Tóm tắt
Trên cơ sở xem xét chính sách tỷ giá của Việt Nam trong gần hai thập niên gần đây, trong bối
cảnh thế giới có nhiều biến động gần đây, bài nghiên cứu này khuyến nghị rằng nhanh chóng dịch
chuyển sang cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý là lựa chọn khôn ngoan cho Việt Nam trong thời gian tới.
Việt Nam đã hội tụ đủ một số các điều kiện quan trọng như giá cả của hầu hết các loại hàng hóa đã
vận hành theo cơ chế thị trường, và tuy có độ mở của nền kinh tế lớn nhưng Việt Nam không phụ
thuộc quá nhiều vào một đối tác thương mại nào. Để chính sách tỷ giá thả nổi có kiếm soát thực sự
phát huy tác dụng, làm nâng uy tín của VND, thì Việt Nam cần phải chuẩn bị thêm một số điều kiện
khác như (i) xây dựng một ngân hàng trung ương hoạt động tương đối độc lập có nhiệm vụ chính là
kiếm soát lạm phát theo mục tiêu và (ii) xây dựng thị trường ngoại hối hiện đại sao cho có nhiều sản
phẩm phái sinh liên quan đến ngoại hối có tác dụng phòng ngừa và chia sẻ rủi cho cho nền kinh tế và
hấp dẫn được nhiều tác nhân kinh tế tham gia.
Trong quá trình chuẩn bị các điều kiện còn thiếu để chuyển hẳn sang cơ chế tỷ giá thả nổi có
quản lý, NHNN cũng cần có những biện pháp nhằm giảm bớt những hạn chế của cơ chế điều hành tỷ
giá hiện tại. Công khai thường kỳ chính sách tỷ giả, áp dụng các chính sách lãi suất để nâng cao uy tín
VND, và áp dụng một số biện pháp thuế quan ở mức hợp lý nhằm giảm áp lực giảm giá VND là các
chính sách cần quan tâm trong thời gian tới.
Mục lục
Dẫn nhập 5
Xu hướng áp dụng các chế độ tỉ giá trên thế giới 6
Xu hướng gần đây 6
Xu hướng 1: chuyển dịch mạnh từ chế độ hai (nhiều) tỉ giá (dual or multiple exchange rates) sang chế độ tỉ
giá thống nhất (unified exchange rate) 6
Xu hướng 2: dịch chuyển về hai thái cực chế độ tỉ giá . 10
Các xu hướng lớn về tỉ giá trên thế giới sau khủng hoảng 2007-2009 11
Cơ chế tỉ giá và diễn biến tỉ giá của Việt Nam từ 1989 tới nay .14
Cơ chế tỉ giá 14
Diễn biến tỉ giá .18
Tỉ giá thực: RE và REER .22
Dự báo tỉ giá .27
Lựa chọn chính sách tỉ giá .28
Chính sách ổn định tỉ giá và việc kiểm soát lạm phát 30
Chính sách tỉ giá và cán cân thương mại .33
Những lưu ý cuối cùng .38
Tài liệu tham khảo .40
Phụ lục bài nghiên cứu .42
Hộp 1. Phương pháp và kết quả dự báo tỉ giá ngắn hạn . 42
Hộp 2. Một số phương pháp và kết quả dự báo tỉ giá các đồng tiền lớn của giới chuyên gia tài
chính . 43
Hộp 3. Các công cụ của một ngân hàng Trung ương hiện đại 45
48 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1774 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lựa chọn chính sách tỷ giá trong bối cảnh phục hồi kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ba tháng cuối năm đã
tăng mạnh so với ba tháng đầu năm, chiếm 30% tổng giá trị nhập khẩu cả năm 2009. Giá trị
xuất khẩu trong cả năm giảm 10% so với năm 2008 chủ yếu do mặt bằng giá xuất khẩu giảm
đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Mặc dù xuất khẩu tăng vào cuối năm
nhưng trong tháng 11, nhập siêu lên tới hơn 2 tỉ USD, mức lớn nhất trong cả năm.
8 Tỉ giá NHTM là tỉ giá giao dịch của các NHTM và phải nằm trong biên độ dao động do NHNN công bố.
21
Hình 5. Tỉ giá VND/USD và biên độ dao động, 2008-2009
Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Nhà nước (2010)
Thêm vào đó, chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế đã khiến cho
nhu cầu về USD càng tăng để phục vụ việc nhập khẩu vàng. Giá vàng và giá USD đều đã
tăng mạnh. Người dân đẩy mạnh mua ngoại tệ trên thị trường tự do, giá USD trên thị trường
chợ đen tăng mạnh. Do khan hiếm nguồn cung USD, các doanh nghiệp cũng phải nhờ viện
đến thị trường chợ đen hoặc phải cộng thêm phụ phí khi mua ngoại tệ tại các ngân hàng
thương mại. Tâm lí hoang mang mất lòng tin vào VND làm tăng cầu và giảm cung về USD
đã đẩy tỉ giá thị trường tự do tăng lên hằng ngày. Người dân lo ngại thực sự về khả năng phá
giá tiền VND, sau khi một số báo cáo của các định chế tài chính được công bố.
Và đến 26/11/2009, NHNN đã buộc phải chính thức phá giá VND 5,4%, tỉ lệ phá giá cao
nhất trong một ngày kể từ năm 1998 để chống đầu cơ tiền tệ9 và giảm áp lực thị trường, đồng
thời thu hẹp biên độ dao động xuống còn +/-3%. Cùng với chính sách tỉ giá, vào thời điểm
này NHNN đã nâng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%/năm. Các chính sách này được cho là hợp lí
nhưng khá muộn màng. Đồng Việt Nam tiếp tục mất giá trên thị trường tự do thể hiện qua
việc tỉ giá trên thị trường tự do vào thời điểm cuối năm 2009 vẫn đứng vững ở mức cao
khoảng 19.400 VND cho 1 USD và các NHTM tiếp tục giao dịch ở mức trần.
9 Cuối tháng 12 năm 2008, NHNN đã phá giá VND 3%.
15.000
15.500
16.000
16.500
17.000
17.500
18.000
18.500
19.000
2/1/08 29/4/08 19/8/08 31/12/08 8/5/09 1/9/09 24/12/09
Tỷ giá chính thức Biên độ trên
Biên độ dưới Tỷ giá NHTM
22
Hình 6. Tỉ giá chính thức và tỉ giá thị trường tự do VND/USD, 2009
16.000
16.500
17.000
17.500
18.000
18.500
19.000
19.500
20.000
2/
01
/2
00
9
21
/0
1/
20
09
18
/0
2/
20
09
10
/0
3/
20
09
27
/0
3/
20
09
21
/0
4/
20
09
13
/0
5/
20
09
1/
06
/2
00
9
18
/0
6/
20
09
8/
07
/2
00
9
28
/0
7/
20
09
17
/0
8/
20
09
7/
09
/2
00
9
25
/0
9/
20
09
14
/1
0/
20
09
3/
11
/2
00
9
23
/1
1/
20
09
10
/1
2/
20
09
29
/1
2/
20
09
Tỷ giá thị trường
Tỷ chính thức
Tỷ giá NHTM
Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nhà nước và các nguồn khác (2010)
Tình hình thị trường ngoại hối trong năm 2009 có thể đã trầm trọng hơn nếu không có
(i) sự sụt giảm nhu cầu ngoại tệ do thu nhập từ đầu tư do các doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài chuyển ra khỏi Việt Nam giảm (trong năm 2009 ước đạt - 3 tỉ USD, so với -4,4 tỉ
USD năm 2008) và (ii) sự gia tăng cung ngoại tệ do lượng kiều hối vẫn đứng vững ở con số
khá tích cực hơn 6 tỉ USD. FDI giải ngân ước đạt 10 tỉ USD. Đầu tư gián tiếp nước ngoài
chảy ra khỏi Việt Nam vào đầu năm nhưng cũng có dấu hiệu đảo chiều vào cuối năm.
Rõ ràng, NHNN đã thể hiện sự lưỡng lự và không nhất quán trong chính sách tỉ giá.
Việc sử dụng biên độ tỉ giá thay cho việc phá giá chính thức vào tháng 3/2009 cũng không
có tác dụng như mong muốn. Trong cả năm, bất chấp các biện pháp hành chính (như yêu
cầu các tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho chính phủ) cũng như các công bố của lãnh
đạo NHNN, NHNN đã không thể kéo tỉ giá thị trường tự do về sát với tỉ giá NHTM như
mong muốn. Thêm vào đó, do phải giữ ổn định tỉ giá trong thời gian dài, NHNN đã phải
bán ra hơn một lượng lớn USD làm giảm dự trữ ngoại hối. Vào cuối năm 2009, kì vọng mất
giá của đồng tiền Việt Nam hiện vẫn còn khá lớn.
