MỤC LỤC
MỞĐẦU 3
CHƯƠNG 1 - KHÁI QUÁT VỀĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM NỰC NƯỚC
BIỂN ĐÔNG. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .9
1.1. Khái quát vềđiều kiện tự nhiên và đặc điểm dao động mực nước biển Đông 9
1.1.1. Hình dạng đường bờ và phân bốđộ sâu của biển Đông .9
1.1.2. Chếđộ gió trên biển Đông 10
1.1.3. Thủy triều và dao động mực nước biển Đông 10
1.2. Cơ sở phương pháp nghiên cứu mực nước 12
1.2.1. Phương pháp phân tích điều hòa mực nước . 12
1.2.2. Công thức biến đổi Fourier. Phương pháp phân tích phổ trong hải dương học . 13
1.2.3. Phương pháp mô hình số trị thủy động 16
1.2.3.1. Hệ phương trình tuyến tính của chuyển động sóng dài trong nước nông . 16
1.2.3.2. Những điều kiện ban đầu và điều kiện biên 18
1.2.3.3. Sơđồ sai phân của hệ phương trình 19
CHƯƠNG 2 - KHẢO SÁT DAO ĐỘNG TỰ DO CỦA BIỂN ĐÔNG .21
2.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu dao động tự do của biển Đông 21
2.2. Phương pháp tính dao động tự do của thủy vực 22
2.3. Tính dao động tự do của biển Đông 23
2.3.1. Mô hình số dao động tự do của biển Đông .23
2.3.2. Lưới tính .24
2.3.3. Kết quả tính chu kỳ và những sơđồ cấu trúc không gian của các dao động tự do 25
2.4. Những kết luận rút ra từ khảo sát dao động tự do .31
CHƯƠNG 3 – PHỔ MỰC NƯỚC Ở VEN BỜ TÂY BIỂN ĐÔNG .49
3.1. Đặt vấn đề nghiên cứu phổ mực nước .49
3.2. Lọc những chuỗi quan trắc mực nước để tính phổ 50
3.3. Kết quả tính phổ và nhận xét .52
CHƯƠNG 4 – TÍNH MỰC NƯỚC TRONG TRƯỜNG GIÓ MÙA 58
4.1. Dao động mùa của mực nước và đặt vấn đề tính toán .58
4.2. Mô hình số tính mực nước theo trường gió .60
4.3. Các bản đồ trường gió xuất phát 61
4.4. Phân bố mực nước trong gió đông bắc 63
4.5. Phân bố mực nước trong gió tây nam 65
4.6. Nhận xét chung về kết quả tính mực nước theo mô hình 66
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
PHỤ LỤC .74
75 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Dao động tự do và dao động mùa của mực nước Biển Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng trong biển sẽ có dao động với
31
biên độ nguy hiểm. Đáng tiếc chúng tôi không có tư liệu để phân tích khía cạnh này của vấn
đề.
Sơ đồ tính toán ở đây có thể sử dụng để khảo sát dao động riêng của các đầm hoặc hồ
nước khi nghiên cứu xâyxi, hay dao động lắc của các thủy vực cảng, vũng tầu...
Hình 2.1. Phổ dao động tự do tại điểm số 1
(các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-23,8-19,2-11,6-10,6-9,8-7,6-6,1 giờ)
Hình 2.2. Phổ dao động tự do tại điểm số 2
(các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-19,2-13,2-11,6-10,6-9,8-8,2 giờ)
32
Hình 2.3. Phổ dao động tự do tại điểm số 3
(các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-23,8-19,2-13,2-11,6-10,6-9,6-8,2-7,1-6,1 giờ)
Hình 2.4. Phổ dao động tự do tại điểm số 4
(các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-24,8-19,2-17,2-13,2-10,6-9,6-9,1-8,6-8,2-6,1 giờ)
33
Hình 2.5. Phổ dao động tự do tại điểm số 5
(các đỉnh ứng với chu kỳ 19,2-17,2-14,7-8,2-6,9 giờ)
Hình 2.6. Phổ dao động tự do tại điểm số 6
(các đỉnh ứng với chu kỳ 33,3-25,0-19,2-17,2-14,7-7,6 giờ)
34
Hình 2.7. Phổ dao động tự do tại điểm số 7
(các đỉnh ứng với chu kỳ 19,2-17,2 giờ)
Hình 2.8. Phổ dao động tự do tại điểm số 8
(các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ)
35
Hình 2.9. Phổ dao động tự do tại điểm số 9
(các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-13,2-11,6-10,6-9,8-7,9-7,1-6,4-6,1 giờ)
Hình 2.10. Phổ dao động tự do tại điểm số 10
(các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-19,2-17,2-10,6-6,1 giờ)
36
Hình 2.11. Phổ dao động tự do tại điểm số 11
(các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ)
Hình 2.12. Phổ dao động tự do tại điểm số 12
(các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ)
37
Hình 2.13. Phổ dao động tự do tại điểm số 13
(các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ)
Hình 2.14. Phổ dao động tự do tại điểm số 14
(các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-25,0-19,2-17,2-11,6-10,6-9,6-9,4 giờ)
38
Hình 2.15. Phổ dao động tự do tại điểm số 15
(các đỉnh ứng với chu kỳ 19,2-17,2 giờ)
Hình 2.16. Phổ dao động tự do tại điểm số 16
(các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ)
39
