Dựa vào kết quả nghiên cứu thực nghiệm này, tác giả
kết luận rằng: cho đến thời điểm hiện tại trong phạm vi 3
phần mềm được nghiên cứu thì phần mềm Photoscan của
Agisof là phần mềm phù hợp nhất để mô hình hóa các công
trình kiến trúc từ ảnh 2D của công trình. Phần mềm này
cho phép, xây dựng được đám mây điểm (Pointclouds) rất
dày đặc từ đó khối lượng vật thể được xây dựng cũng lớn
hơn so với các phần mềm còn lại. Thuật toán xử lý dữ liệu
của phần mềm Photoscan cũng nổi trội trong việc định vị
các điểm trong không gian thông qua dữ liệu ảnh nhờ đó
mà các mô hình được xây dựng đảm bảo được hình dạng,
sự lồi lõm như trong thực tế. Thêm vào đó, quá trình thực
hiện việc xây dựng mô hình phần mềm này rất linh động,
dễ phù hợp với điều kiện thiết bị máy móc.
Bên cạnh các ưu điểm của phần mềm Photoscan thì
cũng còn nhược điểm trên các mô hình của phần mềm này
như: chất liệu kính chưa được xây dựng tốt, phần mềm này
thường dựng thêm những phần được cho là không thực sự
cần thiết như mây trời. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu
sâu hơn về phần mềm này để khắc phục các lỗi và có thể
tạo ra các sản phẩm là các mô hình hoàn thiện nhất.
Nghiên cứu này sẽ là tiền đề cho các nghiên cứu khác
trong tương lai của tác giả theo hướng bảo tồn các di sản,
di tích kiến trúc lịch sử tại Đà Nẵng cũng như các đối tượng
cần bảo tồn khác ở Việt Nam.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lựa chọn phần mềm để xây dựng mô hình 3D từ ảnh của các công trình kiến trúc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(132).2018, QUYỂN 2 127
LỰA CHỌN PHẦN MỀM ĐỂ XÂY DỰNG MÔ HÌNH 3D TỪ ẢNH
CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
AN SELECTION OF APPLICATION OF PHOTO-MODELING SOFTWARE:
MODELING ARCHITECTURAL BUILDING
Võ Thị Vỹ Phương
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng; vtvphuong@ute.udn.vn
Tóm tắt - Ứng dụng kỹ thuật xây dựng mô hình ba chiều từ ảnh của
vật thể đã được thực hiện ở các quốc gia phát triển trong vài năm
gần đây. Hiệu quả của công nghệ này đối với các ngành nghiên cứu
khác là một tiềm năng lớn chưa được khai thác hết. Nghiên cứu này
nhằm mục đích áp dụng công nghệ mới trong việc xây dựng mô hình
3D của các công trình kiến trúc. Bằng các thử nghiệm với nhiều phần
mềm khác nhau, tác giả muốn đánh giá khả năng, tính hiệu quả của
các phần mềm, từ đó có cơ sở để lựa chọn phần mềm phù hợp nhất
có thể thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng mô hình ba chiều của các
công trình xây dựng cũng như không gian kiến trúc. Các phần mềm
Recap 360 của Autodesk, Photoscan của Agisof và 3DF Zephyr của
3DFlow đã được lựa chọn để thử nghiệm và đánh giá. Kết quả cho
thấy, phần mềm Photoscan là một công cụ hữu hiệu cho việc xây
dựng mô hình các công trình và không gian kiến trúc.
Abstract - Application of three-dimensional modeling techniques
from images of object has been practised in developed countries
for several years. The effectiveness of this technology for other
reseaches is a great potential untapped. This research aims to
apply new technology to building 3D models of architectural
constructions. By experimenting with various softwares, the author
wants to evaluate the ability, the effectiveness of the softwares so
that we have the basis for selecting the optimal software which can
well build the 3D model of constructions as well as architectural
space. Autodesk's Recap 360 software, Agisof's Photoscan, and
3DFlow's 3DF Zephyr have been selected for testing and
evaluation. The results show that Agisof's Photoscan software is
an effective tool for modeling building of constructions and
architectural space.
Từ khóa - dựng mô hình 3D từ ảnh; mô hình 3D; Recap 360;
Photoscan; 3DF Zephyr; RealityCapture.
Key words - Photo-modeling; 3D model; Recap 360; Photoscan;
3DF Zephyr; RealityCapture.
