Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay

Mở đầu Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra. Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế nước ta hiện nay. Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, thì lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp nói riêng và lợi ích của toàn xã hội nói chung luôn được quan tâm hàng đầu. Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn không ít những Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh . Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, thì ta có thể thông qua những hình thức phân phối thu nhập của doanh nghiệp đó. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho bài nghiên cứu khoa học của mình và hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay của Việt Nam. A.Phần mở đầu: .2 B.nội dung: Chương 1: Lý luận cơ bản về lợi ích Kinh tế 1.1.Bản chất đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế 3 1.1.1. Lợi ích kinh tế 3 1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế 4 1.2.Các cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta .5 1.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn phát triển hiện nay 11 1.3.1. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá xã hội 12 1.3.2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội .13 1.3.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống .15 chương 2: Các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam 2.1.Bản chất và vai trò của phân phối .20 2.1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất 20 2.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất .21 2. 2. Các hình thái phân phối thu nhập .23 2.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối 23 2.2.2. Các hình thức phân phối thu nhập .24 a. Phân phối theo lao động 24 b. Các hình thức phân phối khác nhau 27 c. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể ,phúc lợi xã hội 28 d. Phân phối theo vốn và tài sản .29 2.3. Từng bước thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập 30 2.3.1. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất 30 2.3.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân ,thu nhập bất hợp lý bất chính 31 2.3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập 31 2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo .32 C.Kết luận 34 D.Tài liệu tham khảo 35

doc32 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2095 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tinh thần) Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan,nó xuất hiện trong những điều kiện tồn tại là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh tế.Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở,nội dung của lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,nó được quy định một cách khách quan bởi ohương thức sản xuất,bở hệ thống quan hệ sản xuất,trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.Ph.Ănghen viết:"những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích".V.I.Lênin cũng cho rằng:Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác được xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ thống quan hệ sản xuất,theo những hoàn cảnh và đIều kiện sống của họ. Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,lợi ích kinh tế thể hiện trong tất cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.Cần khẳng định rằng,ở đâu có hoạt động sản xuất-kinh doanh thì ở đó có lợi kinh tế và chủ thể sản xuất-kinh doanh cũng là chủ thể của lợi ích kinh tế. 1.1.2.Vai trò của lợi ích kinh tế: Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống.Chính những lợi ích kinh tế đã gắn bó con người với cộng đồng của mình và tạo ra những kích thích,thôi thúc,khát vọng và sự say mê trong hoạt động sản xuất-kinh doanh cho người lao động.Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiên đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế thúc đẩy con người hành động.Do đó,lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung,phát triển sản xuất-kinh doanh nói riêng.Ph.Ăngghen cho rằng,lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển những quần chúng đông đảo.Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người :"thì chúng lấy động đời sống nhân dân" Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố,duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất -kinh doanh.Một khi con người(chủ thể)tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất kinh doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể lợi ích.Ngược lại,khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích không được đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ đó(quan hệ giữa các chủ thể)xuống cấp. Nếu tình trang đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tiêu cực trong hoạt động sản xuất-kinh doanh. Lợi ích kinh tế thiết thân của cá nhân người lao động là động lực trực tiếp đối với sự hoạt động của từng con người nói riêng và của cả xã hội nói chung. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay của đất nước, các lợi ích kinh tế, lợi ích trứơc mắt của các cá nhân đang là cấp bách nhất, vì thế , nó cũng đang đóng vai trò quan trọng hơn cả trong việc thúc đẩy các chủ thể hoạt động và qua đó gây nên sự vận động , phát triển của xã hội. Vì vậy vào thời điểm lịch sử hiện nay, chúng ta phải chủ trương tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các cá nhân , các gia đình cũng như các nhóm xã hội thực hiện các lợi ích trên đây là hết sức đúng đắn, là phản ánh đúng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn cuộc sống. Thực ra, thông qua các chủ trương ấy, chúng ta nhằm vào các mục đích lớn lao hơn- đó là đưa xã hội thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển đời sống kinh tế xã hội của đất nước. 1.2.Các cơ cấu lợi ích kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất-kinh doanh.Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định: ở nứơc ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế.Đó là: +Kinh tế tập thể: Có thể nói các hợp tác xã(HTX) được thành lập và tồn tại mấy chục năm qua được hình thành trên cơ sở tập thể hoá các tư liệu sản xuất mang tính phong trào và được nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp, nuôi dưỡng đến nay hầu như bị tan rã hoặc đang đứng trước nguy cơ tan rã. Các hợp tác xã nông nghiệp và thương nghiệp, dịch vụ hầu như đã biến dạng và biến mất hoàn toàn. Riêng trong nông nghiệp các HTX hay các tập đoàn sản xuất(TĐSX) diễn ra theo hai xu hướng sau: Phần lớn các HTX va TĐSX được thành lập trước đây đã bị tan rã và giải thể . Số còn lại tồn tại chủ yếu mang tính chất hình thức làm dịch vụ phục vụ, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển. Dĩ nhiên, cùng với sự tan rã và giải thể hàng loạt của các HTX và các TĐSX trong cả nông nghiệp, công nghiệp thương nghiệp và dịch vụ theo mô hình cũ là sự hình thành những loại hình hợp tác kiểu mới đa dạng ra đời một cách khách quan do yêu cầu của đời sống và sản xuất xã hội. Loịa hình hợp tác này được hình thành trên cơ sở các thành viên xã viên tự nguyện tham gia và đóng góp cổ phần trên nguyên tắc cùng có lợi , lời ăn, lỗ chịu. Trong công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ nó mang tên Tổ hợp sản xuất, công ty… tuỳ theo tính chất và quy mô, còn trong nông nghiệp nó được hình thành và hiện còn ở dạng quy mô hợp tác nhỏ. Các quan hệ kinh tế của các HTX và TĐSX trước đây gắn liền với nhà nước, còn các quan hệ kinh tế của các công ty , các hợp tác xã mới được hoạt động mấy năm qua gắn liền với cơ chế thị trường. HTX và TĐSX trước đây là một bộ phận của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, quy định bởi nhà nước và vận động theo xu hướng chung đó. Còn kinh tế hợp tác hiện nay là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động, người sản xuất nhỏ, dưới các hình thức hết sức đa dạng , được Đảng và nhà nước ta coi là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế .Chỉ thị ngày 24-5-1996 của Ban bí thư TƯ Đảng về phát triển kinh tế hợp tác chỉ rõ: " Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của HTX, không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX". Tuy nhiên, nhà nước khuyến khích phát triển mọi hình thức kinh tế hợp tác , có các chính sách ưu đãi , hỗ trợ HTX về đất đai, thuế tín dụng , đầu tư, xuất nhập khẩu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ …Trong điều kiện vừa được nhận sự ưu đãi , hỗ trợ từ nhà nước , vừa được hoàn toàn độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, kinh tế tập thể hiện nay vận động theo xu hướng khác nhau , vừa bị quy định bởi cơ chế thị trường , vừa phụ thuộc vào xu hướng chung của các thành viên tham gia hợp tác. Đối với kinh tế tập thể, nhà nước với các chức năng của mình, nhất là chức năng hành pháp và kinh tế , thông qua các luật doanh nghiệp, đầu tư…,các chính sách thuế , chính sách bảo trợ sản xuất, các dịch vụ kỹ thuật ,cung ứng vật tư, tiêu dùng sản phẩm và ngân hàng, tín dụng…, trong những chừng mực nhất định, những phạm vi và quy mô nhất định có thể định hướng điều chỉnh sự vận động và phát triển của kinh tế tập thể theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Dĩ nhiên, đó là sự điều tiết ở tầm vĩ mô. Chắc chắn rằng trong tương lai thành phần kinh tế tập thể sẽ cùng với thành phần kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta chủ trương. .+Kinh tế tư bản nhà nước : Đó là thành phần kinh tế mới xuất hiện từ khi ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Có thể kể 2 loại hình chủ yếu của kinh tế hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân này là: liên doanh và hợp doanh, giữa nhà nước và tư bản nước ngoài; và liên doanh, hợp doanh, hỗn hợp , giữa nhà nước và doanh nghiệp trong nước và tư bản nước ngoài. Hiện nay , 70-75% các dự án liên doanh với các nhà tư bản nước ngoài đều có quy mô trên dưới 7 triệu USD . Điều đó chứng tỏ các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam giai đoạn đầu này phần lớn mới chỉ là công ty nhỏ, vốn ít, tìm kiếm cơ hội có thể mang lại lợi nhuận ngay và thu hồi vốn nhanh. Do vậy, chưa có các dự án tầm cỡ đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng và kinh tế mũi nhọn. Thu hút các nhà đầu tư giai đoạn hiện nay phần nhiều là điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ, du lịch, khách sạn và ngân hàng. Trong những năm vừa qua, các nhà đầu tư vào Việt Nam gặp không ít khó khăn nhất là thủ tục hành chính môi trường đầu tư…Vì vậy, muốn thu hút các dự án lớn cần trước hết làm trong sạch môi trường đầu tư cũng như ban hành và thực thi pháp luật nghiêm minh, đồng bộ và bình đẳng . Dù nhà nước là đồng tác giả nhưng thành phần kinh tế tư bản nhà nước vẫn tuân theo những quy luật thép của kinh tế thị trường. ở đây xu hướng phát triển của các doanh nghiệp liên doanh này sẽ phụ thuộc vào chủ thể bỏ vốn đâù tư nhiều hơn trên 50% . Nếu phía nhà nước đầu tư phía đối tác bên ngoài góp vốn lớn hơn thì dù nhà nước có tham gia điều tiết ở cả tầm vĩ mô và vi mô như thế nào chăng nữa thì xu hướng vận động tự nhiên của nó cũng vẫn nghiêng về con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Ngoài ra còn có: +Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. +Kinh tế nhà nước. +Kinh tế cá thể,tiểu chủ. +Kinh tế tư bản tư nhân Như vậy,trên một góc độ nào đấy(dựa vào các mối quan hệ kinh tế trực tiếp chẳng hạn) ta có thể thấy được 6 cơ cấu các lợi ích kinh tế,đó là: _Thành phần kinh tế nhà nước có lợi ích của Nhà nước(xã hội);lợi ích tập thể;lợi ích cá nhân người lao động. _Thành phần kinh t ế tập thể có lợi ích tập thể; lợi ích xã hội;lợi ích cá nhân. _Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có lợi ích của doanh nghiêp;lợi ích của xã hội;lợi ích của cá nhân người lao động. _Thành phần kinh tế cá thể,tiểu chủ có lợi ích cá nhân,lợi ích xã hội. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân có:lợi ích chủ doanh nghiệp;lợi ích cá nhân người lao động;lợi ích xã hội. _Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài;lợi ích của nước chủ nhà; lợi ích của người lao động trong các doanh nghiêp liên doanh. Trong các cơ cấu lợi ích kinht ế ấy,thì lợi ích kinh tế nhà nước(xã hội)giữ vai trò"hàng đầu"và là cơ sở để thực hiện các lợi ích khác,còn lợi ích kinh tế của người lao động là quan trọng,nó thể hiện như là động lực trực tiếp thúc đẩy người lao động. Trong nền kinh tế thị trường,mỗi cá nhân,doanh nghiệp. Chỉ hành động khi họ thấy đựơc lợi ích kinh tế của mình mà không cần thuyết phục hoặc cưỡng bức.Song,vì có nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và vì lợi ích riêng của mỗi cá nhân,vì lợi ích cục bộ,trước mắt có thể làm tổn hai đến lợi ích chung của cộng đồng(tập thể và xã hội).Do đó,nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là người tổ chức cán bộ quản lý và điều hành nền kinh tế vĩ mô phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế và hướng chúng vào một quỹ đạo chung,tạo động lực lâu bền,mạnh mẽ và vững chắc cho sự phát triển. Giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là một vấn đề khá phức tạp và giữ vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc,động lực phát triển xã hội nói chung,phát triển kinh tế thị trường nói riêng.Theo Ph.Angghen,"ở đâu không có lợi ích chung,ở đó không có sự thống nhất về mục đích".Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là tạo ra các điều kiện trong đó việc thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và đảm bảo tính hàng đầu của lợi ích xã hội,cái có lợi đối với xã hội thì phải có lợi ích đối với tập thể, cá nhân và mỗi doanh nghiệp. Đó là nguyên tắc của sự kết hợp kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế phải tính đến sự đan chéo ,chế ước, tác động qua lại giữa các lợi ích kinh tế, đồng thời phải tính toán, một cách toàn diện ,đảm bảo lợi ích trước mắt ,lâu dài, lợi ích toàn bộ,bộ phận. ở nứơc ta hiện nay,sự kết hợp các lợi ích kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy mục tiêu:dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ ,văn minh.Hướng các lợi ích vào quỹ đạo chung và sự kết hợp chúng nhằm tạo ra động lực cho sự phát triển bằng cách: _ Với chức năng tổ chức kinh tế,nhà nước ta động viên mọi người,mọi lực lượng,mọi thành phần kinh tế,thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế 2001-2010. _ Xác định về lượng của mỗi loại lợi ích kinh tế và quan hệ tỷ lệ về mặt lượng giữa các loại lợi ích kinh tế (đây là vấn đề phức tạp) có thể và cần thực hiện bằng các hình thức kinh tế thể hiện ở một số chính sách kinh tế của nhà nước:tiền lương,chính sách giá cả,thị trường,tín dụng,thuế,phân phối lợi nhuận,…. 1.3.Lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn hiện nay Sự say mê làm giàu hiện nay của xã hội ta thực chất là sự say mê các lợi ích kinh tế- lợi ích vật chất. Thế nhưng đời sống con người không phải chỉ có kinh tế, vật chất. Đời sống của một xã hội cũng không phải chỉ có vật chất. Đành rành , vào những thời điểm nhất định của tiến trình phát triển của xã hội, có thể phương diện này hay phương diện kia của đời sống xã hội được ưu tiên ,được tập trung nhiều hơn. Thế nhưng, điều ấy không có nghĩa là hạ thấp hay bỏ qua các mặt các phương diện khác. Sự tồn tại và phát triển của đời sống, xã hội là một quá trình liên tục .Do đó, sự gián đoạn hay gãy khúc của mặt này hay mặt kia của đời sống xã hội bao giờ cũng gây ra những tổn thương, những biến động, thậm chí tạo ra những lực lượng phá vỡ hoặc đẩy lùi quá trình phát triển của toàn thể cộng đồng. Chính vì thế, trong thời gian vừa qua,do bị cuôn hút vào thực hiện các nhu cầu tồn tại tối thiểu- nhu cầu vật chất- mà ta ít có điều kiện quan tâm nhiều đến các phương diện, các khía cạnh khác của cuộc sống xã hôi. Điều đó trong chừng mực nhất định đã dẫn đến việc làm nảy sinh một số vấn đề về văn hoá xã hội khác khá bức xúc. Vì vậy, trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, để phát triển cộng đồng một cách toàn diện và bền vững cần sớm tạo lập một cơ chế kết hợp hài hoà một số quan hệ sau: 1.3.1. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá- xã hội Đây là một quan hệ cơ bản , bao trùm và chi phối hầu như toàn bộ đời sống xã hội. Thế nhưng nó không hề trừu tượng mà hết sức cụ thể trong cộng đồng. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các quan hệ kinh tế thời gian qua cũng gây nên sự thay đổi hết sức căn bản các vấn đề văn hoá- xã hội .Có thể nói ,sự chuyển đổi trong lĩnh vực văn hoá- xã hội chủ yếu mang tính tự phát và có rất nhiều biêủ hiện lúng túng. Những hoạt động văn hoá-xã hội cộng đồng này trước đây vừa được nhà nước bao cấp vừa được các hợp tác xã hay các cấp chính quyền địa phương hỗ trợ về kinh phí. HIện nay, các nguồn kinh phí bao cấp chính không còn nữa. Do vậy, các hoạt động mang tính cộng đồng này hầu như bị bỏ rơi. ở nhiều nơi, nhiều lúc các hoạt động văn hoá tinh thần của cộng đồng cở sở hoặc bị lôi cuốn theo hướng này , hướng khác, hoặc bị xuống cấp, tan rã, mất phương hướng, rối loạn. Như vậy, trong điều kiện chuyển đổi cơ chế hiện nay, lợi ích kinh tế của cá nhân và xã hội ngày càng được thực hiện, nhưng các lợi ích văn hoá-xã hội hướng vào sự phát triển cộng đồng và nhân tính hầu như không được quan tâm một cách đúng mức .Nghĩa là, hiện đang có sự vận động ngược hướng nhau giữa kinh tế và văn hoá- tinh thần trong cộng đồng xã hội, vì thế một số vấn đề văn hoá- xã hội hầu như chưa được quan tâm một cách đúng mức. Nhiều cộng đồng cơ sở càng hoà nhập vào đời sống kinh tế thị trường thì càng trở nên phức tạp hơn. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để tạo lập được một cơ chế linh hoạt:có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đồng thời thúc đẩy sự phát triển phong phú và đa dạng các lĩnh vực văn hoá- xã hội. Nghĩa là, tạo lập được một sự phát triển đồng hành tổng thể của một cộng đồng xã hội. Đó là một cơ chế được thiết lập và chế định thống nhất từ trung ương đến địa phương, được quản lý, điều tiết và tài trợ , tài chính theo các cấp chính quyền của nhà nước. Dĩ nhiên, đây là một cơ chế mở để có thể thu hút và huy động được các nguồn tài chính và tài trợ trong nhân dân. Chỉ có như thế mới tạo cho xã hội phát triển một cách thực sự bền vững. 1.3. 