Tỉ giá thực: RE và REER
Để hiểu rõ xu hướng biến động của tỉ giá VND/USD và từ đó đánh giá mối quan hệ giữa tỉ
giá và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác cần xem xét tỉ giá thực tế trong thập niên qua. Tỉ giá thực tế
(RE) là tỉ giá đã được điều chỉnh để loại trừ yếu tố lạm phát của hai nước liên quan. Tỉ giá danh
23
nghĩa là tỉ giá chính thức.
Hình 7. Tỉ giá thực tế và tỉ giá danh nghĩa VND/USD, 2000-2009
(năm 2000 là năm gốc)
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu
của Ngân hàng Nhà nước và IFS (2010)
8.000
10.000
12.000
14.000
16.000
18.000
20.000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tỷ giá danh nghĩa
Tỷ giá thực tế
24
Bảng 3. Chỉ số tỉ giá thực của các đồng tiền so với USD
(năm 2000 là năm gốc)
Đơn vị tính: %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Nhân dân tệ 100,00 101,67 104,95 104,11 104,07 103,85 100,64 91,90 84,30 84,87
Euro 100,00 105,12 88,56 73,50 68,70 80,51 72,30 65,32 68,45 66,56
Yên Nhật 100,00 118,75 111,19 101,61 101,73 120,05 123,32 122,18 97,60 102,48
Đôla Singapore 100,00 109,50 104,95 103,97 101,74 106,15 99,16 93,35 89,11 89,30
Đôla Đài Loan 100,00 109,64 111,24 110,66 105,35 110,18 110,61 111,18 108,92 107,96
Đôla Úc 100,00 108,49 96,87 72,80 70,50 75,53 69,31 62,90 84,35 65,14
Won Hàn Quốc 100,00 103,03 92,01 90,71 78,54 77,67 71,34 72,34 93,80 85,95
Baht Thái 100,00 105,00 103,27 95,10 93,96 96,88 84,86 79,26 82,63 77,91
Ringgit Malaysia 100,00 100,36 101,36 102,10 103,11 103,05 95,43 91,04 92,13 91,39
VND 100,00 104,57 105,24 105,68 100,13 96,29 93,02 85,84 76,40 76,63
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu của NHNN, WEO và IFS (2010)
25
Nếu nhìn lại tỉ giá của VND so với USD trong cả thập kỷ qua có thể thấy mặc dù tỉ giá
danh nghĩa có xu hướng tăng lên rõ rệt đặc biệt là từ năm 2007. Tỉ giá thực tế lại hoàn toàn
theo chiều ngược lại và khoảng cách giữa hai tỉ giá ngày càng mở rộng đặc biệt là hai năm
2008 và 2009. So với năm 2000, chỉ số CPI (đại diện cho mức độ lạm phát trong nền kinh tế)
của Việt Nam trong năm 2009 đã tăng tới xấp xỉ 99,5%, của Mỹ tăng 23,7%, trong khi đó tỉ
giá danh nghĩa đồng Việt Nam chỉ tăng xấp xỉ 23,6%. Như vậy, nếu lấy năm 2000 làm gốc
thì đồng Việt Nam đã lên giá thực tế xấp xỉ 23,37%.
Ngoại trừ so với đồng Yên Nhật và đồng đôla Đài Loan, đồng USD cũng đã mất giá khá
nhiều so với đồng tiền của các đối tác thương mại lớn của Việt Nam (xem Bảng 3). Nhưng
mặc dù cùng lên giá theo chiều hướng chung, nhưng đồng Việt Nam vẫn lên giá nhiều hơn so
với các đồng tiền đôla Singapore, Won Hàn Quốc, Ringgit Malaysia và Baht Thái. Sự lên giá
thực của đồng Việt Nam làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam trên thị trường thế giới.
Để có thể hình dung mức độ lên giá của đồng Việt Nam, chúng tôi ước tính thêm tỉ
giá hữu hiệu (NEER) và tỉ giá thực hữu hiệu (REER) của đồng Việt Nam. Giỏ tiền tệ mà
chúng tôi lựa chọn ở đây là 10 đồng tiền của các đối tác thương mại chính của Việt Nam,
chiếm trung bình trên 80% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tỉ giá thực của
từng đồng tiền được tính với đồng Việt Nam sau đó quy về một năm gốc (năm 2000). Tỉ
giá thực hữu hiệu là bình quân gia quyền với tỉ trọng là tỉ trọng thương mại với Việt Nam
của từng nước có đồng tiền tương ứng. Theo cách tích này thì đến nay đồng tiền Việt
Nam đã lên giá thực tế 12% so với đồng tiền của 10 đối tác thương mại chính của Việt
Nam so với năm 2000.
Công thức được sử dụng để tính NEER và REER như sau:
∏
=
=
n
j
w
jtt
jteNEER
1
)(
∏
=
=
n
j
w
t
jt
jtt
jt
P
P
eREER
1
)(
Trong đó:
• t là thời gian theo năm
• n=10 là số lượng các đối tác thương mại chính của Việt Nam
• ejt tỉ giá danh nghĩa của đồng tiền nước j so với VND tại năm t và được tính theo chỉ
số. Lưu ý là tỉ giá ở đây cũng được tính là số VND cần để đổi lấy 1 đơn vị tiền tệ nước j
26
• Pt là chỉ số giá hàng hóa trong nước
• Pjt là chỉ số giá hàng hóa ở nước j
Hình 8. Tỉ giá thực hữu hiệu ở Việt Nam (năm 2000 là năm gốc)
Đơn vị tính: %
60
70
80
90
100
110
120
130
140
150
160
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
NEER
REER
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu của NHNN, WEO và IFS (2010)
Hình 8 cũng cho thấy, vận động của tỉ giá hối đoái danh nghĩa giai đoạn 2000-2003 về cơ
bản là đúng theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Do cả NEER và REER đều tăng, tức VND đã
mất giá làm hàng Việt Nam hấp dẫn hơn về giá so với hàng hóa của các nước khác. Rõ ràng
chế độ tỉ giá này đã có tác dụng góp phần phục hồi nền kinh tế sau những tác động mạnh của
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Tuy nhiên, từ năm 2004 trở đi, do tốc độ lạm phát thường
xuyên cao hơn rất nhiều so với tốc độ mất giá danh nghĩa của VND, tỉ giá chính thức đã dần rời
xa tỉ giá thực, đồng Việt Nam lên giá thực tế khá mạnh khiến cho hàng Việt Nam kém hấp dẫn
hơn về giá so với hàng hóa của các nước khác. Thực tế, nhập siêu lớn trong những năm gần đây
là một minh chứng thuyết phục nhất cho những tác động của việc VND lên giá.
Hình 9 so sánh các ước lượng đã có về REER của IMF và Nguyễn Trần Phúc và Nguyễn
Đức Thọ (2009) với ước lượng của chúng tôi. Có thể thấy, các ước lượng tương đối theo sát nhau
và cùng phản ánh sự giảm giá của VND so với đồng tiền các đối tác thương mại của Việt Nam
vào những năm đầu thập kỷ này và xu hướng tăng giá thực của VND trong những năm gần đây.
27
Hình 9. Các ước lượng của tác giả, N&N và IMF về tỉ giá thực hữu hiệu
của VND (năm 2000 là năm gốc)
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu của NHNN, WEO, IFS
và Nguyễn Trần Phúc và Nguyễn Đức Thọ (2009)
Ghi chú: Nguyễn và Nguyễn (N&N) là Nguyễn Trần Phúc và Nguyễn Đức Thọ (2009).
Rõ ràng, trong giai đoạn 2004-2009 tỉ giá VND đã đi chệch quỹ đạo khuyến khích xuất
khẩu và đã liên tục lên giá. Điều này sẽ tạo áp lực lớn lên chính sách tỉ giá trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế, giá trị xuất khẩu giảm sút trong khi nguồn cung ngoại tệ qua đầu tư gián
tiếp, trực tiếp cũng giảm.
Nỗ lực của NHNN trong việc giảm giá VND vào cuối năm 2009 đã giúp đảo chiều phần
nào xu hướng lên giá của VND hiện nay. Tuy nhiên, chỉ số REER năm 2009 vẫn cho thấy so
với năm 2000 thì VND vẫn lên giá nhiều so với các đồng tiền các nước bạn hàng. Điều này
khiến cho hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và kéo
dài tình trạng nhập siêu lớn của Việt Nam đặc biệt là trong những năm gần đây.