1. Đặt vấn đề
Việc xây dựng mô hình 3D từ ảnh cho phép dựng mô
hình của đối tượng có sẵn nhanh chóng và dễ dàng, vì vậy
nó thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong những
năm gần đây. Công nghệ này đã được sử dụng trong vài
năm gần đây ở các nước phát triển để phục vụ cho việc xây
dựng mô hình các vật thể, chi tiết kiến trúc. Trong nghiên
cứu “l’Utilisation de la photomodélisation pour obtenir les
modes d’une structure” kỹ thuật xây dựng mô hình từ ảnh
được sử dụng để dựng mô hình cấu kiện xây dựng từ đó nó
hỗ trợ việc tính toán các trạng thái bị phá hoại của kết cấu
[1]. Hay trong một nghiên cứu về Kiến trúc cổ, các chi tiết
trang trí của Kiến trúc Gothic ở vùng Sardinia – Italia đã
được mô hình hóa từ ảnh để phục vụ công tác nghiên cứu
[2]. Varcity [3] là một minh chứng nổi bật cho việc ứng
dụng của kỹ thuật mô hình hóa từ ảnh kỹ thuật số, mô hình
thành phố đã được thực hiện trong phòng nghiên cứu ETH
Zurich-Thụy Sĩ. Đây là một dự án nghiên cứu kéo dài của
Hội đồng Châu Âu, kết quả thu được là video mô hình của
toàn bộ thành phố, nhờ mô hình dữ liệu này mà việc nghiên
cứu về hệ thống giao thông, năng lượng, cảnh báo thiên tai,
quy hoạch đô thị, hướng dẫn du lịch trở nên dễ dàng hơn.
Việc ứng dụng và phổ biến công nghệ mới này vào thực
tiễn tại Việt Nam là việc làm rất cần thiết và cần thực hiện
nhanh chóng. Trong bài viết này, các công trình kiến trúc
quy mô nhỏ sẽ được mô hình hóa bằng các phần mềm khác
nhau, kết quả so sánh các mô hình sẽ là cơ sở để lựa chọn
phần mềm thích hợp cho việc xây dựng mô hình các công
trình kiến trúc lớn hơn, các công trình cổ và di tích lịch sử.
2. Khuôn khổ lý thuyết và phương pháp thực hiện
2.1. Khuôn khổ lý thuyết
Để nghiên cứu về công cụ Xây dựng mô hình/Mô hình
hóa từ ảnh kỹ thuật số/Photo-modeling cần làm rõ khái
niệm và cách thức hoạt động của công cụ này.
“Mô hình hóa từ ảnh kỹ thuật số” là phương pháp xây
dựng mô hình 3D của vật thể từ hình ảnh chụp 2D của
chính vật thể đó. Dữ liệu đầu vào của quá trình mô hình
hóa này là dữ liệu hình ảnh được thu thập từ máy ảnh kỹ
thuật số, chủ yếu dưới các định dạng: jpj, jpeg. Ngoài ra
các định dạng tif, tiff, png, bmp, tga, ppm, dng cũng có thể
được sử dụng. Các dữ liệu này sẽ được nhập vào và xử lý
bởi các phần mềm chuyên dụng. Các mô hình 3D được
trích xuất sau đó cần được kiểm tra và có thể được sửa lỗi
bằng các phần mềm dựng 3D như 3DS Max, Sketchup.
Ảnh hoặc video có thể được quay chụp dễ dàng từ nhiều
thiết bị khác nhau như điện thoại, máy ảnh, thiết bị bay.
Các phần mềm khuyên dùng ảnh chụp thay vì video để tăng
chất lượng hình ảnh. Máy ảnh được di chuyển quanh đối
tượng để chụp ảnh, các ảnh này được chụp tuần tự với
khoảng cách chồng lên nhau tối thiểu 50%-60%. Đối với
phần mềm hỗ trợ đọc video thì các video này sẽ được phần
mềm tự động xuất ảnh trước khi xử lý [4].
Quá trình thu thập dữ liệu ảnh ngoài trời cần đảm bảo:
độ phân giải của ảnh lớn, ảnh công trình được thu thập
trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Trời mù, có mây được
đánh giá là hiệu quả cho việc thu thập dữ liệu ảnh, lúc này
các ảnh đảm bảo không bị chói nắng hay quá thiếu sáng.
Các dữ liệu ảnh của các công trình sau khi thu thập được
các phần mềm xử lý cho ra các kết quả là các mô hình 3D
và ảnh dưới nhiều định dạng để tiếp tục được xử lý với các
phần mềm khác. Sản phẩm cũng có thể được chia sẻ và
xem trên các trang web chuyên dùng [4].
Nguyên tắc làm việc chung của các phần mềm:
- Sắp xếp các ảnh đúng vị trí góc chụp;
128 Võ Thị Vỹ Phương
- Xây dựng đám mây điểm (Pointcloud) từ ảnh;
- Xây dựng mô hình 3D (Mesh) cùng vật liệu (Textures).
