nhau được chẩn đoán và theo dõi ngoại trú tại khoa Phụ Sản, Bệnh viện Đại học Y Dược Huế trong suốt thai kỳ. Mô bệnh học và hình ảnh đại thể bánh nhau sau sinh cho thấy phù hợp với chẩn đoán loạn sản trung mô bánh nhau với các đặc điểm siêu âm tiền sản, kết quả tương tự với các nghiên cứu đã được công bố trên thế giới. Kết quả thai kỳ không có các biến chứng trên thai phụ, tuy nhiên 1 trong 2 trường hợp có nghi ngờ tình trạng chậm tăng trưởng trong tử cung. Kết luận: Cần thiết phải khảo sát hình thái học thai nhi kỹ có hướng chẩn đoán. Nên chọc ối để loại trừ hoàn toàn thai trứng bán phần. Loạn sản trung mô bánh nhau có liên quan đến một số biến chứng trong thai kỳ, tuy nhiên đây là bệnh lý lành tính vì vậy cần theo dõi sát sự phát triển của thai và sự xuất hiện các biến chứng nếu có. Từ khóa: Loạn sản trung mô bánh nhau, sự phát triển thai, kết quả thai sảnNgười liên hệ:... Email:Ngày nhận bài: 16/10/2017; Ngày chấp nhận đăng: 30/11/2017
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 111
2. Akiko Tanuma et al, Prenatal imaging and
pathology of placental mesenchymal dysplasia: a report
of three cases, Case Rep. Perinat. Med. 2016; 5(1): 9–14.
3. V. Ulker et al, Placental mesenchymal
dysplasia: A rare clinicopathologic entity confused
with molar pregnancy, Journal of Obstetrics and
Gynaecology, April 2013; 33: 246–249.
4. Maria Chiara Sudano et al, Placental
mesenchymal dysplasia, a case of intrauterine sudden
death in a normal-sized fetus, Journal of Prenatal
Medicine 2013; 7 (1): 9-11.
5. Gregory W. Woo et al, Placental mesenchymal
dysplasia, Am J Obstet Gynecol 2011.
6. Vaisbuch E, Romero R, Kusanovic JP, Erez O,
Mazaki-Tovi S, Gotsch F. Three dimensional sonoraphy
of placental mesenchymal dysplasia and its differential
diagnosis. J Ultrasound Med. 2009;28:359–68.
7. A. Nayeri, B. West, Grossetta Nardini, A.
Copel, K. Sfakianaki, Systematic review of sonographic
findings of placental mesenchymal dysplasia and
subsequent pregnancy outcome, Ultrasound Obstet
Gynecol 2013; 41: 366–374.
8. F J Paradinas, N J Sebire, R A Fisher, Pseudo-
partial moles: placental stem vessel hydrops and the
association with Beckwith-Wiedemann syndrome and
complete moles, Histopathology 2001,39, 447±454.
TÓM TẮTĐặt vấn đề: Loạn sản trung mô bánh nhau là một bất thường mạch máu hiếm gặp, đặc trưng bởi sự quá sản các thân nhung mao ở màng đệm. Cần phải chẩn đoán phân biệt một cách chính xác loạn sản trung mô bánh nhau với các bệnh lý như chửa trứng bán phần, song thai có một thai bình thường và một thai trứng toàn phần hay nhau thể khảm vì tiên lượng và điều trị hoàn toàn khác nhau. Việc theo dõi và tiên lượng loạn sản trung mô bánh nhau rất quan trọng vì tình trạng này liên quan đến một số kết cục thai kỳ không tốt trên sản phụ lẫn thai nhi. Báo cáo trường hợp lâm sàng: 02 trường hợp loạn sản trung mô bánh nhau được chẩn đoán và theo dõi ngoại trú tại khoa Phụ Sản, Bệnh viện Đại học Y Dược Huế trong suốt thai kỳ. Mô bệnh học và hình ảnh đại thể bánh nhau sau sinh cho thấy phù hợp với chẩn đoán loạn sản trung mô bánh nhau với các đặc điểm siêu âm tiền sản, kết quả tương tự với các nghiên cứu đã được công bố trên thế giới. Kết quả thai kỳ không có các biến chứng trên thai phụ, tuy nhiên 1 trong 2 trường hợp có nghi ngờ tình trạng chậm tăng trưởng trong tử cung. Kết luận: Cần thiết phải khảo sát hình thái học thai nhi kỹ có hướng chẩn đoán. Nên chọc ối để loại trừ hoàn toàn thai trứng bán phần. Loạn sản trung mô bánh nhau có liên quan đến một số biến chứng trong thai kỳ, tuy nhiên đây là bệnh lý lành tính vì vậy cần theo dõi sát sự phát triển của thai và sự xuất hiện các biến chứng nếu có. Từ khóa: Loạn sản trung mô bánh nhau, sự phát triển thai, kết quả thai sảnNgười liên hệ:... Email:Ngày nhận bài: 16/10/2017; Ngày chấp nhận đăng: 30/11/2017
Người liên hệ: Hà Tố Nguyễn; Email: hatonguyen@gmail.com
Ngày nhận bài: 20/10/2017; Ngày chấp nhận đăng: 30/11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
loan_san_trung_mo_banh_nhau_bao_cao_truong_hop.pdf