Hình 2.17. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ (gạch nối)
của dao động tự do với chu kỳ 55,6 giờ
40
Hình 2.18. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ (gạch nối)
của dao động tự do với chu kỳ 24,8 giờ
41
Hình 2.19. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ (gạch nối)
của dao động tự do với chu kỳ 19,2 giờ
42
Hình 2.20. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ (gạch nối)
của dao động tự do với chu kỳ 17,2 giờ
43
Hình 2.21. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ (gạch nối)
của dao động tự do với chu kỳ 11,6 giờ
44
Hình 2.22. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ (gạch nối)
của dao động tự do với chu kỳ 10,6 giờ
45
Hình 2.23. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ (gạch nối)
của dao động tự do với chu kỳ 9,7 giờ
46
Hình 2.24. Những đường đồng pha (liền nét) và đồng biên độ, cm (gạch nối)
của sóng triều ở biển Đông theo Nguyễn Ngọc Thụy [43] 1K
47
Hình 2.25. Phân bố tính chất thủy triều trên biển Đông theo Nguyễn Ngọc Thuy [43]
(1 – bán nhật triều đều, 2 – bán nhật triều không đều, 3 – nhật triều không đều, 4 – nhật triều đều)
48
CHƯƠNG 3 – PHỔ MỰC NƯỚC Ở VEN BỜ TÂY BIỂN ĐÔNG
3.1. Đặt vấn đề nghiên cứu phổ mực nước
Phổ là một đặc trưng mang thông tin đầy đủ nhất về quá trình dao động của hiện tượng
nghiên cứu. Dao động mực nước ở biển có tính chất phức tạp do bị ảnh hưởng của nhiều
nguyên nhân tác động và đặc điểm phản ứng của biển đối với những nguyên nhân đó cũng
khác nhau phụ thuộc vào hình dạng và phân bố độ sâu riêng có của thủy vực.
Vì biến động của mực nước biển và đại dương là kết quả tác động của nhiều quá trình
động lực trong biển và trong khí quyển, kể cả những quá trình vĩ mô, nên phổ mực nước còn
chứa thông tin về những quá trình đó. Nhiều khi người ta nghiên cứu những quá trình ấy
thông qua nghiên cứu phổ mực nước.
Nghiên cứu phổ dao động của mực nước giúp hiểu được cấu trúc bên trong của dao
động, xác định những nguyên nhân gây ra biến động của mực nước và nghiên cứu phương
pháp dự báo.
Hàng loạt bài viết gần đây trong sách báo hải dương học trên thế giới [20-23, 28, 37,
27] giành sự chú ý cho các vấn đề về biến động thời gian của mực nước biển như dao động
nhiều năm, dao động mùa và đặc biệt những dao động xi nốp. Trong khi nghiên cứu, các
phương pháp phổ đã được sử dụng rộng rãi nhất [27].
Phân tích phổ các chuỗi dao động mực nước ở những trạm ven bờ và cửa sông còn có ý
nghĩa thực tiễn để phát hiện thêm những dao động với chu kỳ triều, những chu kỳ dao động
do ảnh hưởng của nước nông mà các phương pháp phân tích điều hòa nhiều khi không xác
định được. Điều này rất quan trọng trong công tác dự báo mực nước biển, nhất là đối với vùng
biển nước ta với đặc điểm thủy triều toàn nhật chiếm ưu thế, các sóng bội nước nông của các
sóng toàn nhật rất có khả năng phát triển mạnh như trong chương 2 chúng tôi cũng đã nhận
xét.
Chính vì lý do đó mà đã hình thành những xu hướng động lực học phổ nhằm nghiên cứu
thiết lập những mối quan hệ giữa các đặc trưng phổ của mực nước và các lực tác động (xem
[27, 65, 67]).
Những kết quả tính phổ mực nước đối với biển Đông như trong phần mở đầu đã nêu chỉ
mới là bắt đầu. Trong [17, 42-43] thông báo những kết quả phân tích phổ chuỗi mực nước độ
gián đoạn một giờ vóiw độ dài tháng và hai tháng cho thấy rằng trong dao động mực nước
biển ở những trạm ven biển, cửa sông và trong sông tồn tại những nhóm tần số ứng với các
sóng triều và các sóng nước nông. Việc tính phổ liên hệ giữa các yếu tố khí tượng gây nhiễu
động mực nước cũng như phổ liên hệ của mực nước ở những trạm khác nhau trong biển đã
cho phép tác giả [42] rút ra những kết luận quan trọng về những nguyên nhân chủ yếu gây
nhiễu động mực nước ở vùng biển Đông.
Nhằm có thêm những thông tin rộng rãi hơn nữa về cấu trúc những dao động mực nước
49
biển và phân tích sự biến đổi của nó ở những vùng khác nhau dọc theo bờ biển nước ta, chúng
tôi đã sử dụng sáu chuỗi số liệu thực đo từng giờ của mực nước với độ dài năm tại các trạm
Hòn Dấu, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Vũng Tàu và Rạch Giá để tính phổ dao động mực nước biển.
Ngoài ra, mục đích tính phổ trong chương này cũng còn có ý nghĩa dùng để so sánh với
những kết quả khảo sát dao động tự do ở biển Đông nhận được trong chương 2.