Sản phẩm được tạo ra sau quá trình xử lý ảnh bao gồm:
Đám mây điểm (Pointcloud) và Mô hình 3D (Mesh).
2.2. Phương pháp thực hiện
Để lựa chọn được phần mềm thích hợp nhất cho nhiệm
vụ xây dựng mô hình 3D từ ảnh của các công trình cần tiến
hành các bước: xây dựng mô hình 3D của các công trình
bởi các phần mềm khác nhau; phân tích, so sánh các mô
hình thu được từ các phần mềm; và trên cơ sở các phân
tích, so sánh chọn ra phần mềm phù hợp nhất.
3. Quá trình thực hiện và kết quả
3.1. Lựa chọn các phần mềm sử dụng
Hiện nay có nhiều phần mềm hỗ trợ việc dựng mô hình 3D
từ ảnh như: Recap 360 của Autodesk, Photoscan của Agisoft
(Nga), 3DF Zephyr của 3DFlow (Italia), RealityCapture.
Các phần mềm này có các thuật toán làm việc khác
nhau, vì vậy cấu hình máy tính yêu cầu cũng khác nhau. Đa
số các phần mềm yêu cầu máy tính có cấu hình cao để có
thể xử lý dữ liệu ảnh và trích xuất được mô hình. Trong đó,
phần mềm Recap 360 chạy trên mạng lưới điện toán đám
mây vì vậy đòi hỏi máy tính cần nối mạng liên tục và ổn
định. Phần mềm Photoscan và 3DF Zephyr là các phần
mềm hoạt động dựa vào cấu hình của máy tính, vì vậy máy
tính cần có tốc độ xử lý cao trên Ram, Memory Riêng
RealityCapture ngoài yêu cầu cấu hình máy tính với bộ nhớ
tối thiểu 8GB phải cần thêm card đồ họa NVIDIA Cuda
2.0+GPU với bộ nhớ tối thiểu 1000MB.
Trong giới hạn của nghiên cứu này, với máy tính có cấu
hình 12288MB Ram có bộ vi xử lý Intel® Core ™ i7 CPU
930 @ 2.8Ghz (8CPUs) và hệ điều hành Window 10
Professionel 64 bits, chỉ 3 phần mềm có thể được khảo sát
là: Recap 360, Photoscan và 3DF Zephyr.
3.2. Lựa chọn công trình để mô hình hóa
Bảy công trình được chọn có quy mô từ nhỏ đến lớn,
với chất liệu bề mặt khác nhau lựa chọn cho để khảo sát
quá trình dựng mô hình 3D của các phần mềm (Bảng 1).
Các công trình chia làm 4 nhóm:
Nhóm 1: Công trình kiến trúc nhỏ: 1 công trình;
Nhóm 2: Nội thất công trình: 2 công trình;
Nhóm 3: Mảng tường của không gian mở: 2 công trình;
Nhóm 4: Mảng tường của không gian kín: 2 công trình.
Bảng 1. Đặc điểm của các công trình được chọn để mô hình hóa
Tên mô
hình
Tên công
trình
Đặc điểm công trình
Diện
tích
Mô
hình 1
Căn nhà
Bleu
Công trình màu xanh dương có hình
dạng phi kết cấu, chất liệu gồm nhựa,
kính, thép.
30
m2
Mô
hình 2
Phòng
khách
Là căn phòng nhỏ có 2 mặt là mảng
kính với nhiều đồ vật, chi tiết có màu
sắc vật liệu khác nhau
20
m2
Mô
hình 3
Nội thất
tháp chuông
Là căn phòng bát giác với các ô cửa
kính, mái vòm bằng kết cấu gỗ
60
m2
Mô
hình 4
Bức tường
tại bến xe
điện
Là mảng tường đá cũ với nhiều dây
leo bám trên thành, sau bức tường là
hàng cây và nhà cửa
150
m2
Mô
hình 5
Sân khấu
ngoài trời
Là sân khấu lớn, được tạo thành bởi
các mảng tường gạch cũ, tháp và
cổng bằng gỗ, nền đất
400
m2
Mô
hình 6
Sân trong
nhỏ
Là sân trong của công trình nhà tù, được
tạo bởi các bức tường cũ,trên tường là
nhiều bức tranh theo trường phái
Graffiti, cửa sổ kính, tường ốp gạch men
50
m2
Mô
hình 7
Sân trong
lớn
Là sân trong với diện tích lớn có cấu trúc
phức tạp được tạo bởi các mảng tường cũ
bị rêu mốc, các bức tranh theo phái
Graffiti, cửa sổ kính, tường ốp gạch men.