Dự báo tỉ giá
Dự báo tỉ giá một cách chính xác là một việc rất khó. Tuy nhiên, dựa vào các mô hình
kinh tế hiện có kết hợp với những dự báo về các biến động cung cầu ngoại hối ở Việt Nam,
0
20
40
60
80
100
120
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Ước lượng của tác giả Ước lượng của IMF
Ước lượng của Nguyễn và Nguyễn
28
chúng ta cũng có thể dự báo được trong ngắn hạn xu hướng biến động của tỉ giá trong năm
2010.
Trong ngắn hạn, áp lực nhập siêu vẫn còn nghiêm trọng do kinh tế thế giới mới chỉ vượt
qua đáy khủng hoảng mà chưa có dấu hiệu hồi phục vững chắc, và cũng không loại trừ khả
năng nguồn vốn FDI sẽ giảm bớt và các dòng vốn đầu tư gián tiếp đảo chiều nếu các chỉ số vĩ
mô không được tiếp tục cải thiện trong năm 2010. Vì thế, tỉ giá có thể sẽ vẫn tiếp tục tăng
trong những năm tới, với tỉ lệ mất giá ít nhất là ngang bằng năm 2009 (5.5%).
Từ mô hình VECM (xem Hộp 1 trong Phụ lục bài nghiên cứu), chúng tôi ước lượng tỉ giá
danh nghĩa cho các quý năm 2010 như sau:
Như vậy theo dự báo, tỉ giá sẽ tiếp tục tăng trong các quý tiếp theo, theo đó, Quý I năm
2010, tỉ giá trung bình có thể đạt 18.341 đồng, các quý tiếp theo tăng dần và đến kỳ cuối năm
2010, tỉ giá trung bình dự báo là 18.941 đồng. Cần lưu ý đây là mức tỉ giá chính thức dự báo
được cho là phù hợp trong những quý tiếp theo, nếu tỉ giá chính thức được gắn với USD
trong những điều kiện như hiện tại.
Bảng 4. Dự báo tỉ giá VND/USD 2010
Đơn vị tính: VND
Quý Tỉ giá dự báo Khoảng tin cậy 95%
Quý I/ 2010 18341 17813 - 18886
Quý II/ 2010 18539 17705 - 19412
Quý III/ 2010 18748 17668 - 19894
Quý IV/2010 18941 17645 - 20332
Nguồn: Tính toán của tác giả
Lựa chọn chính sách tỉ giá
Thực tiễn xu hướng vận động của các đồng tiền cũng như hệ thống tiền tệ thế giới cho
thấy các nước trên thế giới có xu hướng chuyển dịch từ cơ chế tỉ giá cố định sang cơ chế tỉ
giá thả nổi có quản lí. Điểm yếu của cơ chế tỉ giá cố định trong giai đoạn bản vị vàng (vào
đầu thế kỷ 20), giai đoạn Bretton Woods (từ sau Đại chiến thế giới lần thứ 2) cũng như cơ
chế “con rắn châu Âu” (European Snake) mà từ năm 1979 đến 1992 đã trở thành Hệ thống
tiền tệ châu Âu (EMS) chính là việc dự trữ vàng/ngoại hối bị cạn kiệt cùng với lạm phát
tăng cao khiến cho việc duy trì một tỉ giá cố định không thể kéo dài. Các đồng tiền lớn trên
29
thế giới đều lần lượt được thả nổi sau sự tan rã của các hệ thống tiền tệ thế giới này. Trong
những thập kỷ gần đây, cơ chế tỉ giá cố định cũng bộc lộ những điểm yếu chết người ở các
nước đang phát triển khi dòng vốn được tự do luân chuyển hơn. Điều này có liên quan mật
thiết đến “bộ ba bất khả thi” (impossible trinity) và sẽ được bàn kỹ hơn ở phần sau. Một khi
dự trữ vàng và ngoại hối bị giảm sút mạnh mẽ thậm chí trở nên cạn kiệt, tâm lí lo ngại sự
mất giá đồng tiền cùng với hoạt động đầu cơ dễ dàng gây ra khủng hoảng tiền tệ và tài
chính tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 hay (trong một phạm vi
hẹp hơn) cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Mỹ Latin 2000-2001.
Tuy nhiên, nhiều nước đang phát triển vẫn cố gắng cố định tỉ giá của đồng tiền nước
mình vào một đồng tiền lớn, mà chủ yếu là USD. Một thị trường ngoại hối biến động quá
mức có hại cho xuất khẩu nếu đồng nội tệ lên giá và khiến cho nhập khẩu trở nên rất đắt đỏ
khi đồng nội tệ mất giá quá mức. Đồng thời, biến động tỉ giá quá nhiều và quá nhanh sẽ gây
ra rủi ro tỉ giá và làm tăng chi phí giao dịch (về tiền bạc và thời gian) do nhu cầu bảo hiểm
chống rủi ro. Vì lí do này mà nhiều chính phủ vẫn đôi khi, thậm chí có chính phủ thường
xuyên, can thiệp vào thị trường ngoại hối để giảm bớt những biến động quá mức. Đương
nhiên, khi các chính phủ can thiệp tỉ giá họ còn do những lí do riêng liên quan đến việc sử
dụng các công cụ điều tiết vĩ mô can thiệp vào nền kinh tế. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng mức
độ can thiệp của các chính phủ là rất khác nhau. Về nguyên tắc, chế độ tỉ giá thả nổi có quản
lí (managed float) thường chỉ được sử dụng trong ngắn hạn để kiểm soát những dao động quá
lớn quá nhanh trong tỉ giá. Việc kiểm soát tỉ giá trong thời gian dài hơn sẽ chỉ làm chậm lại
chứ không thể ngăn chặn hoàn toàn những thay đổi tất yếu trong tỉ giá và thường đi liền với
cái giá đắt là làm cạn kiệt dự trữ ngoại hối.
Các phân tích ở trên cho thấy trong quá khứ tỉ giá ở Việt Nam được điều hành theo
hướng hạ giá VND trong thời kỳ bất ổn và quay trở lại chế độ neo tỉ giá khi giai đoạn kinh tế
bất ổn qua đi. Hiện nay, trong giai đoạn phục hồi kinh tế, Việt Nam lại đứng trước sự lựa
chọn quay trở lại chế độ neo tỉ giá như đã làm trong quá khứ hay chuyển hẳn sang chế độ tỉ
giá thả nổi có quản lí như các quốc gia khác trong khu vực đã tiến hành sau khủng hoảng
kinh tế tài chính 1997-1998.
Từ việc phân tích xu hướng lên giá của tỉ giá thực hữu hiệu ở trên có thể thấy rõ rằng
NHNN Việt Nam đã duy trì việc kiểm soát tỉ giá trong thời gian quá dài và không linh hoạt
dẫn đến nhiều tác hại về kinh tế. Tình hình biến động tỉ giá năm 2009 là một minh chứng. Sự
cứng nhắc cũng như sự không nhất quán trong chính sách tỉ giá năm qua đã làm giảm sút
lòng tin của người dân vào VND, làm trầm trọng thêm hiện tượng “đôla hóa” của nền kinh tế,
30
tăng hoạt động đầu cơ, đẩy tỉ giá thị trường tự do vượt xa tỉ giá chính thức và do đó gây căng
thẳng trên thị trường ngoại hối. Do lo ngại về sự mất giá của VND, tình trạng phổ biến của
năm 2009 là các doanh nghiệp xuất khẩu có USD muốn găm giữ USD và không muốn bán
cho các ngân hàng còn các doanh nghiệp nhập khẩu cần USD thì không muốn vay mà chỉ
muốn mua USD. Kết quả là thị trường ngoại hối luôn căng thẳng vì khan hiếm USD mặc dù
tiền gửi bằng USD mà các ngân hàng nắm giữ là không nhỏ.
Trong các phần tiếp theo chúng tôi đánh giá tác động của cơ chế điều hành tỉ giá hiện tại
đối với mục tiêu kiềm chế lạm phát và cân bằng cán cân thương mại của chính phủ. Đây là
hai vấn đề được quan tâm nhất liên quan đến lựa chọn chính sách tỉ giá.