3.2. Lọc những chuỗi quan trắc mực nước để tính phổ
Trong hải dương học tồn tại rất nhiều chỉ dẫn về phương pháp phân tích phổ các chuỗi
thời gian [34, 54, 22, 35]. Trong tài liệu tiếng Việt bài viết của Nguyễn Thuyết [17] dã trình
bày rất kỹ về cơ sở toán học của phương pháp phổ.
Tuy nhiên có một nhận xét rằng các phương pháp lọc đối với chuỗi số liệu quan trắc
dựa trên các hàm làm trơn đều xuất phát từ lý thuyết lọc các nhiễu trong kỹ thuật vô tuyến,
khi người ta đã biết rõ cấu trúc tín hiệu có ích.
Trong khi phân tích những chuỗi thời gian của các quá trình tự nhiên trong biển nhiệm
vụ nghiên cứu là phát hiện những đỉnh phổ chưa biết đặc trưng cho những dao động mà người
ta quan tâm.
Kinh nghiệm trong [42] áp dụng các hàm làm trơn của Hanning [57] để tính phổ những
chuỗi giá trị mực nước trung bình cho kết quả tốt giúp phát hiện những chu kỳ năm và nửa
năm trong dao động.
Đối với những chuỗi mực nước độ gián đoạn một giờ ở vùng biển với thủy triều mạnh
như ở biển nước ta và khi chúng ta đặt ra nhiệm vụ phân tích phát hiện những chu kỳ trong
một dải rộng thì việc sử dụng hàm làm trơn kiểu Hanning, hay những kiểu hàm làm trơn khác,
mà chúng tôi đã liệt kê ở mục 2 chương 1 sẽ gặp khó khăn đáng kể do chỗ rất khó xác định
điểm cắt của hàm tương quan. Hàm tương quan của các yếu tố khí tượng thủy văn nhiều khi
hoàn toàn không tiến dần tới không ở những giá trị lớn của bước dịch thời gian khi tính mà
luôn luôn dao động với biên độ đáng kể xung quanh trục hoành (xem hình 3.2-3.7).
Vì vậy, về nguyên tắc cách duy nhất trong khi phân tích các chuỗi mực nước là phải loại
trừ các dao động triều đã biết rõ về chu kỳ của nó theo lý thuyết phân tích điều hòa. Người ta
lấy chuỗi quan trắc mực nước thực đo trừ đi chuỗi mực nước thủy triều dự tính (kiểu lọc
Doodson). Như vậy là người ta đã thực hiện một biến đổi đối với chuỗi quan trắc xuất phát,
và đương nhiên ước lượng phổ thu được rất có thể có biến dạng, đối với những tần số mới
chưa biết trước chúng ta khó có thể đoan chắc là nó có thực sự tồn tại hay không. Chúng tôi
đã thử nghiệm phương pháp này bằng cách loại trừ hẳn 30 sóng triều nhưng chưa cho kết quả
tốt.
Trong khi phân tích phổ dao động mực nước ở vùng biển nước ta, chúng tôi nhận thấy
rằng thành phần dao động chu kỳ nhật triều có năng lượng rất lớn. Nếu để thành phần này lại
trong chuỗi xuất phát để phân tích phổ, thì đỉnh phổ rất cao của nó do hiệu ứng “thấm” sẽ làm
lệch hoặc làm lu mờ những đỉnh phổ ứng với những tần số khác (hình 3.1).
50
Hình 3.1. Những hàm phổ mực nước tính theo các chuỗi đo chưa loại bỏ nhật triều tại Hòn Dấu
theo số liệu năm 1975 (a), năm 1987 (b), Đà Nẵng (c), Quy Nhơn (d), Vũng Tàu (e) và Rạch Giá (f)
Vì vậy chúng tôi thử nghiệm cách loại riêng thành phần này bằng phân tích điều hòa
chuỗi xuất phát theo các công thức (1.6)-(1.8) ở chương 1 cho từng chu kỳ nhật triều 24,82
giờ của chuỗi năm. Cách loại triều này đơn giản hơn nhiều, vì không cần dự tính mực nước.
Ngoài ra, nó còn có ưu điểm nữa là trong chuỗi xuất phát vẫn còn dao động triều bán nhật làm
căn cứ để kiểm tra xem các đỉnh phổ có bị xê dịch không.
Căn cứ vào các kết quả tính phổ trong mục sau, chúng tôi thấy rằng cách lọc này rất
hiệu quả khi phát hiện những dao động nước nông phong phú trong chuỗi mực nước.
51
Để nhận được những chuỗi dừng khi tính phổ cũng đã loại các dao động năm và nửa
năm, đồng thời thử nghiệm với các bước dịch thời gian cực đại của hàm tương quan khác
nhau. Với chuỗi mực nước độ gián đoạn một giờ và độ dài một năm, tức gồm 8760 độ cao
mực nước, chúng tôi đã thử nghiệm với bước dịch cực đại của hàm tương quan từ 500 đến
2000 giờ. So sánh các đường cong phổ nhận được cho thấy chấp nhận bước dịch thời gian
bằng khoảng 1000 giờ đến 1500 giờ, tức bằng khoảng 1/8 độ dài chuỗi quan trắc cho kết quả
tốt nhất.