200
m2
3.3. Kết quả mô hình hóa
Mô hình 1: Căn nhà Bleu
Recap 360
Số ảnh: 125/125
Vertices: 200 105
Faces: 350 879
Photoscan
Số ảnh: 125/125
Points: 10 617 633
Vertices: 357 451
Faces: 707 841
3DF Zephyr
Số ảnh: 125/125
Points: 3 207 372
Vertices: 442 546
Faces: 731 610
Hình 1. Mô hình căn nhà Bleu và các thông số kỹ thuật
Mô hình 2: Phòng khách
Recap 360
Số ảnh: 127/127
Vertices: 1 717 731
Faces: 3 116 655
Photoscan
Số ảnh: 127/127
Points: 4 842 382
Vertices: 156 248
Faces: 304 617
3DF Zephyr
Số ảnh: 67/127
Points: 1 816 270
Vertices: 243 273
Faces: 731 610
Hình 2. Mô hình phòng khách và các thông số kỹ thuật
Mô hình 3: Nội thất tháp chuông
Recap 360
Số ảnh: 58/58
Vertices: 60 949
Faces: 102 912
Photoscan
Số ảnh: 58/58
Points: 23 049 608
Vertices: 15 346
Faces: 30 000
3DF Zephyr
Số ảnh: 12/58
Points: 345 978
Vertices: 118 413
Faces: 198 550
Hình 3. Mô hình tháp chuông và các thông số kỹ thuật
Mô hình 4: Bức tường tại bến xe điện
Recap 360
Số ảnh: 83/83
Vertices: 321722
Faces: 544 094
Photoscan
Số ảnh: 83/83
Points:5 330 391
Vertices:355356
Faces:179 528
3DF Zephyr
Số ảnh: 83/83
Points: 953 547
Vertices: 292811
Faces: 479 410
Hình 4. Mô hình Bức tường tại bến xe điện và các thông số kỹ thuật
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(132).2018, QUYỂN 2 129
Mô hình 5: Sân khấu ngoài trời
Recap 360
Số ảnh:101/102
Vertices:189 370
Faces: 331 699
Photoscan
Số ảnh: 102/102
Points: 7 713 420
Vertices: 776 950
Faces:1 542 682
3DF Zephyr
Số ảnh: 91/102
Points: 1 039 117
Vertices: 446 265
Faces:763 874
Hình 5. Mô hình Sân khấu ngoài trời và các thông số kỹ thuật
Mô hình 6: Sân trong nhỏ
Recap 360
Số ảnh:48/48
Vertices:239 617
Faces:438 933
Photoscan
Số ảnh:48/48
Points:9 160 696
Vertices:310 681
Faces: 610 711
3DF Zephyr
Số ảnh:48/48
Points: 1 337 515
Vertices:233 309
Faces: 412 918
Hình 6. Mô hình Sân trong nhỏ và các thông số kỹ thuật
Mô hình 7: Sân trong lớn
Recap 360
Số ảnh: 241/241
Vertices:123 154
Faces: 217 862
Photoscan
Số ảnh: 241/241
Points:19061375
Vertices:646 370
Faces:1 270 758
3DF Zephyr
Số ảnh: 226/241
Points: 1 337 515
Vertices:1150806
Faces: 1 900 682
Hình 7. Mô hình Sân trong lớn và các thông số kỹ thuật
4. Phân tích và so sánh các mô hình thu được
4.1. So sánh khả năng dựng hình của các phần mềm
Khả năng dựng hình của phần mềm được đánh giá theo
2 giá trị: định tính và định lượng. Cụ thể: Thông qua đánh
giá trực quan các mô hình, định lượng số lượng dữ liệu ảnh
được xử lý và số lượng điểm ảnh thu được từ mô hình.
4.1.1. Xét giá trị định tính
Chỉ số định tính ở đây là việc quan sát trực tiếp mô hình
được dựng bởi các phần mềm và nó được xem là một yếu
tố quan trọng đánh giá các hình dạng (Form) của mô hình.
Đối với các vật thể đơn giản (Nhóm 1 và 3) có thể thấy
rằng các phần mềm làm việc tương đối tốt. Tuy nhiên, với
các đối tượng phức tạp hơn (Nhóm 2 và 4), có sự phân hóa
rõ ràng giữa các phần mềm.