2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội Trong giai đoạn kinh tế thị trường mở cửa hiện nay, sự đề cao lợi ích kinh tế của các chủ thể hoạt động bị quy định bởi tính tất yếu khách quan chứ không phải do ý muốn chủ quan của bất cứ cá nhân nào. Đó chẳng qua chỉ là sự tuân thủ các quy luật khách quan đang chi phối đời sống kinh tế xã hội đất nước Thế nhưng các quy luật khách quan khi xuất hiện và hoạt động thường bị chi phối bởi các ý muốn chủ quan của các chủ thể mà thường mang tính"tự nó" .Do vậy, nó không tính đến khía cạnh tình cảm và nhân văn của con người, cũng không tính đến các duyên nợ quá khứ của các chủ thể hoạt động.Vì lẽ đó, trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế, nhiều vấn đề thuộc về chính sách xã hội đang được đặt ra hết sức cấp bách. Đó là do , xã hội ta vừa bước ra khỏi những cuộc chiến tranh kéo dài và khốc liệt.Xương máu của hàng triệu người đã đổ, tài sản của hàng triệu người đã được huy động ,góp vào cuộc đấu tranh vào nền độc lập tự do của dân tộc. Rõ ràng, khi bước vào xây dựng lại đất nước trong điều kiện hoà bình, trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, ta không thể quay lưng lại với thế hệ qúa khứ của cha anh, không thể để mặc cho những quy luật kinh tế thị trường lạnh lùng chi phối và dẫn dắt xã hội ta. Vấn đề là, trên cơ sở những thành quả hết sức đáng khích lệ do nền kinh tế thị trường mang lại, ta cần sớm tập trung và giải quyết những vấn đề thuộc về chính sách xã hội,có thể khẳng định đây là những vấn đề luôn đặt ra trong mọi xã hội, nhưng riêng với nước ta có những nét rất đặc biệt Thứ nhất,xã hội ta vừa trải qua hai cuộc kháng chiến, sự mất mát với một bộ phận dân cư là vô cùng lớn, không gì bù đắp nổi, chúng ta phải có những chính sách hậu chiến như thế nào để tương ứng với công trạng và những hy sinh của họ. Đây là những khía cạnh hết sức nhạy cảm và nó càng nhạy cảm hơn, do sự phân hoá giàu nghèo ngày càng diễn ra mạnh mẽ trong xã hội ngày nay. Giải quyết đúng đắn vấn đề này là những hành động thực tiễn khẳng định lí tưởng cao đẹp của Đảng và nhà nước ta. Thứ hai, xã hội ta mấy chục năm qua đã thực hiện cơ chế quản lý mang tính bao cấp .Những hạn chế của nó thì không ai có thể bào chữa được nhưng những ưu điểm của nó thì chắc chắn không ai có thể phủ định được. Trong những ưu điểm thể hiện tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa của chúng ta có những vấn đề thuộc chính sách xã hội, trong đó đặc biệt là khía cạnh phúc lợi xã hội và đảm bảo xã hội. Hiện nay chế độ bao cấp bình quân không còn nữa, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng mạnh mẽ thì khả năng và cơ hội của người dân thì ngày càng cách biệt nhau. Sự bất bình đẳng về kinh tế sẽ dẫn đến bất bình đẳng về xã hội. Thói quen, nếp nghĩ và nối sống của thời bao cấp khi va đập vào cơ chế thị trường đã tạo nên những "cú sốc" khá nặng nề về tâm lý đối với không ít người. Vậy làm thế nào để thực hiện được phúc lợi xã hội chung nhằm tạo ra các cơ hội bình đẳng cho mọi người dân , nghĩa là tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người để họ có chung một nền tảng, một điểm xuất phát, cùng hoà nhập, cùng phát triển? Làm thế nào để hạn chế và ngăn chặn xu hướng phát triển chủ nghĩa cá nhân cực đoan và phát huy được tinh thần tập thể , cộng đồng sẵn có trong truyền thống văn hoá , dân tộc? Cố nhiên, nếu kinh tế không phat triển, nếu dân không giàu ,nước không mạnh thì chắc chắn thì không thể thực hiện được những vấn đề chính sách xã hội ở một mức độ nào đó. Thế nhưng, sự tăng trưởng kinh của đất nước trong giai đoạn vừa qua đã bước đầu tạo ra một cơ sở nhất định để thúc đẩy việc thực hiện các vấn đề thuộc về chính sách xã hội như phúc lợi xã hội ,bảo hiểm xã hội và bảo trợ xã hội. Mặc dù xã hội nào cũng có những chính sách xã hội, nhưng do trong điều kiện đặc biệt của xã hội ta mà trong tình hình hiện nay chúng ta cần hết sức quan tâm giải quyết . Đây là những vấn đề lớn của đời sống kinh tế xã hội và chính nó cho thấy tính ưu việt của một chế độ xã hội. Vì vậy , việc giải quyết vấn đề này một cách đúng đắn kịp thời sẽ đóng góp , khẳng định sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển của xã hội ta giai đoạn hiện nay. 1.3.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống: Trong nhiều năm qua chúng ta rất ít quan tâm đến vấn đề môi trường sống- cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vì vấn đề này trong suốt gần nửa thế kỷ qua có thể nói chưa khi nào đặt ra một cách gay gắt, đòi hỏi xã hội phải đầu tư giải quyết như hiện nay. Thực vậy,có thể nói việc quản lý và điều khiển cộng đồng theo mô hình hành chính thống nhất trước đây đã tạo ra một môi trường xã hội thực sự ổn định và thuần nhất. Những chuẩn mực xã hội, những giá trị đạo đức, những đặc trưng cơ bản của con người mới được đề cao tạo nên những khuôn đúc sẵn có về thế hệ con người .Khi ấy, nếu có một người nào đó hay những biểu hiện nào đó khác với khuôn mẫu thì sẽ bị cộng đồng, toàn xã hội nên án,ngăn chặn và cô lập. Bây giờ nhìn lại, ta có thể phê phán những hạn chế của cách quản lý và điều khiển xã hội theo mô hình ấy.Nhưng rõ ràng, môi trường xã hội ngày đó thực sự trong sạch và lành mạnh. Những tệ nạn xã hội như tình trạng phạm pháp, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, buôn lậu…gần như bị loại bỏ ở đời sống xã hội trong nhiều chục năm. Đối với tự nhiên cũng thế. Có lẽ là do trước đây dân cư còn thưa thớt nhu cầu con người còn đơn giản và được quản lý tập trung thống nhất, hơn thế, chúng ta lại được điều kiện tự nhiên ưu đãi , đồng thời cả xã hội ta còn đang dồn sức vào sự nghiệp thống nhất đất nứơc ở một chừng mực nhất định ,có thể nói trong hàng chục năm chúng ta không phải bận tâm đến nạn phá rừng , ô nhiễm môi trường hay chất thải công nghiệp…. Nhưng trong khoảng hơn mười năm trở lại đây nhất là mấy năm qua, vấn đề môi trường sinh sống của xã hội ta nổi lên hết sức gay gắt . a.Môi trường xã hội: Thực hiện kinh tế thị trường , mở cửa và dân chủ hoá đời sống xã hội đã làm thay đổi căn bản diện mạo của xã hội ta . Nét đặc biệt dễ nhận thấy là cùng với sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của con người là sự thay đổi các chuẩn mực xã hội và lối sống. Đáng lo ngại là sự xuất hiện tràn lan những tệ nạn xã hội có nguy cơ không kiểm soát nổi. Đó là những băng nhóm tội phạm có tổ chức và vũ khí đe doạ tài sản , tính mạng của người dân; đó là nạn mại dâm và ma tuý phát triển tràn lan tàn phá những tế bào cuối cùng của xã hội và thách thức giống nòi trước nạn dịch thế kỷ; đó là nạn buôn lậu ,lừa đảo và tham nhũng…những tệ nạn xã hội này dường như đã gặp được môi trường thuận lợi để sinh sôi nảy nở. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội này xét đến cùng thì nguyên nhân kinh tế đóng vai trò cơ bản . Vì những lợi ích kinh tế của cá nhân mình mà những đối tượng này bất chấp tất cả mà không trừ một thủ đoạn nào kể cả giết người. Sự phát triển cực đoan của lối sống cá nhân, lối sống tiêu dùng , sự say mê đời sống vật chất một cách bệnh hoạn đã làm cho không ít người mất nhân tính. Đó thực sự là một nguy cơ đe doạ sự phát triển lành mạnh và ổn định xã hội trong điều kiện hiện nay. b. Môi trường tự nhiên: Không phải chỉ có vấn đề môi trường xã hội đang đứng trước nguy cơ và thách thức lan giải mà môi trường tự nhiên cũng đang đặt ra những vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Cùng với sự tàn phá môi trường tự nhiên, sự cân bằng sinh thái mang tính tổng thể quốc gia, quá trình huỷ hoại quá trình sinh thái cũng đang phổ biến ở tầm vi mô. Chính việc sử dụng một cách vô tội vạ, kém hiểu biết phân hoá học và thuốc trừ sâu với nồng độ cao mà môi trường sống nông thôn bị ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của mọi người. Vấn đề ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng đối với các đô thị lớn của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Hầu như các thành phố đều quá tải , mật độ dân cư quá lớn mà các hạ tầng cơ sở lại thấp kém. Quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng không tuân thủ quy hoạch tổng thể đã phá vỡ môi trường sinh thái và môi trường thẩm mỹ. Các chất thải đô thị và chất thải công nghiệp không được sử lý đã đặc biệt làm ô nhiễm không khí và nguồn nước sinh hoạt…Tất cả những vấn đề gay gắt này đang thách thức sự phát triển các đô thị chúng ta . Như thế , trong giai đoạn hiện nay những vấn đề môi trường sinh sống của con người- cả tự nhiên và xã hội- đang đặt ra hết sức gay gắt đối với sự phát triển của xã hội ta. Kinh tế sẽ không thể tăng trưởng với tốc độ cao, xã hội sẽ không phát triển nếu các tệ nạn xã hội làm cho các đời sống xã hội trở nên rối loạn , bất ổn , không kiểm soát nổi, nếu môi trường tự nhiên bị ô nhiễm và sự cân bằng sinh thái ở tầm vi mô và vĩ mô bị phá vỡ. Vấn đề môi trường sinh sống có tác động tới sinh mệnh của từng con người cụ thể, tưng gia đình cụ thể .Thế nhưng để giải quyết được vấn đề này đòi hỏi vấn đề phả được chú ý ở tầng vĩ mô. Bởi lẽ, mỗi con người chỉ quan tâm đến lợi ích thiết thân của mình. Trong giai đoạn hiện nay, do thúc ép của đời sống thường nhật mà họ chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất trước mắt của bản thân và gia đình. ở đây không thể quy kết đó là sự ích kỷ hay thiên tính của con người mà nên xem là một sự quy luật, một tất yếu kinh tế của cả giai đoạn lịch sử hiện tại buộc các cá nhân phải suy nghĩ và hành động như vậy. Rõ ràng, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề môi trường sống gắn bó hết sức chặt chẽ với khía cạnh lợi ích kinh tế. Trong khi đó, lợi ích kinh tế đang là mối quan tâm hàng đầu của từng cá nhân riêng lẻ cũng như của cả xã hội nước ta . Bài toán đặt ra là, làm thế nào để vừa đạt được những lợi ích kinh tế , lại vừa bảo đảm được môi trường sinh sống trong sạch và lành mạnh . Hẳn là bài toán trước hết phải được giải quyết ở tầm vĩ mô. Và , dĩ nhiên, không phải chỉ quy giản ở vấn đề lợi ích kinh tế của cá nhân và các nhóm người , mà cần đặt nó trong các quan hệ rộng lớn hơn. Đó là không chỉ dừng lại ở tầm chiến lược phát triển kinh tế chiến lược xã hội mà hơn thế cần phải có những cơ chế thực thi và kiểm soát thực hiện cụ thể các chiến lược đó như thế nào. Dĩ nhiên, cơ chế đó cần thể hiện một cách trung thành , nhất quán tính thống nhất và đồng bộ của chiến lược, sao cho sự triển khai chiến lược và đường lối tạo lập được sự phát triển hài hoà giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích trứơc mắt va lợi ích lâu dài. Tóm lại, trong quá trình tăng tốc sự phát triển hiện nay một vấn đề mang tính nguyên tắc là phải quản lý một cách sát sao và không ngừng điều tiết để tạo lập được các mối quan hệ thống nhất và hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa con người và tự nhiên. Có tạo lập được sự hài hoà và thống nhất hai mối quan hệ nêu trên , chúng ta mới thực sự đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển toàn diện và bền vững. Có như thế chúng ta mới từng bước thực hiện được lý tưởng tốt đẹp của Đảng và nhân dân ta, đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. chương 2 Các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam Lý luận về phân phối có vị trí quan trọng trong kinh tế chính trị.Nó là vấn đề rộng lớn ,liên quan đến các hoạt động kinh tế,văn hoá,xã hội…của nhà nước và nhân dân lao động.Phần này không trình bày toàn bộ vấn đề chi phối mà chỉ bàn về phân phối thu nhập quốc dân ,hình thành thu nhập của các tầng lớp dân cư.Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển ,ổn định tình hình kinh tế-xã hội ,nâng cao đời sống nhân dân,thực hiện mục tiêu dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ ,văn minh. 2.1.bản chất và vị trí của phân phối: 2.1.1.Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội Quá trình táI sản xuất xã hội,theo nghĩa rộng,gồm 4 khâu: + Sản xuất +Phân phối +Trao đổi +Tiêu dùng Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó khâu sản xuất là khâu cơ bản đóng vai trò quyết định; các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất, nhưng chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng tới nhau.Trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất và tiêu dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất,vừa phục vụ tiêu dùng. Phân phối bao gồm: Phân phối cho tiêu dùng sản xuất (sự phân phối cho tư liệu sản xuất, sức lao động của xã hội vào các ngành sản xuất) là tiền đề ,đIều kiện và là một yếu tố sản xuất , nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất,phân phối thu nhập quốc dân hình thành của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản vật của sản xuất, song sự phân phối có ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất . Ph.Angghen viết:" Phân phối không phải chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi: nó cũng có tác động trở lại sản xuất và trao đổi." Nó cũng có liên quan mật thiết với việc ổn định tình hình kinh tế- xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Như vậy,phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu nhập quốc dân và nó được thực hiện dươí các hình thái: + Phân phối hiện vật + Phân phối dưới hình thái giá trị +Phân phối qua quan hệ tài chính + Phân phối qua quan hệ tín dụng …………. 