3.3. Kết quả tính phổ và nhận xét
Những đồ thị phổ được trình bày trên các hình (3.2)-(3.7). Như đã nêu ở trên, việc loại
bớt một phần chính dao động thủy triều đã làm tung độ của các đỉnh phổ với phương sai nhỏ
nhưng hiện thực tồn tại trong dao động mực nước. Trên các đường cong phổ vẫn còn các đỉnh
của bán nhật triều và bóng dáng của nhật triều làm cho chúng ta có căn cứ để tin cậy rằng
những đỉnh phổ nước nông nằm đúng vị trí của chúng. Những đỉnh phổ của dải các chu kỳ xi
nốp, cỡ vài ngày cũng đã xuất hiện tuy còn ở mức độ mờ nhạt hơn. Để xác định chính xác
những chu kỳ dao động loại này có lẽ cần phải sử dụng các chuỗi mực nước có độ dài lớn hơn
hoặc những chuỗi mực nước trung bình ngày trong nhiều năm để phân tích.
Tuy nhiên, trong công trình [42] đã khẳng định sự tồn tại của những chu kỳ này liên
quan tới sự lặp lại của các nhiễu động gió mùa mùa đông và một phần gió mùa mùa hạ.
Nhờ những đường cong phổ có thể xác định những chu kỳ đóng góp vào dao động mực
nước ở từng trạm như sau (không kể các chu kỳ toàn nhật và bán nhật) (bảng 3.1 và 3.2):
Những trạm ở sâu trong vùng nước nông như Hòn Dấu, Vũng Tàu, Rạch Giá, phần
phương sai phân bố cho các đỉnh phổ với chu kỳ nước nông khá lớn, thể hiện ở chỗ những
đỉnh phổ ứng với những chu kỳ này nhô cao và rõ nét hơn. Những chu kỳ nước nông khá
phong phú và ổn định ở những trạm khác nhau.
Những trạm ở dọc bờ miền trung nước ta như Đà Nẵng, Quy Nhơn nơi trực tiếp kế cận
với vùng khơi của biển thường những sóng nước nông rất ít phát triển, ngược lại phần phương
sai phân bố cho các đỉnh phổ ứng với những chu kỳ cỡ vài ngày có xu thế lớn hơn, điều đó có
nghĩa rằng ở những nơi này các dao động mực nước chịu những ảnh hưởng từ phía các quá
trình xi nốp trong khí quyển trên biển khơi nhiều hơn. Trong [42] cũng đã khẳng định điều
này khi phân tích những dao động mùa của mực nước biển Đông.
Thực tế phân tích điều hòa cũng xác nhận rằng tại những trạm nước nông, những biên
độ của các sóng nước nông là bội hai, bội ba, bội bốn của các sóng thủy triều có biên độ lớn
hơn hẳn so với những trạm giáp biển khơi. Thí dụ, tại các trạm Hòn Dấu, Vũng Tàu, Rạch Giá
các hằng số điều hòa biên độ của các sóng này, nhất là các sóng bội ba của những sóng toàn
nhật có thể đạt từ 1 đến 3 cm trong khi tại các trạm khơi như Đà Nẵng, Quy Nhơn chúng
thường nhỏ hơn một, hoặc thậm chí xấp xỉ bằng không (xem phụ lục). Điều này có thể cần
được lưu ý trong các tính toán mực nước cực trị của các trạm tương ứng.
52
Bảng 3.1. Những chu kỳ nhóm nước nông
Trạm Chu kỳ (giờ)
Hòn Dấu 8,4 6,2 5,1 4,2 và 3,6
Đà Nẵng 8,2 6,2 5,1
Quy Nhơn 8,1 6,3
Vũng Tàu 8,4 6,1 5 4 3,6 và 3,1
Rạch Giá 8,2 6,2 5,1 4,1 và 3,5
Bảng 3.2. Một số chu kỳ cỡ nhiều giờ và nhiều ngày
Trạm Chu kỳ
Hòn Dấu 19,2 giờ 2,6 – 3,2 – 4 – 5 – 13 – 26 ngày
Đà Nẵng 3,7 – 6,6 – 14,3 ngày
Quy Nhơn 3,3 – 6,6 – 13 ngày
Vũng Tàu 2,3 – 3,2 – 3,8 – 5,3 – 6,6 – 28,3 ngày
Rạch Giá 19,3 giờ 3,2 – 3,8 – 5 – 6,8 – 14,3 – 26 ngày
Chúng tôi sẽ dẫn dưới đây những kết quả phân tích phổ trong [44] để so sánh và có khái
niệm hệ thống về các đặc trưng phổ của vùng biển nghiên cứu. Ở đây tác giả đã nghiên cứu
khá kỹ phổ dao động của mực nước và của áp suất khí quyển tại trạm Hòn Dấu. Hệ số liên hệ
giữa hai yếu tố khí tượng và hải văn này ở trạm thủy triều Hòn Dấu và đài khí tượng Phủ Liễn
đạt tương đối cao, từ 0,6 đến gần một đơn vị. Với chuỗi những giá trị trung bình tháng tác giả
nhận được các chu kỳ các chu kỳ dao động năm và mùa, tức tuần tự bằng 12 và 6 tháng. Với
chuỗi mực nước trung bình ngày phân tích phổ cho những đỉnh phổ với chu kỳ 12, 6 và 3,6
tháng. Khi sử dụng những chuỗi mực nước trung bình ngày trong khoảng thời gian dài 6 năm
hoặc chuỗi mực nước giờ dài một năm, tác giả phát hiện những chu kỳ xấp xỉ bằng những chu
kỳ chúng tôi đã nhận được trên đây đối với trạm Hòn Dấu. Như vậy, những chu kỳ nhận được
trên đây đối với loạt trạm ven bờ biển nước ta có thể có giá trị tham khảo giúp chúng ta có
khái niệm hệ thống về cấu trúc phổ của dao động mực nước vùng biển này.