Chính sách ổn định tỉ giá và việc kiểm soát lạm phát
Trên lí thuyết, giữ ổn định tỉ giá có thể giúp tăng cường lòng tin vào đồng nội tệ, buộc
chính phủ phải kiểm soát thâm hụt ngân sách và tốc độ tăng tín dụng và thông qua đó tăng
cường mức độ tin cậy vào chính sách của chính phủ. Khi những yếu tố này được kiểm soát,
lạm phát cũng sẽ giảm đi và dần ổn định. Đặc biệt, trong một nền kinh tế có mức độ “đôla
hóa” cao như Việt Nam, khi nguy cơ lạm phát quay trở lại và niềm tin vào VND giảm sút,
người dân sẽ quay lưng lại với đồng nội tệ và chuyển sang dự trữ vàng và USD để tiết kiệm
và phòng thân. Do đó việc quản lí tỉ giá có ảnh hưởng tới việc kiểm soát lạm phát vì tỉ giá
không chỉ ảnh hưởng tới hàng hóa xuất nhập khẩu mà còn tới các hàng hóa nội địa nếu giá
của chúng thường được tính bằng USD. Đây là những nguyên nhân góp phần khiến NHNN
ngần ngại trong việc tăng tỉ giá theo cung cầu thị trường trong nhiều năm qua.
Hình 10. Lạm phát ở Việt Nam và tỉ giá danh nghĩa VND/USD, 1992-2009
8.000
10.000
12.000
14.000
16.000
18.000
20.000
19
92
19
93
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Lạm phát
Tỷ giá
31
Nguồn: Tổng cục thống kê và NHNN (2010)
Hình 10 cho thấy biến động của lạm phát và tỉ giá danh nghĩa từ năm 1992 tới nay. Vào
đầu thập kỷ 1990, sau khi đã chứng kiến những tác hại kinh tế to lớn của lạm phát phi mã,
Việt Nam đã nỗ lực kiểm soát lạm phát nhằm ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, khôi phục niềm
tin của người dân vào tiền đồng. Lúc này, việc áp dụng một chính sách tỉ giá tương đối cố
định là hợp lí. Lạm phát trong giai đoạn 1992-1996 đã được kiểm soát tốt.
Tuy nhiên, thành công này không được lặp lại ở các thời kỳ sau đó. Thời kỳ khủng hoảng
và hậu khủng hoảng tài chính châu Á (1997-2003) gắn liền với việc mất giá danh nghĩa liên
tục của VND nhưng giai đoạn lạm phát cao (khoảng 10%) lại không kéo dài và thậm chí thời
kỳ này đã kết thúc bằng giai đoạn giảm phát 2000-2001. Việc áp dụng chính sách kiểm soát tỉ
giá tương đối cứng nhắc trong giai đoạn 2004-2008 cũng không thành công với lạm phát tăng
dần qua các năm và kết thúc bằng một thời kì lạm phát cao 2007-2008 (lên tới trên 20%).
Tại sao cùng một chế độ tỉ giá mà tác động đến lạm phát trong các giai đoạn khác nhau
lại khác nhau như vậy? Có hai nhóm nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này: (i) nhóm
nguyên nhân liên quan đến nguồn gốc của lạm phát và (ii) nhóm nguyên nhân liên quan đến
bối cảnh kinh tế của từng giai đoạn.
Những nghiên cứu của các tác giả khác như Võ Trí Thành et al. (2000), Camen (2006) và
Nguyễn Đức Thành et al. (2009) đã cho thấy sự gia tăng cung tiền và tín dụng trong nền kinh
tế là nguyên nhân chính dẫn đến những thời kỳ lạm phát cao ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát thường dẫn đến lạm phát thực tế ở giai
đoạn tiếp theo của chu kỳ kinh tế. Chính sách tỉ giá chỉ có tác động cộng hưởng cho các tác
động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế chứ không có tác động mạnh mẽ trực tiếp đến lạm
phát. Điều này lí giải tại sao trong giai đoạn 1992-1996 khi toàn bộ nền kinh tế đang được
kiểm soát tốt, chính sách tỉ giá ổn định góp phần vào việc ổn định và giảm lạm phát. Đồng
thời nó cũng lí giải tại sao từ năm 2004 đến 2008, lạm phát lại tăng trở lại mặc dù tỉ giá được
giữ ổn định. Nguyên nhân chính của điều này chính là sự gia tăng mạnh mẽ của cung tiền và
tín dụng trong nền kinh tế trong thời gian này.
Tuy nhiên cần phải nói thêm rằng sự gia tăng cung tiền và tín dụng lại không lí giải cho
giai đoạn lạm phát thấp từ 1997-2003. Giai đoạn này lạm phát suy giảm chủ yếu do khủng
hoảng kinh tế và sự sụt giảm của tổng cầu. Bởi vậy, sự phá giá mạnh của VND trong giai
đoạn này (khoảng 36%) đã không kéo lạm phát trở lại. Tượng tự như vậy, trong năm 2009,
kinh tế toàn cầu suy giảm, giá thế giới giảm đã giúp giảm áp lực lạm phát ở Việt Nam xuống
32
còn 6,88%. Tuy nhiên tỉ lệ lạm phát như vậy vẫn là khá cao so với các nước trong khu vực và
các nước đối tác thương mại.
Hình 11. Lạm phát của Việt Nam và một số nước đối tác, 2000-2009
Nguồn: NHNH, WEO và IFS (2010)
Nhóm nguyên nhân thứ hai lí giải cho sự khác nhau trong kết quả của chính sách ổn định
tỉ giá với vấn đề kiểm soát lạm phát có liên quan đến các điều kiện kinh tế của từng giai đoạn.
Nhóm nguyên nhân này liên quan trực tiếp đến “bộ ba bất khả thi”. “Bộ ba bất khả thi” có
nghĩa là chúng ta không thể đạt được cùng một lúc: (i) tỉ giá hối đoái cố định; (ii) tự do hóa
tài khoản vốn và (iii) sự độc lập của chính sách tiền tệ. Trước đây dưới thời kinh tế khép kín,
chưa có tự do hóa tài khoản vốn thì việc giữ tỉ giá hối đoái tương đối cố định đồng thời với
việc kiểm soát chính sách tiền tệ hạn chế lạm phát là có thể thực hiện được và trên thực tế
chính sách này tương đối hiệu quả trong giai đoạn 1992-1996. Tuy nhiên, khi nền kinh tế
ngày càng hội nhập, mặc dù chúng ta chưa hoàn toàn tự do hóa tài khoản vốn, sự dễ dàng hơn
trong luân chuyển vốn đã đặt ra thách thức mới đối với việc điều hành chính sách "bộ ba bất
khả thi".
Cán cân tổng thể của Việt Nam cho thấy trong nhiều năm trước 2006 lượng ngoại tệ vào
Việt Nam không lớn. Cho tới năm 2005 lượng ngoại tệ vào Việt Nam mới chỉ khoảng 9 tỉ
USD (không kể lượng ngoại tệ vào bằng con đường không chính thức). Tuy nhiên, chỉ trong
hai năm 2006-2007 lượng ngoại tệ vào ồ ạt thông qua đầu tư gián tiếp đã làm số tiền dự trữ
-2
3
8
13
18
23
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Trung Quốc Mỹ Singapore Hàn Quốc Thái Lan Viêt Nam
33
chính thức tăng thêm đã gấp 1,6 lần số ngoại tệ tích lũy từ trước đến nay cộng lại. Điều này
đã đặt ra thách thức lớn trong điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2007. Trong nửa đầu
năm 2007, NHNN đã phải bỏ ra một lượng tiền đồng lớn (tương đương 9 tỉ USD) để mua
ngoại tệ dự trữ (nhằm ổn định tỉ giá). Lượng tiền mặt dư thừa này đã không được trung hòa
kịp thời cùng với việc giá nguyên liệu thế giới tăng mạnh khiến cho lạm phát bùng phát và
lần đầu tiên trong thập kỉ vượt mức một con số. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta tìm cách
trung hòa thì lãi suất cũng không thể giữ nguyên được. Đây là bài toán khó và ở quy mô chưa
có tiền lệ đối với NHNN. Có thể thấy rằng việc giữ ổn định tỉ giá trong giai đoạn 2005-2007
không những không giúp kiểm soát lạm phát mà còn góp phần gây ra áp lực tăng lạm phát do
việc NHNN phải mua ngoại tệ. Rõ ràng, việc hội nhập kinh tế thế giới đã đặt ra những thách
thức mới đối với NHNN nói chung và chính sách tỉ giá nói riêng.
Tóm lại, một mình chính sách tỉ giá không thể có hiệu quả trong chống lạm phát. Ồn định
tỉ giá nếu không gắn với kiểm soát cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như các
điều tiết vĩ mô nhằm kiểm soát tổng cầu thì cũng không thể giúp ngăn chặn và kiểm soát lạm
phát đặc biệt trong bối cảnh dòng vốn luân chuyển tương đối tự do. Mặt khác, nếu tổng cầu
và các chính sách tiền tệ được kiểm soát hợp lí thì việc điều chỉnh tỉ giá theo thị trường không
nhất thiết sẽ gây ra lạm phát. Chính sự lưỡng lự, không rõ ràng, không nhất quán trong chính
sách tỉ giá mới dễ gây ra kỳ vọng lạm phát và lạm phát thực tế ở kỳ sau nếu các chính sách
kinh tế vĩ mô không đi theo hướng kiểm soát lạm phát.