Thuật toán của Photoscan cho phép phần mềm này định
vị được vị trí không gian của các điểm trong không gian
thông qua tọa độ điểm trên ảnh. Có thể thấy, sự vượt trội
của phần mềm Photoscan khi dựng các mô hình không gian
kín như: Phòng khách, Nội thất tháp chuông, Sân trong
nhỏ, Sân trong lớn. Cùng với dữ liệu ảnh giống nhau,
nhưng phần mềm Recap360 chỉ dựng được một mảng
tường công trình. Trong khi đó, phần mềm 3DF Zephyr tuy
dựng được khối lượng lớn hơn so với phần mềm Recap360
nhưng vẫn không đầy đủ và ở mô hình Sân trong lớn phần
mềm này đã nhầm lẫn trong việc xác định các vị trí điểm
ảnh dẫn đến sự sai lệch lớn so với công trình ban đầu.
Qua xem xét các mô hình các công trình được tạo ra có
thể thấy, phần mềm Photoscan đã xử lý ảnh và cho ra công
trình lồi lõm đúng như thực tế. Phần 3DF Zephyr chỉ có thể
tái tạo lại các thành phần của một công trình đơn giản. Riêng
phần mềm Recap 360 việc xây dựng mô hình 3 chiều của
không gian tạo bởi các công trình hầu như không thành công,
phần mềm này khá hạn chế trong việc định vị điểm trong
ảnh, nhất là các ảnh được thu khi điểm nhìn cố định.
Bảng 2. Bảng đánh giá chất lượng mô hình của 3 phần mềm
Phần mềm
Mô
hình 1
Mô
hình 2
Mô
hình 3
Mô
hình 4
Mô
hình 5
Mô
hình 6
Mô
hình 7
Recap360 + ++ + + +++ + +
3DF Zephyr ++ ++ + ++ ++ ++ ++
Photoscan +++ +++ +++ +++ + +++ +++
Bảng 2 được lập ra nhằm mục đích đánh giá tổng quan
mô hình mà các phần mềm đã xây dựng được bằng phương
pháp trực quan, trong đa số các trường hợp phần mềm
Photoscan đã làm việc tốt hơn. Các tiêu chí được xem xét
là: Hình dáng, chất liệu và màu sắc của mô hình so với công
trình thực tế. Thang đo được cho điểm từ + đến +++ theo
mức độ tăng dần của chất lượng mô hình được trích xuất.
4.1.2. Xét giá trị định lượng
Xét giá trị số lượng ảnh dữ liệu được xử lý
Bảng 3. Số lượng ảnh được xử lý trên tổng số ảnh nhập vào
STT Mô hình Recap360 Photoscan 3DF Zephyr
1 Mô hình 1 125/125 125/125 125/125
2 Mô hình 2 127/127 127/127 67/127
3 Mô hình 3 58/58 58/58 12/58
4 Mô hình 4 83/83 83/83 83/83
5 Mô hình 5 101/102 102/102 91/102
6 Mô hình 6 48/48 48/48 48/48
7 Mô hình 7 241/241 241/241 226/241
Bảng 3, thống kê số lượng ảnh được xử lý bởi các phần
mềm và số lượng ảnh nhập vào. Qua đó có thể thấy, cùng
dữ liệu nhập vào như nhau nhưng thuật toán của các phần
130 Võ Thị Vỹ Phương
mềm là khác nhau, số lượng ảnh được xử lý thể hiện phạm
vi xử lý dữ liệu của các phần mềm. Tùy vào vị trí trong
không gian mà chất liệu và màu sắc của các mặt, các phần
của vật thể tiếp nhận và phát ra cường độ ánh sáng khác
nhau, do đó chất lượng các ảnh thu được cũng khác nhau.
Các dữ liệu ảnh được sử dụng tối đa, đồng nghĩa với
việc các điểm ảnh được tạo ra nhiều hơn. Các điểm ảnh tại
các vị trí chất lượng ảnh kém được sử dụng đồng nghĩa với
việc hình dạng của vật thể được xây dựng đầy đủ hơn. Bảng
thống kê này chỉ ra rằng: Photoscan là phần mềm có phạm
vi xử lý dữ liệu tốt nhất, tất cả các dữ liệu ảnh đều được xử
lý để tạo ra điểm ảnh. Trong khi đó, phần mềm 3DF Zephyr
là có phạm vi xử lý dữ liệu thấp nhất.
Xét giá trị số lượng điểm ảnh thu được từ các mô hình
Khi xem xét về giá trị này tác giả nhận thấy, các phần
mềm thống kê dữ liệu về mô hình không giống nhau. Để
có thể so sánh được giá trị điểm ảnh tác giả đã phân ra 2
kiểu so sánh: 1) so sánh giá trị điểm (Vertices) và mặt
(Faces) của các phần mềm và 2) so sánh giá trị điểm
(Points) của 2 phần mềm 3DF Zephyr và Photoscan. Ở đây
cần hiểu, giá trị điểm được phân làm 2 loại là Points và
Vertices, trong đó Point là điểm tự do còn Vertices là điểm
tạo ra bởi sự giao nhau giữa các mặt.