Điều đáng chú ý là trong các phổ của mực nước tính được, không kể các chu ngày và
nửa ngày, có mặt những dao động với những chu kỳ trùng với chu kỳ dao động tự do đã tính
được ở chương 2.
Thí dụ, tại Hòn Dấu có mặt chu kỳ 19,2 và 25 giờ và các chu kỳ nhóm nước nông. Tại
Vũng Tàu có mặt các chu kỳ 56 giờ (2,3 ngày) và các chu kỳ nước nông. Tại Rạch Giá: 56,
19,5, 10,6, 9,8 và 8,2 giờ. Điều này nói nên rằng trong biển Đông ngoài những dao động thủy
triều được cộng hưởng để hình thành đặc điểm triều độc đáo đã phân tích ở chương 2, còn
53
một số đông đảo những dao động với chu kỳ khác, đặc biệt là nhóm các chu kỳ trung gian và
chu kỳ dài vài ngày, cũng có bản chất cộng hưởng.
Ở chương 2, khi phân tích các dao động tự do với chu kỳ trung gian đã nhận thấy rằng
chúng là những dao động có quy mô lớn, tạo thành biên độ khá lớn trong các đỉnh của các
vịnh biển, do đó, nếu các trường những yếu tố khí tượng như nhiễu động của gió lớn xảy ra
với tần số này, thì rất có thể khả năng mực nước sẽ biến động mạnh, trong khi đó những
phương pháp dự tính mực nước hoàn toàn chưa tính tới phần đóng góp này.
Trong tương lai cần tiến hành phân tích phổ đối với các chuỗi mực nước quan trắc trong
những thời kỳ khác nhau, ứng với những hoàn cảnh thời tiết khác nhau, để khảo sát tính ổn
định của các đặc trưng phổ trong dải chu kỳ xi nốp.
Hình 3.2. Các hàm tương quan và phổ mực nước tại Hòn Dấu (theo số liệu năm 1975)
54
Hình 3.3. Các hàm tương quan và phổ mực nước tại Hòn Dấu (theo số liệu năm 1987).
Phân biệt được những đỉnh phổ 3,6-4,2-5,1-6,2-8,4-19,2 giờ và 2,6-3,2-4,0-5,0-13-26 ngày
Hình 3.4. Các hàm tương quan và phổ mực nước tại Đà Nẵng (theo số liệu năm 1987).
Phân biệt được những đỉnh phổ 5,1-6,2-8,2 giờ và 3,7-6,6-14,3 ngày
55
Hình 3.5. Các hàm tương quan và phổ mực nước tại Quy Nhơn (theo số liệu năm 1987).
Phân biệt được những đỉnh phổ 6,3-8,1 giờ và 3,3-6,6-13 ngày
Hình 3.6. Các hàm tương quan và phổ mực nước tại Vũng Tàu (theo số liệu năm 1987).
Phân biệt được những đỉnh phổ 3,1-3,6-4,0-5,0-6,1-8,4 giờ và 2,3-3,2-3,8-5-6,8-14,3-26 ngày
56
Hình 3.7. Các hàm tương quan và phổ mực nước tại Rạch Giá (theo số liệu năm 1987).
Phân biệt được những đỉnh phổ 3,5-4,1-5,1-6,2-8,2-19,3 giờ và 3,2-3,8-5,0-6,8-14,3-26 ngày
57
CHƯƠNG 4 – TÍNH MỰC NƯỚC TRONG TRƯỜNG GIÓ MÙA
4.1. Dao động mùa của mực nước và đặt vấn đề tính toán
Chúng ta đã biết rằng trong biến động tổng cộng của mực nước ở vùng biển nước ta
thành phần dao động tuần hoàn là thủy triều chiếm ưu thế. Chỉ trong thời kỳ có bão thành
phần các dao động phi tuần hoàn (nước dâng trong bão) mới có thể so sánh được hoặc vượt
độ lớn của dao động thủy triều.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cũng xác nhận rằng do biển Đông nằm trong khu
vực hoạt động của hệ thống gió mùa ngoài bão gây nước dâng sự biến động của mực nước
còn bị ảnh hưởng đáng kể từ phía các hệ thống gió mùa đông bắc và tây nam. Để xác định
những dao động mùa của mực nước, người ta đã sử dụng các kết quả thống kê mực nước tại
những trạm quan trắc thủy triều. Một số những đặc trưng thống kê về chế độ dao động mùa
của mực nước trên biển Đông nói chung có thể tìm thấy trong các công trình [28, 43-44].
Phân tích những dữ liệu thống kê công bố trong các công trình đã nêu cho thấy quy luật
biến động mùa của mực nước có phân hóa giữa các vùng biển, trong đó nổi lên nét đặc trưng
là miền bờ phía tây của biển dao động năm có quy mô lớn hơn nhiều so với bờ đông, nhưng
nguyên nhân của điều đó chưa được làm rõ.