Chính sách tỉ giá và cán cân thương mại
Những phân tích ở trên về xu hướng biến động của tỉ giá đã cho thấy sự lên giá thực của
VND trong những năm qua và điều đó đã làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam trên thị trường thế giới đặc biệt là trong những năm gần đây. Điều này thể hiện rõ ở tình
trạng thâm hụt thương mại lớn và kéo dài của Việt Nam kể từ đầu thập kỷ 90. Đặc biệt từ sau
khi Việt Nam ra nhập WTO năm 2006, nhập siêu của Việt Nam đã tăng vọt lên tới 18 tỉ USD
trong năm 2008. Riêng năm 2009, do kinh tế thế giới suy giảm và nhập khẩu giảm mạnh hơn
tốc độ giảm của xuất khẩu, nhập siêu đã giảm xuống còn 12,3 tỉ USD10.
Nhập siêu tự bản thân nó không nhất thiết là điều xấu. Khi một nền kinh tế mở cửa hơn
với thế giới và tăng trưởng mạnh, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng mạnh cùng với luồng đầu tư
nước ngoài để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong trường hợp của Việt Nam,
10 Số liệu nhập siêu được lấy từ Tổng cục thống kê, xuất khẩu tính bằng giá fob và nhập khẩu tính bằng giá cif.
34
khi khoảng 90% tổng giá trị nhập khẩu là hàng tư liệu sản xuất. Cũng cần phải nói thêm rằng,
Việt Nam là một nước nhỏ nên xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào cung cầu và giá cả trên
thị trường thế giới. Những biến động của giá nguyên vật liệu thế giới cũng như cầu giảm sút
do khủng hoảng là những nhân tố làm ảnh hưởng đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam.
Hình 12. Nhập siêu và tỉ giá VND/USD, 1992-2009
60
70
80
90
100
110
120
130
19
92
19
93
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
0
2.000
4.000
6.000
8.000
10.000
12.000
14.000
16.000
18.000
20.000
Nhập siêu (bên phải, triệu USD)
Tỷ giá danh nghĩa (năm gốc 2000)
Tỷ giá thực tế (năm gốc 2000)
Nguồn: IMF, Tổng cục thống kê và tính toán của tác giả (2010)
Tuy nhiên, nếu chính sách tỉ giá cứng nhắc làm trầm trọng thêm tình trạng nhập siêu thì
lại có tác động xấu đối với nền kinh tế. Hình 12 cho thấy tình hình nhập siêu của Việt Nam
gắn kết khá chặt chẽ với biến động của tỉ giá thực tế. Giai đoạn 1992-1996 tuy tỉ giá danh
nghĩa được giữ tương đối ổn định nhưng do lạm phát của Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với
lạm phát ở Mỹ nên VND đã lên giá thực tế. Gắn với quá trình lên giá này là sự gia tăng liên
tục của thâm hụt thương mại. Giai đoạn từ 1997-2003 là giai đoạn VND mất giá danh nghĩa
và do lạm phát ở Việt Nam thấp, VND cũng mất giá thực tế và gần như theo sát giá trị danh
nghĩa. Thâm hụt thương mại nhìn chung ở mức thấp nhưng bắt đầu tăng cao vào cuối giai
đoạn khi tỉ giá thực tế bắt đầu ngừng tăng. Những năm gần đây, từ 2003 đến nay, đánh dấu sự
lên giá thực tế mạnh mẽ của VND do tỉ giá danh nghĩa được giữ tương đối cứng nhắc và sự
mất giá danh nghĩa vào cuối năm 2008 và 2009 không bù đắp được chênh lệch lớn về lạm
phát giữa Việt Nam và Mỹ. Gắn liền với tình trạng lên giá thực tế này là mức nhập siêu ngày
càng lớn và kéo dài.
Khi được quản lí theo cơ chế thị trường, tỉ giá danh nghĩa có tác động điều chỉnh cán cân
thương mại trở về trạng thái cân bằng. Cơ sở cho việc này là khi tình trạng nhập siêu lớn và
35
kéo dài, nhu cầu ngoại tệ tăng cao sẽ khiến cho đồng nội tệ mất giá tương đối so với đồng
ngoại tệ. Sự lên giá của đồng ngoại tệ khiến cho xuất khẩu được khuyến khích và nhập khẩu
trở nên đắt đỏ. Cơ chế tỉ giá theo cung cầu của thị trường sẽ điều chỉnh tăng xuất khẩu, giảm
nhập khẩu và do đó giảm thâm hụt thương mại.
Hình 13. Xuất khẩu ròng (bên phải) và tỉ giá danh nghĩa VND/USD theo tháng,
T1/2006-T12/2009
Nguồn: Tổng cục thống kê và NHTM (2010)
Tuy nhiên, cơ chế tỉ giá ở Việt Nam không những đã không đạt được sự điều chỉnh này
mà trong những năm gần đây còn làm trầm trọng hơn tình trạng thâm hụt của cán cân thương
mại. Nhu cầu ngoại tệ tăng cao do nhập siêu lớn và kéo dài không được kịp thời đối trọng bởi
sự mất giá của đồng nội tệ khiến cho thị trường ngoại hối luôn căng thẳng và hoạt động chợ
đen cũng như đầu cơ tiền tệ trở nên mạnh mẽ. Hình 13 cho thấy sự chậm trễ trong phản ứng
chính sách của NHNN trong những năm qua. Tỉ giá danh nghĩa đã được giữ cứng nhắc mặc
dù tình trạng nhập siêu lớn đã kéo dài liên tục trong vòng nhiều tháng từ cuối năm 2006 đến
đầu năm 2008. Điều tương tự cũng xảy ra trong năm 2009 từ tháng 3 đến cuối tháng 11.
Ngược lại, từ giữa năm 2008 đến đầu năm 2009, khi nhập siêu đã đã giảm mạnh thì tiền đồng
lại vẫn tiếp tục mất giá mạnh. Sự cứng nhắc và chậm trễ này góp phần gây ra tình trạng căng
thẳng kéo dài trên thị trường ngoại hối, giảm sút niềm tin vào tiền đồng và gây ra tâm lí đầu
cơ ngoại tệ.
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng với cơ chế quản lí tỉ giá hằng ngày như hiện tại (thay vì
14.500
15.000
15.500
16.000
16.500
17.000
17.500
18.000
18.500
19.000
1/06 5/06 9/06 1/07 5/07 9/07 1/08 5/08 9/08 1/09 5/09 9/09 11/09
-3.500
-3.000
-2.500
-2.000
-1.500
-1.000
-500
0
500
1.000
Xuất khẩu ròng (triệu USD) Tỷ giá NHTM (VND/USD)
36
quản lí theo cơ chế thị trường), NHNN sẽ luôn phải giải quyết bài toán về sự đánh đổi của
chính sách. Cũng như tất cả các chính sách khác, khi quyết định giữ vững tỉ giá hay phá giá,
NHNN đều phải cân nhắc giữa cái lợi và cái hại của quyết định này trong từng hoàn cảnh cụ
thể. Lấy ví dụ, một quyết định phá giá sẽ có lợi cho xuất khẩu đặc biệt là những nhóm hàng
xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu thấp (thậm chí bằng 0) như hàng nông lâm thủy hải sản
và tài nguyên. Nhưng phá giá lại làm cho nhập khẩu trở nên đắt đỏ, ảnh hưởng xấu tới hoạt
động nhập khẩu phục vụ phát triển trong nước và tới các nhóm hàng xuất khẩu có hàm lượng
nhập khẩu cao như các mặt hàng Việt Nam chỉ gia công chế biến bằng nguyên liệu ngoại
nhập. Đồng thời phá giá tạo nên kỳ vọng lạm phát và có thể trở thành lạm phát thực sự trong
kỳ sau nếu các chính sách vĩ mô không nhất quán trong việc kiểm soát lạm phát. Đấy là chưa
kể tác động của việc phá giá đến các mặt hàng phi thương mại (sản xuất tiêu dùng nội địa) do
tình trạng “đôla hóa” của nền kinh tế và thông qua các tương tác của các khu vực kinh tế
thương mại và phi thương mại. Các vấn đề này còn trầm trọng hơn nếu quyết định phá giá
mang tính giật cục, không nhất quán bởi vì nó còn tạo tâm lí đầu cơ ngoại tệ, giảm sút niềm
tin vào động nội tệ cũng như mức độ tin cậy của chính sách và làm tăng chi phí giao dịch như
đã bàn ở trên. Đây là một khó khăn mà NHNN rất khó giải quyết do áp lực của các nhóm lợi
ích trong nền kinh tế đối với các chính sách của Chính phủ ngày càng lớn.