- Kiểu 1: So sánh giá trị điểm (Vertices) và mặt (Faces)
của các phần mềm. Bảng 4 và 5 thống kê các giá trị điểm
và mặt tạo ra trong 7 mô hình được xây dựng.
Bảng 4. Bảng thống kê giá trị điểm (Vertices) trên các mô hình
STT Tên mô hình Recap360 3DF Zephyr Photoscan
1 Mô hình 1 200 105 442 546 357 451
2 Mô hình 2 1 717 731 243 273 156 248
3 Mô hình 3 60 949 118 413 15 346
4 Mô hình 4 321 722 292 811 355 356
5 Mô hình 5 189 370 446 265 776 950
6 Mô hình 6 239 617 233 309 310 681
7 Mô hình 7 123 154 1 150 806 646 370
Bảng 5. Bảng thống kê giá trị mặt (Faces) trên các mô hình
STT Tên mô hình Recap360 3DF Zephyr Photoscan
1 Mô hình 1 350 879 731 610 707 841
2 Mô hình 2 3 116 655 319 326 304 617
3 Mô hình 3 102 912 198 550 30 000
4 Mô hình 4 544 094 479 410 179 528
5 Mô hình 5 331 699 763 874 1 542 682
6 Mô hình 6 438 933 412 918 610 711
7 Mô hình 7 217 862 1 900 682 1 270 758
Sau khi xem xét các giá trị điểm và mặt thu được từ các
mô hình và đối chiếu chúng với các giá trị tương ứng về chất
lượng mô hình theo phương pháp trực quan trong Bảng 2,
tác giả nhận thấy, các chỉ số trên không phản ánh chính xác
chất lượng của mô hình, không có quy luật về mối quan hệ
giữa các giá trị và chất lượng mô hình được rút ra. Ví dụ ở
mô Hình 2 giá trị điểm và mặt của Recap360 là lớn nhất,
nhưng trên thực tế Recap360 đã dựng sai hình dáng của vật
thể. Ở mô Hình 7 cũng tương tự giá trị điểm và mặt của 3DF
Zephyr là lớn nhất, tuy nhiên mô hình của phần mềm này
cũng sai lệch lớn so với công trình ban đầu. Ngược lại, mô
hình số của Photoscan được đánh giá tốt nhất về mặt trực
quan nhưng các giá trị điểm và mặt được thống kê rất thấp.
Như vậy, trong phép so sánh này có thể kết luận rằng,
các giá trị điểm (Vertices) và mặt (Faces) mà các phần mềm
thống kê được trong từng mô hình chỉ có giá trị đối với
từng phần mềm riêng lẻ, chúng không có giá trị trong các
phép so sánh chéo giữa các phần mềm.
- Kiểu 2: so sánh giá trị điểm (Points) của 2 phần mềm
3DF Zephyr và Photoscan. Phép so sánh này không áp
dụng được cho phần mềm Recap360 bởi phần mềm này
không có thuật toán để thống kê giá trị này.
Bảng 6. Bảng thống kê giá trị điểm (Points) trên các mô hình
STT Tên mô hình 3DF Zephyr Photoscan
1 Mô hình 1 3 207 372 10 617 633
2 Mô hình 2 1 816 270 4 842 382
3 Mô hình 3 3 679 013 23 049 608
4 Mô hình 4 953 547 5 330 391
5 Mô hình 5 1 039 117 7 713 420
6 Mô hình 6 2 795 672 9 160 696
7 Mô hình 7 1 337 515 19 061 375
Sau khi xem xét Bảng 6 và mô hình tạo ra của 2 phần
mềm có thể đưa ra được các nhận xét sau:
+ Số lượng điểm (Points) được tạo bởi Photoscan luôn
lớn hơn vượt trội so với phần mềm còn lại. Ví dụ: trong mô
hình Phòng khách, Photoscan tạo ra 4842382 điểm trong khi
3DF Zephyr chỉ tạo ra 1816270 điểm. Ở mô hình Sân trong
lớn, Photoscan tạo ra được 19061375 điểm ảnh lớn hơn rất
nhiều lần con số 1337515 điểm ảnh mà phần mềm 3DF
Zephyr tạo ra. Do đó, kết luận rằng, quá trình xây dựng đám
mây điểm (Pointcloud) của Photoscan rất hiệu quả nó có thể
tạo ra số điểm ảnh rất lớn từ dữ liệu ảnh đầu vào.