Trên bảng 4.1 là những đặc trưng biến trình năm trung bình của mực nước ở một số
trạm thuộc Việt Nam theo những số liệu thống kê mới nhất do Phòng nghiên cứu của Trung
tâm Khí tượng Thủy văn biển cung cấp. Hai cột cuối cùng của bảng này ghi những trị số mực
nước trung bình nhiều năm (TB) và biên độ dao động năm )(∆ của mỗi trạm. Dưới tên mỗi
trạm có ghi thời kỳ lấy số liệu quan trắc.
Từ bảng này thấy rằng biên độ dao động năm của mực nước đạt những giá trị rất đáng
kể trên mọi trạm thuộc dải bờ phía đông nước ta.
Bảng 4.1. Những đặc trưng mực nước trung bình tháng nhiều năm (cm)
tại một số trạm dọc bờ biển Việt Nam
Trạm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 TB ∆
Hòn Dấu
1957-1988 179 175 174 176 179 176 182 179 192 203 196 188 183 29
Hòn Ngư
1961-1986 186 184 178 174 175 177 176 183 199 213 208 196 187 39
Đà Nẵng
1978-1988 94 88 84 79 80 81 77 83 93 118 119 107 92 40
Nha Trang
1975-1984 126 124 119 116 117 112 108 113 123 137 142 134 123 34
Quy Nhơn
1976-1988 159 156 155 152 150 147 143 143 153 169 174 165 156 31
Vũng Tàu
1976-1988 270 265 260 255 248 239 237 241 252 272 280 278 258 43
58
Thấy rằng, dao động có tính chất phân mùa rõ rệt. Ứng với mùa gió đông bắc mực nước
biển luôn luôn vượt độ cao trung bình, còn trong gió màu tây nam – mực nước thấp hơn độ
cao trung bình. Biên độ dao động mùa tương đối lớn, tại hầu hết các trạm đều đạt trên 30-40
cm.
Diễn biến dao động mùa từ bắc vào nam có khác nhau. Thời điểm mực nước đi qua mực
biển trung bình càng vào nam càng muộn hơn. Từ Hòn Dấu đến Đà Nẵng từ khoảng giữa
tháng 8 và đầu tháng 9 mực nước biển đi qua mực trung bình và đạt cực đại vào tháng 10. Tại
Nha Trang từ tháng 9, Quy Nhơn và Vũng Tàu – vào khoảng giữa tháng 9-10 mực nước bắt
đầu đi qua mực trung bình và đạt trị lớn nhất vào tháng 11.
Những kết quả phân tích điều hòa thủy triều của chúng tôi đối với các sóng năm và nửa
năm tại một số trạm mực nước dọc bờ Việt Nam cũng nói nên quy mô lớn của dao động mùa
có mặt trong biến trình mực nước và tính chất truyền các sóng năm và nửa năm theo hướng từ
bắc vào nam đã nêu trên (xem bảng 4.2).
Bảng 4.2. Hằng số điều hòa của các sóng năm và nửa năm
theo kết quả phân tích các chuỗi quan trắc một năm
Sóng Sa Sóng SSa
Trạm
Biên độ (cm) Pha (độ) Biên độ (cm) Pha (độ)
Hòn Dấu 9,22 185 5,19 89
Đà Nẵng 17,02 240 6,80 113
Quy Nhơn 17,86 238 8,30 131
Vũng Tàu 19,57 270 7,81 115
Rạch Giá 11,68 219 2,62 149
Trên bảng này cũng thể hiện quy luật phân hóa về độ lớn của các sóng thủy triều chu kỳ
dài này. Tại dải bờ miền trung nước ta có điều kiện thuận lợi để phát triển các dao động năm
và mùa, mà nguyên nhân là tác động của các hệ thống gió mùa trên biển.
Thông qua những dẫn liệu trên đây về đặc điểm dao động mùa của mực nước, có thể rút
ra kết luận rằng phần biến động mực nước gây bởi tác động của gió cũng có giá trị đáng kể
trong việc làm biến động mực nước biển và cần được tính tới khi dự báo mực nước.
Trong phần mở đầu, chúng tôi đã giới thiệu những công trình cơ bản đề cập tới việc
nghiên cứu tính toán nước dâng trong bão. Nhiệm vụ của chương này là thử nghiệm mô hình
tính sự thích ứng của mặt nước biển với trường gió để kiểm tra hiệu ứng tác động của các
trường gió vừa hoặc mạnh. Nếu sử dụng các trường gió điển hình ứng với từng tháng trong
năm, chúng ta có thể khôi phục lại được các trường mực nước tương ứng với những tháng đó,
tức khôi phục lại biến trình năm của mực nước.