Những thách thức trong việc lựa chọn chính sách tỉ giá trong thời gian tới
Những phân tích trên đây của chúng tôi đã chỉ ra rằng: (i) xuất hiện hai xu hướng rõ nét
trong việc lựa chọn cơ chế tỉ giá trên thế giới: đó là từ bỏ cơ chế hai tỉ giá và việc các nước
mới nổi ngày càng dịch chuyển mạnh sang các cơ chế tỉ giá thả nổi; (ii) cơ chế tỉ giá của Việt
Nam về cơ bản là cơ chế neo tỉ giá, mặc dù có những điều chỉnh trong những giai đoạn kinh
tế bất ổn; (iii) cơ chế tỉ giá hiện nay không giúp cho Việt Nam kiềm chế lạm phát và cũng
không giúp cho Việt Nam kiềm chế nhập siêu; và (iv) đồng nội tệ VND vẫn tiếp tục chịu sức
ép mất giá trong năm 2010.
Việt Nam hiện tại đang đứng giữa hai lựa chọn: quay trở lại cơ chế neo tỉ giá như các giai
đoạn hậu bất ổn kinh tế như trước đây hay chuyển đổi mạnh sang cơ chế tỉ giá thả nổi. Căn cứ
vào những phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng Việt Nam nên xây dựng kế hoạch để chuyển
sang cơ chế tỉ giá thả nổi có quản lí (managed floating) tương tự các nước trong khu vực. Có
nghĩa là, NHNN không tuyên bố trước tỉ giá trung tâm; tỉ giá thương mại hằng ngày về cơ bản
được xác lập hoàn toàn bởi các giao dịch theo cung cầu ngoại tệ trên thị trường; tuy nhiên,
NHNN có thể dùng các biện pháp can thiệp như mua bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân
37
hàng và/hoặc các biện pháp kiểm soát nguồn vốn ra vào Việt Nam để làm mềm dao động của tỉ
giá.
Cần lưu ý thêm rằng chế độ tỉ giá thả nổi có quản lí khác với thả nổi tỉ giá không kiểm
soát (free float). Trong thời điểm hiện tại, thả nổi hoàn toàn không phải là một lựa chọn tốt
của Việt Nam vì độ mở của nền kinh tế Việt Nam rất cao trong khi hệ thống tài chính lại chưa
hoàn chỉnh. Những biến động quá mức và quá nhanh của tỉ giá, đặc biệt là việc “nhập khẩu”
lạm phát và các biến động tiêu cực của thị trường thế giới có thể làm gián đoạn các hoạt động
kinh tế trong nước, gây thiệt hại lớn cho khu vực thương mại và gián tiếp cho khu vực phi
thương mại thông qua những liên kết giữa các khu vực này. Những biến động này sẽ làm ảnh
hưởng đến sự ổn định của cán cân thanh toán, sự ổn định về tài chính cũng như tăng trưởng
của nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, ngay cả ở các quốc gia được coi là thả nổi hoàn toàn như
Canada, Anh, Úc, và New Zealand, dao động tỉ giá ngắn hạn vẫn được kiểm soát bằng cách
này hay cách khác (Velasco, 2000).
Việt Nam hiện nay đã thỏa mãn được nhiều điều kiện khiến cho việc áp dụng cơ chế tỉ
giá thả nổi có quản lí mang lại nhiều lợi ích hơn so với cơ chế tỉ giá cố định. Thứ nhất, giá cả
của hầu hết các mặt hàng cũng như lương bổng của khu vực doanh nghiệp của Việt Nam
được quyết định theo cơ chế thị trường. Việc thả nổi tỉ giá sẽ giúp sự biến động của giá cả
của các mặt hàng trong nước cân bằng với sự biến động của giá cả các mặt hàng trên thế giới,
qua đó giúp nền kinh tế phân bổ tối ưu hơn (Friedman, 1953). Thứ hai, độ mở kinh tế của
Việt Nam lớn, nhưng lại không bị lệ thuộc mạnh vào một đối tác cụ thể nào, nên việc thả nổi
tỉ giá sẽ không những không khiến Việt Nam bị tác động mạnh bởi các cú sốc từ thị trường
tiền tệ bên ngoài, mà còn giúp Việt Nam ngăn chặn tốt các cú sốc từ thị trường hàng hóa
quốc tế (Fleming, 1962; Mundell, 1963).
Tuy nhiên, để chính sách tỉ giá thả nổi có kiểm soát thực sự phát huy tác dụng, làm
nâng uy tín của VND, thì Việt Nam cần phải chuẩn bị thêm một số điều kiện khác. Khi từ
bỏ cơ chế neo tỉ giá NHNN buộc phải tìm một ‘mỏ neo’ khác để thực thi các chính sách
tiền tệ. Có hai ‘mỏ neo’ mà NHTW các nước tìm đến: kiểm soát cung tiền và kiểm soát lạm
phát theo mục tiêu định trước (inflation targets). Như Masson et al. (1997) chỉ ra, việc theo
đuổi chính sách kiểm soát lạm phát mục tiêu đòi hỏi NHTW phải độc lập, tức một ngân
hàng hoạt động dựa trên các nguyên tắc công khai, không bị tác động bởi các chính sách tài
khóa và các tổ chức kinh tế, tài chính trên thị trường11. Những công cụ hiện đại của một
11 Có bốn tiêu chí để xác định tính độc lập của một ngân hàng trung ương (Walsh, 2005):
38
NHTW độc lập như liệt kê trong phần phụ lục 4.A3 cần được áp dụng minh bạch và phổ
biến rộng rãi.
Một điều kiện khác để cơ chế tỉ giá thả nổi có thể vận hành một cách suôn sẻ, giúp nền
kinh tế phân bổ nguồn lực hiệu quả, là cần phải hiện đại hóa thị trường ngoại hối. Ngoại tệ là
một loại tài sản. Một khi được cho phép, tỉ giá thả nổi ngoại tệ sẽ được các chủ thể kinh tế
tham gia thị trường mua bán trao đổi tương tự các sản phẩm tài chính khác như chứng khoán
và vàng. Sự xuất hiện các công cụ phái sinh và các định chế tài chính trung gian liên quan
đến tỉ giá sẽ giúp các chủ thể kinh tế hạn chế rủi ro. Như Nguyễn Trần Phúc (2009) chỉ ra, thị
trường ngoại hối của Việt Nam vẫn chủ yếu là các giao dịch trực tiếp; các sản phẩm phái sinh
liên quan đến ngoại hối hầu như chưa được đưa vào; tổng giá trị giao dịch ngoại hối vẫn ở
mức rất thấp so với các nước trong khu vực; và trên thị trường liên ngân hàng, NHNN vẫn
chiếm phần lớn các giao dịch trên thị trường. Đây sẽ là những vấn đề mà các cơ quan có thẩm
quyền phải giải quyết nếu muốn có một thị trường ngoại hối sôi động và hiệu quả thực sự.
Những lưu ý cuối cùng
Như đã phân tích ở trên, hiện tại Việt Nam chưa hội đủ hết các điều kiện để chế độ tỉ giá
thả nổi có quản lí phát huy được tác dụng. Xây dựng Ngân hàng Trung ương độc lập và thị
trường ngoại hối hiện đại là những nhiệm vụ tuy có tính trung hạn nhưng không thể không
bắt đầu ngay để chuyển sang chế độ tỉ giá mới hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị các điều kiện còn thiếu, trong ngắn hạn, NHNN cũng
cần có những biện pháp nhằm giảm bớt những hạn chế của cơ chế điều hành tỉ giá hiện tại.
Điều hành tỉ giá chỉ có tác động trong ngắn hạn. Bởi vậy, nếu không có các phản ứng linh
hoạt theo thị trường thì việc can thiệp vào tỉ giá (như việc sử dụng công cụ biên độ thay cho
việc nâng tỉ giá chính thức trước sức ép của thị trường vào tháng 3 năm 2009) chỉ làm nhiễu
và trầm trọng thêm các vấn đề của nền kinh tế. Trên thị trường ngoại hối, niềm tin và tâm lí
rất quan trọng cho việc ổn định tỉ giá. Vì thế, NHNN nên công khai thường kỳ chính sách
- Độc lập về mặt luật pháp: ngân hàng trung ương cần có địa vị pháp lí rõ ràng trong mối quan hệ với chính
phủ và quốc hội. Xác định về mặt luật pháp cơ quan (chính phủ hoặc quốc hội) cũng như các lĩnh vực cụ thể mà
NHTW sẽ phải giải trình.