+ Số lượng điểm (Points) và khối lượng mô hình tạo ra
có mối liên hệ với nhau, cụ thể: số lượng điểm càng lớn thì
khối lượng mô hình được xây dựng càng nhiều.
+ Khi xem xét các giá trị điểm (Points) và đối chiếu
chúng với các giá trị tương ứng về chất lượng mô hình theo
phương pháp trực quan trong Bảng 2, có thể rút ra được giá
trị điểm (Points) có sự tương đồng khá cao với chất lượng
mô hình. Cụ thể, phần mềm Photoscan tạo ra số lượng điểm
lớn hơn trong cả 7 trường hợp và xét theo Bảng 1 thì mô
hình của phần mềm này cũng dẫn đầu trong 6/7 trường hợp.
Như vậy, trong giới hạn của so sánh này thì giá trị điểm
(Points) là giá trị có độ tin cậy khá cao, có thể dùng để làm
giá trị hỗ trợ khi so sánh chất lượng và hiệu quả của các
phần mềm khi xây dựng mô hình 3D từ ảnh.
4.2. So sánh về vật liệu (Textures) của mô hình
Dễ thấy các phần mềm hầu như làm tốt phần mềm việc
dán vật liệu lên các phần của vật thể. Trong đó, các chất
liệu thô nhám như tường, đá, gạch, ngói, vải cây xanh
được các phần mềm thể hiện tốt màu sắc, hình dạng, ví dụ
tại hình 8 (ảnh thật và ảnh từ mô hình).
Qua xem xét mô hình của các công trình có sử dụng vật
liệu Kim loại (mô hình Căn nhà Bleu, Bức tường tại bến xe
điện) có thể thấy: các vật thể bằng kim loại được Photoscan
dựng khá tốt trong khi mô hình của Recap360 phần màu
sắc của vật thể kim loại bị nhòa và ghép nhầm màu sắc của
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(132).2018, QUYỂN 2 131
vật thể này lên vật thể khác, 3DF Zephyr dựng được các
vật thể Kim loại nhưng không đầy đủ và hoàn thiện.
Hình 8. Vật liệu được thể hiện tốt trên mô hình Bức tường
tại bến xe điện (mô hình của phần mềm Photoscan)
Đối với các vật thể, đối tượng bằng vật liệu kính các
phần mềm đã không làm tốt việc ốp màu sắc, chất liệu lên
bề mặt. Có thể lý giải là do chất liệu này có tính phản quang
lớn, độ trong suốt cao từ đó dẫn đến việc xác định điểm ảnh
khó khăn kéo theo việc ghép màu sắc không thành công.
4.3. So sánh quá trình xây dựng mô hình
Tổng kết việc xây dựng mô hình cho 7 công trình bởi 3
phần mềm, thu được các đánh giá như sau:
- Đối với phần mềm Recap 360, các bước xây dựng mô
hình được triển khai trên mạng không gian vì thế không thể
tác động được vào quá trình này.
- Đối với phần mềm Photoscan, sau khi phần mềm xây
dựng đám mây điểm (Pointcloud) có thể hiệu chỉnh các
thông số để làm dày đám mây điểm, quá trình này quyết
định đến chất lượng mô hình (Mesh) sau khi trích xuất. Tùy
theo các thông số được hiệu chỉnh mà quá trình xây dựng
mô hình sẽ nhanh hay chậm. Với máy tính sử dụng trong
nghiên cứu này, trích xuất mô hình (200m2) với chỉ số làm
dày điểm trung bình (medium) mất hơn 20 giờ để thực hiện.
- Đối với phần mềm 3DF Zephyr, quá trình cài đặt các
thông số kỹ thuật nằm ở giai đoạn đầu tiên và khá phức tạp
khi thực hiện. Các chỉ số cần thiết lập là khá nhiều, các chỉ
số này tương ứng với các quy trình trích xuất mô hình khác
nhau. Do đó cùng với 1 dữ liệu ảnh như nhau, phần mềm
này có thể trích xuất ra nhiều mô hình với hình dạng khác
nhau. Điều cần lưu ý đối với phần mềm này là cần xác định
các thông số kỹ thuật để phần mềm xây dựng được mô hình
đúng với thực tế nhất, điều này đòi hỏi nhiều kinh nghiệm
và phải thực hiện rất nhiều lần cho cùng một đối tượng.
Tóm lại, đối với phần mềm Recap 360 quá trình mô
hình hóa tuy đơn giản nhưng vì không thể can thiệp vào
quá trình này nên cũng không thể giám sát hay điều chỉnh
các thông số kỹ thuật để tăng chất lượng của mô hình. Đối
với phần mềm Photoscan và 3DF Zephyr quá trình mô hình
hóa có thể được điều chỉnh nhanh, chậm, chất lượng cao
hay thấp cho phù hợp với điều kiện của máy tính được sử
dụng. Các thông số kỹ thuật được thiết lập tốt có thể tạo ra
mô hình có chất lượng tốt nhất.