59
Những phương pháp dự báo mực nước áp dụng công cụ của phương pháp thống kê và
hồi quy thường chỉ cho những kết quả khả quan trong trường hợp trường gió đơn giản và cơ
chế vật lý của hiện tượng dâng hay dạt nước được thiết lập cho vùng cụ thể. Khi trường gió
không đồng nhất trong không gian biển và điều kiện hình thái thủy vực phức tạp, những quan
hệ thống kê đơn giản giữa độ dâng mực nước với các yếu tố khí tượng hay gió có tính chất địa
phương có thể không phản ánh hết ảnh hưởng của cả trường gió nói chung. Trong trường hợp
này, chắc chắn các mô hình số trị tính toán phân bố của mực nước trên không gian toàn biển
dưới tác động của cả trường gió trên nó sẽ hợp lý hơn. Bằng chứng cho điều này là những kết
quả khá khả quan của các mô hình số tính nước dâng trong bão. Do đó, khi thử nghiệm tính
mực nước theo mô hình số, chúng tôi cũng đặt ra mục đích hoàn thiện chương trình tính nhằm
tiến tới áp dụng vào tính toán thực tế dự báo mực nước.
4.2. Mô hình số tính mực nước theo trường gió
Chúng tôi sử dụng hệ phương trình tuyến tính của chuyển động sóng dài trong nước
nông (1.24)-(1.26) để mô tả diễn biến của mực nước trong trường gió. Khi không đặt vấn đề
nghiên cứu tương tác dâng nước với thủy triều, thì hệ phương trình này được viết lại như sau:
0)(
)(
1 2/122 =+
++∂
∂++−∂
∂+−∂
∂
ζ
ζ
ζρρλ h
VUrU
x
g
h
T
x
PV
t
U
w
xa
w
(4.1)
0)(
)(
1 2/122 =+
++∂
∂++−∂
∂++∂
∂
ζ
ζ
ζρρλ h
VUrV
y
g
h
T
y
PU
t
V
w
ya
w
(4.2)
0)]([)]([ =∂
+∂+∂
+∂+∂
∂
y
hV
x
hU
t
ζζζ (4.3)
Các điều kiện ban đầu và điều kiện biên tương ứng là các biểu thức (1.27), (1.29) và
(1.31):
0=== VUζ tại 0=t (4.4)
0sincos =+ αα VU tại (4.5) 1G
0=ζ tại (4.6) 2G
Để giải bằng số hệ phương trình này, chúng tôi cũng sử dụng các công thức sai phân
(1.34)-(1.36) đã trình bày trong chương 1.
Đầu vào của chương trình tính trong trường hợp này sẽ là trường phân bố độ sâu biển,
trường áp suất khí quyển và trường gió được biểu diễn dưới dạng các ma trận độ sâu, gió và
áp suất khí quyển trên các điểm nút của lưới tính kích thước nửa độ theo các trục dọc kinh và
vĩ tuyến (hình 1.2 chương 1). Tuy hiên, do điều kiện chúng tôi không có bản đò trường áp
suất khí quyển tin cậy nên chưaq tính tới các số hạng thứ ba ở vế trái của các phương trình
(4.1) và (4.2).
Trong quá trình tính chúng tôi đã thử nghiệm cho các hệ số ma sát đáy biến đổi theo các
khoảng độ sâu khác nhau [51, 7].
60
Với bước tính theo không gian như trên và bước tính theo thời gian bằng 180 giây,
thông thường đối với những trường gió với cường độ cực đại cỡ 7-8 m/s trường mực nước sẽ
trở nên ổn định sau 24 giờ thực, ứng với khoảng 25 phút tích phân trên máy vi tính.
4.3. Các bản đồ trường gió xuất phát
Để thử nghiệm mô hình chúng tôi đã sử dụng các bản đồ trường gió trung bình mùa
đông và trường gió trung bình mùa hạ [56]. Trên các bản đồ này (hình 4.1 và 4.2) cho các véc
tơ vận tốc gió dưới dạng những mũi tên chỉ hướng và cường độ gió tại điểm giữa của các ô
vuông một độ kinh và vĩ. Hai bản đồ này đặc trưng cho hai loại gió mùa ở vùng biển Đông.
Hình 4.1. Trường gió trung bình mùa đông (cm/s)
61
Hình 4.2. Trường gió trung bình mùa hè (cm/s)
Bản đồ trường gió mùa đông (hình 4.1) được đặc trưng bởi gió hướng đông bắc với
cường độ tương đối lớn, đạt tới gần 7 m/s ở vùng trung tâm biển. Ở phần phía nam của biển
cường độ gió có suy giảm một phần, đạt trị số cỡ 4-5 m/s.
Khi vào trong các vịnh Bắc Bộ và Thái Lan, hướng gió thịnh hành từ hướng đông bắc
đã chuyển thành hướng đông và cường độ gió cũng giảm. Đặc biệt ở vịnh Thái Lan vào sâu
phía đỉnh vịnh cường độ gió chỉ còn bằng khoảng 1-2 m/s.
Trên bản đồ trường gió tây nam của mùa hè (hình 4.2) nét đặc trưng là cường độ yếu
hơn so với gió mùa đông. Ở phần khơi phía nam biển đạt trị dưới 6 m/s. Phía bắc biển và
trong vịnh Bắc Bộ cường độ gió giảm đáng kể, chỉ còn đạt trị số tốc độ 1 m/s và thấp hơn.
Vùng biển khơi phía ngoài cửa vịnh Bắc Bộ hướng gió chuyển sang nam, thậm chí đông nam.
62
Ngay trong phạm vi vịnh Bắc Bộ cũng có sự không đồng nhất về hướng gió và tốc độ gió. Ở
phía nam vịnh gió có xu thế hơi mạnh hơn và thổi theo hướng tây, tây nam, còn ở đỉnh phía
bắc của vịnh gió có hướng nam.