- Độc lập về mục tiêu: NHTW có toàn quyền quyết định các mục tiêu chính sách của mình: kiểm soát lạm
phát, kiểm soát cung tiền, hay ổn định tỉ giá. Các mục tiêu này thường được NHTW công bố công khai và được
theo đuổi một cách nhất quán.
- Độc lập về sử dụng công cụ: NHTW được toàn quyền lựa chọn các công cụ phù hợp để đạt được mục tiêu
chính sách của mình.
- Độc lập về quản lí: NHTW được độc lập trong việc lựa chọn nhân sự và tổ chức bộ máy hành chính của
mình mà không chịu sự chi phối của chính phủ.
39
điều chỉnh tỉ giá của mình cho công chúng và những nhà đầu tư, tăng cường hơn nữa tính
minh bạch trong điều hành tỉ giá. Đồng thời điều chỉnh tỉ giá phải đi kèm với việc kiểm soát
lạm phát, nếu không sẽ sa vào vòng xoáy điều chỉnh tỉ giá - lạm phát - điều chỉnh tỉ giá,
không những không có tác dụng mà còn có hại cho nền kinh tế.
Đầu năm 2010, mặc dù NHNN đã thực hiện phá giá VND khoảng 3,3% trong Quý I, sức
ép mất giá của VND còn khá lớn. Vào thời điểm hiện tại (tháng 4/2010), tỉ giá có xu hướng
giảm do việc gia tăng cung ngoại tệ xuất phát từ chênh lệch lớn giữa lãi suất đồng ngoại tệ và
lãi suất đồng nội tệ. Tuy nhiên, trong năm nay, áp lực mất giá của VND còn lớn hơn và sẽ
đảo chiều xu hướng lên giá hiện tại do những nguyên nhân sau: (i) lãi suất đồng nội tệ sẽ
giảm, dẫn đến giảm sức hấp dẫn từ chênh lệch lãi suất, (ii) chênh lệch giữa tỉ giá thực và tỉ
giá thực hữu hiệu với tỉ giá danh nghĩa còn khá lớn (như tính toán ở phần trên), (iii) sự hồi
phục của nền kinh tế Mỹ sẽ đi kèm với việc tăng lãi suất và đồng USD lại mạnh lên tương
đối, (iv) thâm hụt cán cân vãng lai ít có khả năng được cải thiện mạnh, và (v) cuối năm sẽ là
thời điểm đáo hạn nợ ngoại tệ của các khoản vay hiện tại và sẽ khiến cung ngoại tệ giảm sút.
Cùng với tình trạng dự trữ ngoại hối giảm sút, năm yếu tố kể trên nếu xảy ra đồng thời có thể
sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng thanh khoản ngoại tệ nhỏ nếu chính sách tỉ giá không được
điều hành một cách linh hoạt.
Việt Nam có thể vẫn cần điều chỉnh tỉ giá theo hướng làm đồng nội tệ yếu đi để khuyến
khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Các biện pháp can thiệp khác như hàng rào thuế quan,
hàng rào kĩ thuật, kiểm soát các dòng ngoại tệ, sử dụng hiệu quả quỹ dự trữ ngoại hối v.v…
vẫn cần tiếp tục sử dụng ở mức độ hợp lí để giảm bớt sức ép phá giá đồng nội tệ.
40
Tài liệu tham khảo
Bank for International Settlements (2007), “Triennial Central Bank Survey of Foreign
Exchange and Derivatives Market Activity in 2007 – Final Results,” December 2007.
Calvo, G. và C. Reinhart (2002), “Fear of Floating,”Quarterly Journal of Economics, 117,
pp. 379–408.
Camen, U. (2006), “Monetary Policy in Vietnam: The Case of a Transition Country,” BIS
Working Paper No. 31. Bank for International Settlement, Basel.
Eichengreen B. (2009), “The dollar dilemma,” Foreign Affairs, September/October 2009.
Fleming M. (1962), “Domestic Financial Policies under Fixed and Floating Exchange Rates,”
IMF Staff Papers 9: 369–77.
Friedman M. (1953), “The Case for Flexible Exchange Rates,” Essays in Positive Economics,
University of Chicago, 157–201.
IMF (2000). Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions.
IMF (2008). Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions.
IMF (2009a), “World Economic and Financial Surveys – World Economic Outlook
Database,”.
IMF (2009b), “World Economic Outlook – Sustaining the Recovery”.
Krugman P. (2009), “China’s dollar trap”, The New York Times, April 2, 2009.
Mai Thu Hiền (2007). “Solutions for Exchange Rate Policy of Transition Economy of
Vietnam,” Doctoral dissertation, Martin Luther Universitat.
McKinnon M. (1963), “Optimum Currency Areas” American Economic Review 53: 717–25.
Mundell R. (1961), “A Theory of Optimum Currency Areas,” American Economic Review
51: 657–65.
Mundell, R. (1963), “Capital Mobility and Stabilization Policy under Fixed and Flexible
Exchange Rates,” Canadian Journal of Economics and Political Science 29: 475–85.
Nguyễn Đức Thành et al. (2009), Báo cáo Kinh tế Thường niên 2008, VEPR.
Nguyễn Trần Phúc (2009), “Implications of Exchange Rate Policy for Foreign Exchange
Market Development: Vietnam, 1986-2008,” Griffen University, Úc.
41
Nguyễn Trần Phúc và Nguyễn Đức-Thọ, (2009), “Exchange Rate Policy in Vietnam, 1985-
2008,” ASEAN Economic Bulletin, Vol. 26, No. 2, pp. 137-163.
Rogoff K.S., A.M. Husain, A. Mody, R. Brooks, và N. Oomes (2004), Evolution and
Performance of Exchange Rate Regimes, IMF: Washington DC.
Tổng cục thống kê (2009), Số liệu thống kê.
Võ Trí Thành, Đinh Hiển Minh, Đỗ Xuân Trường, Hoàng Văn Thanh và Phạm Chí Quang
(2000), “Exchange Rate Arrangement in Vietnam: Information Content and Policy
Options,” East Asian Development Network (EADN), Individual Research Project.
Walsh, C.E. (2005), “Central Bank Independence,” New Palgrave Dictionary of Economics.
WTO (2009), Statistics database.
42
Phụ lục bài nghiên cứu
Hộp 1. Phương pháp và kết quả dự báo tỉ giá ngắn hạn
Chúng tôi dự báo tỉ giá trong ngắn hạn, dựa trên mô hình tiền tệ của tỉ giá có tính đến
điều kiện ngang giá lãi suất không phòng ngừa (UIP) trong dài hạn. Xuất phát điểm là mô
hình tiền tệ của tỉ giá, với giả định không có chi phí trong giao dịch thương mại quốc tế, thì
điều kiện cân bằng sức mua (PPP) là: vt = pt - p*t , trong đó pt , p*t là log của chỉ số giá trong
nước và chỉ số giá nước ngoài, vt là log của tỉ giá danh nghĩa. Tuy nhiên, thực tế giao thương
mất chi phí nên điều kiện PPP không thể luôn được thỏa mãn, vì thế có khái niệm tỉ giá thực:
rt = vt -pt + p*t . Trong điều kiện PPP, tỉ giá thực sẽ có tính dừng và dao động quanh một giá
trị cố định trong ngắn hạn. Tuy nhiên những cú sốc về lãi suất trong ngắn hạn có thể làm tỉ
giá thực không tuân theo PPP trong một thời gian dài, và ở đây điều kiện UIP phát huy tác
dụng.
Cụ thể, theo điều kiện UIP, sự chênh lệch lãi suất sẽ là dự báo tốt cho sự thay đổi tỉ giá:
vstΔ +1=it -it* , trong đó vstΔ +1 là tỉ lệ mất giá dự kiến từ kỳ t đến kỳ t+1, it và it* là lãi suất trong
nước và nước ngoài.
Giả định trong dài hạn, tài khoản vãng lai (ca) phụ thuộc vào điều kiện PPP trong khi tài
khoản vốn (ka) phụ thuộc vào điều kiện UIP. Theo đó cán cân thanh toán được xác định như
sau: cat + kat = γ (vt + p*t -pt ) – λ(it – i*t – ∆v*t+1) = 0, trong đó γ là hệ số co giãn của xuất
khẩu ròng theo năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, λ thể hiện sự linh hoạt của các dòng vốn
ra vào. Giả định trong dài hạn, vtΔ +* 1= 0, phương trình trên sẽ cho kết quả tỉ giá danh nghĩa dài
hạn như sau: vt = pt - p*t - w (it - i*t), trong đó w = γ/ λ. Phương trình trên cho thấy tỉ giá danh
nghĩa là một hàm số của chênh lệch mức giá và chênh lệch lãi suất giữa hai nước, với mức độ
điều chỉnh theo chênh lệch lãi suất được xác định qua chỉ số w.