4.4. Kết quả nghiên cứu
Sau khi xem xét các tiêu chí so sánh và đánh giá gồm
có: Khả năng dựng hình, Vật liệu của mô hình, Quá trình
xây dựng mô hình. Có thể đưa ra các nhận xét sau:
- Theo đánh giá định tính bằng phương pháp trực quan
thì phần mềm Photoscan là phần mềm xây dựng mô hình
tốt nhất trong 3 phần mềm nghiên cứu.
- Theo đánh giá định lượng thì các giá trị điểm (Vertices)
và mặt (Faces) không đủ tin cậy trong các phép so sánh chất
lượng mô hình giữa các phần mềm. Trong khi đó, giá trị
điểm (Points) được xem là có khả năng hỗ trợ việc so sánh
chất lượng các mô hình. Từ đó nhận thấy, phần mềm
Photoscan luôn tạo ra được đám mây điểm với mật độ lớn
hơn và khối lượng mô hình xây dựng được cũng lớn hơn.
- Các phần mềm làm tốt việc dán vật liệu cho các mô
hình, trừ một số vật liệu có độ phản quang lớn như kính.
- Quá trình xây dựng mô hình của phần mềm Photoscan
là hợp lý nhất, vừa có thể can thiệp vào quá trình thực hiện
của phần mềm, đồng thời quá trình này cũng không quá
phức tạp và đòi hỏi phải thực hiện nhiều lần.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu 3 phần mềm
Recap360, 3DF Zephyr và Photoscan để chọn ra phần mềm
phù hợp nhất cho nhiệm vụ xây dựng mô hình 3D từ ảnh
2D, có thể chọn ra được phần mềm phù hợp là phần mềm
Photoscan của hãng Agisof – Nga.
5. Kết luận
Dựa vào kết quả nghiên cứu thực nghiệm này, tác giả
kết luận rằng: cho đến thời điểm hiện tại trong phạm vi 3
phần mềm được nghiên cứu thì phần mềm Photoscan của
Agisof là phần mềm phù hợp nhất để mô hình hóa các công
trình kiến trúc từ ảnh 2D của công trình. Phần mềm này
cho phép, xây dựng được đám mây điểm (Pointclouds) rất
dày đặc từ đó khối lượng vật thể được xây dựng cũng lớn
hơn so với các phần mềm còn lại. Thuật toán xử lý dữ liệu
của phần mềm Photoscan cũng nổi trội trong việc định vị
các điểm trong không gian thông qua dữ liệu ảnh nhờ đó
mà các mô hình được xây dựng đảm bảo được hình dạng,
sự lồi lõm như trong thực tế. Thêm vào đó, quá trình thực
hiện việc xây dựng mô hình phần mềm này rất linh động,
dễ phù hợp với điều kiện thiết bị máy móc.
Bên cạnh các ưu điểm của phần mềm Photoscan thì
cũng còn nhược điểm trên các mô hình của phần mềm này
như: chất liệu kính chưa được xây dựng tốt, phần mềm này
thường dựng thêm những phần được cho là không thực sự
cần thiết như mây trời. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu
sâu hơn về phần mềm này để khắc phục các lỗi và có thể
tạo ra các sản phẩm là các mô hình hoàn thiện nhất.
Nghiên cứu này sẽ là tiền đề cho các nghiên cứu khác
trong tương lai của tác giả theo hướng bảo tồn các di sản,
di tích kiến trúc lịch sử tại Đà Nẵng cũng như các đối tượng
cần bảo tồn khác ở Việt Nam.
Lời cảm ơn: “Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển
tiềm lực Khoa học Công nghệ của Trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật - Đại học Đà Nẵng trong đề tài có mã số T2018-06-107”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Richardson and Richardson, “Using Photo Modeling to Obtain the
Modes of a Structure”, Sound and Vibration, Vol. 42, 2008, pp. 1-16
[2] Casu and Pisu, “Photo-Modeling and Cloud Computing. Applications in
the Survey of Late Gothic Architectural Elements”, Int. Arch.
Photogramm. Remote Sens. Spat. Inf. Sci. XL-5 W, Vol. 1, 2013, pp. 43-50.
[3] https://varcity.ethz.ch/
[4]
(BBT nhận bài: 02/10/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 22/10/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lua_chon_phan_mem_de_xay_dung_mo_hinh_3d_tu_anh_cua_cac_cong.pdf