2.1. 2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất: C.Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất :"quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất ấy,rằng chúng cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy". Xét về quan hệ giữa người với người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định.Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau.Sự biến đổi lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối.Quan hệ phân phối có tác dụng trở lại đối với quan hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất: có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu, hoặc cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu. Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất ,vừa có tính lịch sử . Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ,trong bất cứ xã hội nào,sản phẩm lao động cũng được phân chia thành: + Một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất + Một bộ phận để dự trữ + Một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội + Một bộ phận cho tiêu dùng của cá nhân Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó,nghĩa là quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối có tính chất lịch sử. C.Mác viết"Quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một quan hệ sản xuất lịch sử nhất định." Do đó,mỗi hình thái phân phối đều biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với các hình thái phân phối ấy.Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hoá được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy.Phân phối có quan hệ rất lớn đối với sản xuất nền nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới,để phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa 2.2.Các hình thái phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 2.2.1 Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc đIểm kinh tế_ xã hội nước ta,trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập.Đó là vì: Thứ nhất,nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần,có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác nhau. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất ,kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuất- kinh doanh khác nhau.Ngay trong mỗi thời kỳ, kể cả thành phần kinh tế nhà nước cũgn có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả và thu nhập là khác nhau. Hơn nữa,trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường, thậm chí khác nhau cả may mắn… Do đó, khác nhau về thu nhập. Vì vậy , không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có nhiều hình thức khác nhau. 2.2.2.Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định và Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định đIều đó:"Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất- kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội ". a.Phân phối theo lao động: Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn của các thành viên bằng nhau ( kinh tế hợp tác). Các thành phần kinh tế này đều dựa trên chế độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất ,nên tất yếu cũng làm chủ phân phối thu nhập.Vì vậy,phân phối phải vì lợi ích của người lao động. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản,tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cũng không thể phân phôí bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động. Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất là vì: _ Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu.Vì phân phối do sản xuất quyết định, cho nên C.mác đã viết:" Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định" _ Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống hiến khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội của mỗi người để phân phối. _Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ và quyền lợi ,hơn nữa còn những tàn dư ý thức, tư tưởng của xã hội cũ để lại như : coi khinh lao động ,ngại lao động chân tay, chây lười, thích làm ít hưởng nhiều,so bì giữa cống hiến và hưởng thụ… Trong những điều kiện đó , phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm, người giỏi, giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự cống hiến của họ. Đây cũng là hình thức nhằm khắc phục những tàn dư tư tưởng của xã hội cũ, không chỉ trong thời kỳ quá độ mà cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xác lập, phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối chủ yếu Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật này, người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không hưởng; lao động có kỹ thuật cao, lao động ở những ngành nghề độc hại trong những điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập thích đáng. Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là: _Số lượng lao động được đo bằng thời gian lao động hoặc số lượng của sản phẩm làm ra. _ Trình độ thành thạo lao động và chất lượng thành phẩm làm ra _ Điều kiện và môi trường lao động: + Lao động nặng nhọc + Lao động trong hầm mỏ + Lao động ở những vùng có nhiều khó khăn,x a xôi hẻo lánh như miền núi ,hải đảo ,… _ Tính chất của lao động _ Các ngành nghề được khuyến khích Phân phối theo lao động được thực hiện qua những hình thức cụ thể như: _ Tiền công trong các đơn vị sản xuất_ Kinh doanh _ Tiền thưởng _ Tiền phụ cấp _ Tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp Phân phối theo lao động có tác dụng: _ Thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm,thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, xây dựng tinh thần và thái độ lao động đúng đắn, khắc phục những tàn dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động _ Thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp,trình độ văn hoá, ổn định lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động xã hội _ Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động ,vừa đảm bảo tái sản xuất, sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện của người lao động phát triển toàn diện. Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình thức phân phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liêụ sản xuất. Tuy vây, theo C.Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ:" Pháp quyền tư sản", tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp; sự bình đẳng đó còn thiếu sót là" với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia" Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi nào cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân , năng suất của họ càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào thì khi đó người ta mới có thể vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu . Chỉ khi đó mới có sự bình đẳng thực sự. b. Các hình thức phân phối khác: ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất- kinh doanh. Do đó , ngoài hình thức phân phối theo lao động, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các hình thức phân phối thu nhập khác.Đó là: _ Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và phân phối theo lao động. _ Trong thành phần kinh tế cá thể ,tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất, kinh doanh của chính những người lao động _ Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản… c. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội: Để nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên ,xã hội còn được thực hiện thông qua quỹ phúc lợi, tập thể và xã hội. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sự quan trọng vì nó góp phần : _ Phát huy tính tích cực lao động của mọi thành viên trong xã hội _ Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. _ Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới _ Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có ý nghĩa tích cực khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan. Tính hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau: _Quỹ phúc lợi tập thể, xã hội không thể mở rộng quá khả năng của nền kinh tế cho phép. _ Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội. _ Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu qủa, tiết kiệm ,hợp lý các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết thực, tránh lãng phí xa hoa, phô trương hình thức. Vì các quỹ này có quan hệ với lợi ích thiết thân của mỗi thành viên tập thể cộng đồng, cho nên cần phát huy đầy đủ dân chủ, trưng cầu ý kiến của quảng đại quần chúng, sao cho mỗi loại phúc lợi đều có thích hợp với nhu cầu bức thiết của quần chúng, phát huy được tác dụng vốn có của nó. _ Quỹ phúc lợi xã hội là chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia đóng góp . d. Phân phối theo vốn và tài sản: Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định. Nếu thành phần kinh tế quốc doanh tập thể phân phối theo lao động, thì các thành phần kinh tế khác lại có những hình thức phân phối khác, rất đa dạng, rất khác nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất tính định hướng xã hội chủ nghĩa bởi chúng ta đảm bảo nguyên tắc lấy phân phối theo lao động làm chính nhưng đồng thời sử dụng các hình thức phân phối khác, miễn là nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế của đất nước và thực hiện nó có tác dụng tốt cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng như phù hợp với lợi ích người lao động; người lao động bằng lòng chấp nhận nó. Điều này thể hiện ở hình thức phân phối theo tài sản, vốn, những đóng góp khác... Đây là hình thức phân phối thích hợp với điều kiện của đất nước ta trong giai đoạn quá độ. Vì do đặc điểm nước ta trong thời kỳ này là đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ. Tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là phổ biến. Quá trình sản xuất, tích tụ, tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn lại nằm trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ... Để sử dụng nguồn vốn này, chúng ta không thể sử dụng cách chính sách áp đặt như trưng thu, đóng góp cổ phần một cách bình quân. Những biện pháp đó chỉ làm suy yếu lực lượng sản xuất xã hội. Do đó, từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI), ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn dưới những hình thức như vay vốn, góp cổ phần không hạn chế, trả mức lãi hợp lý... Cách làm như vậy đã không những góp phần tăng lượng vốn vào quá trình chu chuyển mà khu vực kinh tế quốc doanh lại được sử dụng nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Đồng thời, mặc dù vốn của tư nhân nhưng sử dụng đã mang tính xã hội. Với quan điểm đổi mới này, chúng ta chấp nhận việc phân phối kết quả của sản xuất kinh doanh dưới hình thức "lợi tức" và "lợi nhuận", và pháp luật bảo vệ những thu nhập hợp pháp đó. 2.3.Từng bước thực hiện công bằng xã hôi trong phân phối thu nhập Chủ nghĩa xã hội phát triển mới có điều kiện để thực hiện một bước cơ bản về công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đảng và nhà nớc ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vẫn tồn tại bất bình đẳng về phân phối thu nhập . Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề , những biện pháp để từng bước thu hẹp và xoá bỏ sự bất bình đẳng đó, tiến tới một xã hội" không có chế độ người bóc lột người, một xã hôi bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, ai không làm thì không hưởng" Để đạt mục tiêu này,từ thực tiễn nước ta cần phải thực hiện: 2.3.1.Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất Bởi như Ph.Anghen , phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối 2.3.2 Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công ,tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bất hợp lý, bất chính Để từng bước thực hiện phân phối công bằng hợp lý ,cần có chính sách phân phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản xuất sức lao động.Gắn chặt tiền công , tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu qủa sẽ đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề .Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, cần phải tiền tệ hoá tiền lương và thu nhập, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối. 2..3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta một mặt phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể , cá nhân là khách quan; mặt khác, nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, bằng cách điều tiết thu nhập và các giải pháp quản lý. Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường nói chung, ngay cả trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải điều tiết thu nhập nhằm duy trì sự ổn định xã hội. ở nứơc ta việc điều tiết thu nhập càng quan trọng, nhằm hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập để không dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. Điều tiết thu nhập được thực hiện thông qua hình thức : _Điều tiết giảm thu nhập thông qua hình thức thuế thu nhập và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội , từ thiện… Trong đó thuế thu nhập là hình thức quan trọng nhất chủ yếu nhất và điều tiết làm tăng thu nhập được thực hiện thông qua ngân sách nhà nước, ngân sách của các tổ chức chính trị- xã hội, các quỹ bảo hiểm qua giá, trợ cấp, phụ cấp các loại, tín dụng tiêu dùng và có thể một phần hiện vật cho một số đối tượng nhất định , qua các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân. Những điều đó nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập thấp, trợ giúp những người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro, những người thuộc diện chính sách xã hội , bổ xung thu nhập mang tính chất bình quân trong các tổ chức, trong các doanh nghiệp vao các dịp lễ tết… 2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu,nứơc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nước mạnh mới có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Vì vậy, phải phát huy nỗ lực làm giàu cho mọi công dân. Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp lý, hợp pháp mà còn tạo điều kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, Mọi công dân đều được tự do hành nghề , thuê mứơn nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm. Phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước .Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tìm kiếm việc làm. Thực hiện xoá đói giảm nghèo , đền ơn đáp nghĩa bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Để từng bứơc đạt tới sự tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, xuấtphát từ điều kiện cụ thể, nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kết luận Ngày nay Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo con đường mà Đảng và nhà nước đã lựa chọn là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó lấy kinh tế nhà nước làm trung tâm cho mục tiêu phát triển. Chính vì tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên lợi ích kinh tế của từng thành phần là không giống nhau. Nhưng bản thân mỗi thành phần kinh tế lại luôn muốn lợ ích cao nhất cho mình. Chính vì lễ đó bài nghiên cứu sẽ như một kim chỉ nam giúp cho những nhà hoạch định kinh tế của đất nước nói chung và các nhà doanh nghiệp nói riêng có thể tự tìm cho mình một hướng đi đúng đắn và phù hợp. Bài nghiên cứu cũng nhấn mạnh cho người đọc hiểu được rằng: vấn đề cơ bản để đáp ứng được lợi ích kinh tế là cao nhất đó chính là khi mục đích, lý tưởng và hành động của các chủ thể kinh tế phảI nhất trí với nhau. Muốn vậy thì vấn đề trước mắt đặt ra cho các doanh nghiệp là phải đáp ứng được công bằng mong muốn của các chủ thể. Đó chính là phải quan tâm tới việc phân phối thu nhập phù hợp cho các đối tượng lao động khác nhau. Sao cho họ cảm thấy thoả đáng nhờ đó thúc đẩy được mong muốn và lòng say mê lao động, góp phần đạt lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế của đất nước nói chung. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Mạc dù quan hệ phân phối có sự đan xen giữa tính chất phân phối của các thành phần kinh tế nhưng trong đó tính chất phân phối của các thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Do nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nên tất yếu tồn tại nhiều quan hệ phân phối thu nhập. Ví như trong các doanh nghiệp nhà nước vốn và tài sản đều là của chung do vậy không thể lấy vốn và tài sản làm thước đo mà buộc phải lấy số lượng và chất lượng lao động làm cơ sở phân phối. Do đó hình thức phân phối thu nhập theo lao động. Cùng tồn tại tương ứng với quan hệ sở hữu tập thể, sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất thì. Với đặc trưng của nền kinh tế nhiều thanh phần thì hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng kéo theo hình thức phân phối thu nhập khác nữa cho Việt Nam. Đó là phân phối theo vốn, tài sản và các nguồn lực khác. Đặc biệt là trong giai đoạn ngày nay khi bước đầu hình thành các công ty cổ phần tại nước ta thì hình thức nay càng thể hiện rõ nét thông qua lợi tức cổ phần mà các cổ đông nhận được tương ứng từ số vốn mà các cá nhân trong hội đồng quản trị bỏ ra đẻ mua cổ phiếu. Không chỉ dừng lại ở việc góp chung vồn kinh doanh mà từng bước đã hình thành rất nhiều các loại góp vốn khác nhau như góp tư liệu sản xuất, đầu tư yếu tố sản xuất, máy móc, nhà xưởng và các nguồn lực khác. Cùng với các hình thức phân phối thu nhập như đã nêu thì ở Việt Nam ta còn tồn tại phân phối thông qua phúc lợi tập thể và xã hội. Mỗi hình thức phân phối lại tỏ ra có một ưu thế nhất định, một khả năng riêng. Nhưng tất cả đếu hướng tới mục đích công bằng xã hội, dân chủ văn minh. Vì thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức sinh viên năm đầu còn hạn chế. Nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự góp ý và nhận xét từ phía các thầy các cô cũng như các bạn sinh viên để bài viết có thể hoàn chỉnh và có khả năng thực tiễn cao. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy Cần đã giúp đỡ em trong việc hoàn thành bài viết này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKC026.doc