Trong bước thực nghiệm, chúng tôi giả định vector zt = (vt , pt , pt* , it , it*) có thể được
biểu diễn lại thông qua mô hình VECM. Các biến sử dụng trong phân tích này bao gồm log
của tỉ giá danh nghĩa (VND/USD), log của chỉ số CPI của Việt Nam và Mỹ, và lãi suất trái
phiếu (T-bill) của Việt Nam và Mỹ. Chúng tôi dùng số liệu theo quý từ QI/1997 đến
QIV/2009 (chiết xuất và tính toán từ IFS, SBV và các nguồn khác), và đã được điều chỉnh
mùa theo phương pháp trung bình trượt. Kiểm định về tính dừng (ADF-test) cho thấy các
chuỗi số liệu trên tuân theo I(1), và có mối quan hệ đồng liên kết (cointegration) trong dài
hạn. Mô hình VAR với độ trễ là 4 sẽ được ước lượng (dựa trên tiêu chuẩn LR, FPE, và HQ),
để xác định cân bằng dài hạn của tỉ giá, từ đó ước lượng mô hình VECM để dự báo ngắn hạn.
43
Hộp 2. Một số phương pháp và kết quả dự báo tỉ giá các đồng tiền lớn
của giới chuyên gia tài chính
Giới đầu tư chuyên nghiệp thường sử dụng hai phương pháp dự báo tỉ giá chính. Phương
pháp thứ nhất dùng các mô hình kinh tế và số liệu kinh tế (fundamental) để dự báo tỉ giá các
đồng tiền chính theo xu hướng và diễn biến kinh tế vĩ mô của các nước. Phương pháp này
thường đưa ra dự báo dài hạn, từ 3 tháng đến 3-5 năm, và có tính chất định hướng nhiều hơn
là để quyết định đầu tư.
Phương pháp thứ hai dùng phân tích kĩ thuật (technical analysis) dự báo xu hướng tỉ giá
dựa vào đồ thị và các chỉ số kĩ thuật của một đồng tiền trong quá khứ. Phương pháp này đưa
ra dự báo ngắn hạn (dưới 1 tuần) và cả các mức giá tham chiếu (support/resistance) để giúp
các nhà đầu tư đề ra chiến thuật ngắn hạn. Phân tích kĩ thuật không dựa vào các mô hình kinh
tế mà dựa vào tâm lí và thói quen của thị trường. Theo một cuộc khảo sát của Citigroup, có
khoảng 70-90% các nhân viên kinh doanh (trader) của các quỹ ngoại hối sử dụng phương
pháp thứ hai. Tuy nhiên hầu hết các ngân hàng đầu tư lớn đều có mô hình tỉ giá theo phương
pháp thứ nhất để tư vấn cho khách hàng. Sau đây là ba ví dụ thực tế về dự báo tỉ giá dựa vào
hai phương pháp nói trên. Mô hình GSDEER của Goldman Sachs hoàn toàn dựa trên lí thuyết
kinh tế, dự báo của FX360 hoàn toàn dựa trên phân tích kĩ thuật, và dự báo của UBS kết hợp
cả hai phương pháp nói trên.
Mô hình GSDEER được xây dựng trên nguyên tắc xác định tỉ giá dựa vào các biến số về
điều kiện thương mại (term of trade), năng suất lao động (productivity) và nguyên lí cân bằng
sức mua (PPP). Mô hình này được áp dụng cho một tập hợp (panel) các đồng tiền quan trọng
và ước lượng bằng kỹ thuật DOLS. Dự báo tỉ giá từ mô hình này có tính chất lí thuyết, nghĩa
là tỉ giá phản ánh các yếu tố kinh tế dài hạn nên các dự báo không phản ánh được nhiều yếu
tố tác động ngắn hạn. Đến thời điểm cuối tháng 9/2009, GSDEER đưa ra các dự báo sau cho
một vài đồng tiền lớn:
44
QIV/2009 QI/2010 QIV/2010
EUR 1,19 1,19 1,19
JPY 113,18 114 113,75
GBP 1,54 1,56 1,53
CNY 6,93 7,06 7
Phân tích kĩ thuật của các chuyên gia FX360 đưa ra các dự báo sau, chủ yếu cho ngắn
hạn (dưới một tháng):
Ngưỡng kháng cự Ngưỡng chống đỡ
EUR 1,4703 1,4425
JPY 105,6 87,12
GBP 1,7331 1,5272
Phân tích tổng hợp của UBS, có tính đến các yếu tố kinh tế vĩ mô như mức độ chuộng rủi
ro (risk appetite), nợ chính phủ (national debts), dòng vốn quốc tế (capital flow),... đưa ra một
số dự báo như sau vào cuối tháng 9/2009:
1 tháng 3 tháng 12 tháng
EUR 1,45 1,35 1,50
JPY 85 90 90
GBP 1,63 1,52 1,67
45
Hộp 3. Các công cụ của một ngân hàng Trung ương hiện đại
Công cụ thực thi chính sách tiền tệ:
• Lãi suất định hướng liên ngân hàng, được hiểu là lãi suất mà các NHTM cho vay lẫn
nhau trên thị trường liên ngân hàng cho các khoản vay qua đêm. NHTW điều chỉnh lãi suất
này thông qua các hoạt động thị trường mở dưới hình thức mua bán trực tiếp trái phiếu chính
phủ và/hoặc tham gia vào các hợp đồng mua bán lại (repos) trái phiếu chính phủ với các
Ngân hàng Thương mại.
• Lãi suất NHTW trả cho các khoản dự trữ (reserves) của các Ngân hàng Thương mại
gửi trong tài khoản tại NHTW. Có thể phân biệt lãi suất cho dự trữ bắt buộc (required
reserve) và lãi suất cho dự trữ tăng thêm (excess reserves).
• Lãi suất tái chiết khấu (discount rate) là lãi suất mà NHTW cho vay cho các Ngân hàng
Thương mại và các tổ chức tài chính trong diện được vay từ NHTW. Gần đây một số NHTW
cho các Ngân hàng Thương mại vay thanh khoản trong ngày với lãi suất rất thấp, có trường
hợp bằng không, để tránh áp lực lên lãi suất định hướng và lãi suất tái chiết khấu.
• Định mức tỉ lệ dự trữ bắt buộc, nghĩa là tỉ lệ dự trữ bắt buộc trên tổng số tiền gửi của
mỗi Ngân hàng Thương mại.
• Trái phiếu NHTW, nghĩa là các loại trái phiếu do NHTW phát hành cho mục đích điều
hành thanh khoản.
• Các khoản cho vay đột xuất cho các tổ chức thương mại và phi thương mại trong điều
kiện thị trường tài chính bị khủng hoảng.
Công cụ thực thi chính sách ngoại hối:
• Mua bán trực tiếp trên thị trường ngoại hối trong nước và quốc tế: spot và forward.
• Sử dụng repos để cung cấp thanh khoản ngoại tệ cho thị trường trong nước.
• Tham gia các hợp đồng swap ngoại tệ với các tổ chức tài chính trong nước.
• Mua bán trái phiếu Chính phủ Việt Nam định giá bằng ngoại tệ trong nước và quốc tế.
• Cho vay ngoại hối cho các tổ chức tín dụng trong nước.
• Hoán đổi ngoại tệ và SDR trong khuôn khổ IMF, đàm phán vay ngoại tệ trực tiếp từ
IMF và các tổ chức tài chính quốc tế khác.
46
• Đàm phán và thực thi các hoạt động phối hợp quốc tế nhằm ổn định tỉ giá và hệ thống
tài chính (swap lines, vay và cho vay giữa các NHTW như Chiangmai Initiative.)
Công cụ thực thi chính sách quản lí dự trữ ngoại hối:
• Mua bán trực tiếp trên thị trường ngoại hối trong nước và quốc tế: spot và forward.
• Mua bán các loại tài sản tài chính định giá bằng ngoại tệ (theo danh mục cho phép)
trong nước và quốc tế.
• Mua bán vàng (spot và forward) trong nước và quốc tế.
• Mua bán các sản phẩm derivatives để quản lí rủi ro, tuy nhiên không được phép mua vì
mục đích đầu cơ (zero leveraged).
47
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NC21.pdf