4.4. Phân bố mực nước trong gió đông bắc
Phân tích bản đồ dâng mực nước trong gió mùa đông bắc tính được (hình 4.3) cho phép
rút ra những nhận xét sau đây:
Hình 4.3. Trường mực nước (mm) trong gió đông bắc
Tác động gió dạt làm cho gần như toàn bộ biển Đông được dâng mực nước, trong đó dải
ven bờ tây của biển đạt trị số 20-40 mm. Tại những dải sát bờ lên tới 50-60 mm. Trong vịnh
Bắc Bộ và vịnh Thái Lan độ dâng mực ở dải sát bờ có thể lên tới 70-80 mm. Vùng cực đại
dâng nước là thềm lục địa phía nam biển, có nơi dâng mực đạt trên 100 mm. Hiện tượng rút
mực nước chỉ xảy ra ở một dải hẹp nằm ở trung tâm biển trải dài theo trục dọc biển nhưng độ
lớn không quá một vài milimét.
63
Hình 4.4. Trường mực nước (mm) trong gió đông bắc đồng nhất
Do hiệu ứng Ecman biển sâu mặc dù nằm theo hướng song song với hướng gió, dải bờ
nam Trung Quốc được nước vùng khơi của biển dạt vào làm độ dâng mực nước đạt trị khá
lớn, khoảng 79-90 mm. Trong khi đó ở bờ đối diện đông nam của biển, tức phần bờ các đảo
Calimantan và Philippin, quan sát thấy hiệu ứng nước rút. Một dải rất hẹp sát bờ có trị số
dâng nước mang dấu âm, nhưng không lớn về trị tuyệt đối.
Cũng chính do hiệu ứng Ecman mà trong vịnh Bắc Bộ trên khắp diện tích vịnh chỉ quan
sát thấy nước dâng. Phần lớn nước từ vùng biển khơi được dồn về phía bên phải của hướng
tác động của gió, tức hướng vào vịnh và làm cho ngay tại cửa của nó độ dâng mực đã đạt trị
số 20 mm. Còn trong dải bờ sát đồng bằng sông Hồng của Việt Nam, độ dâng mực đạt hơn 80
mm.
Cảnh tượng tương tự cũng diễn ra trong vịnh Thái Lan.
Ở mục 4.2 đã nhận xét rằng khi vào vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan, gió đông bắc
chuyển thành hướng đông và cường độ giảm đi rất nhiều. Chính nhờ đặc điểm này của trường
64
gió mà chúng ta không quan sát thấy rõ sự dâng mực nước ở một vùng bờ và rút nước ở vùng
bờ đối diện, mặc dù các vịnh này thuộc loại vịnh nông.
Chúng tôi đã làm một thử nghiệm tính trường mực nước dâng lên của biển Đông trong
trường gió đông bắc đồng nhất về hướng và cường độ. Kết quả nhận được (hình 4.4) thấy
rằng đối với phần lớn các vùng khơi, bức tranh dâng mực nước không có gì khác mấy so với
trường hợp tính toán với trường gió chi tiết. Nhưng tình hình hoàn toàn khác nếu ta xem xét
các vịnh nông Bắc Bộ và Thái Lan. Tại những nơi này phân bố độ cao mực hoàn toàn bất đối
xứng. Tại dải bờ đón gió quan sát thấy hiện tượng dâng mực nước đáng kể, còn ở bờ khuất
gió quan sát thấy hiện tượng rút mực nước với độ lớn tuyệt đối bằng khoảng nửa độ lớn của
dâng mực ở bờ đón gió đối diện.
4.5. Phân bố mực nước trong gió tây nam
Nét khác biệt đầu tiên rõ rệt trong trường mực nước dưới tác động của gió tây nam
(hình 4.5) là toàn bộ biển Đông, kể cả các vịnh lớn của nó, đều quan sát thấy hiện tượng rút
mực nước. Ngay cả ở phần trung tâm biển khơi độ rút mực nước cũng đạt tới trị số 6-7 mm.
Vùng rút nước mạnh nhất là phần phía nam của biển và vịnh Thái Lan. Nơi đây mực hạ thấp
tới 40-50 mm. Dải ven bờ cực nam bán đảo Malaixia có thể xuống tới 80 mm.
Như vậy trong trường gió tây nam ổn định này, do tác động lôi kéo của gió, nước biển
Đông được trao đổi rất mạnh với đại dương thông qua các eo phía bắc và đông bắc của nó
[68].
Tình hình phân bố độ cao mực nước trong các vịnh cũng khác với trường hợp gió đông
bắc. Ở vịnh Thái Lan, nơi gió tây nam đồng nhất về hướng và cường độ trên phạm vi toàn
vịnh, do tính chất nông của vịnh, mà hiệu ứng dạt nước thể hiện khá rõ nét. Ở bờ nam khuất
gió của vịnh, dọc theo bờ bán đảo Malaixia, độ rút nước đạt tới trị số 50-60 mm. Ở bờ bắc
đón gió, tiếp giáp với Campuchia và Thái Lan, độ rút nước này chỉ bằng một nửa, tức khoảng
20-30 mm. Như vậy tác động của gió địa phương trong khu vực vịnh Thái Lan có ý nghĩa
đáng kể, làm cho trong phông chung của sự rút mực nước có phân hóa rõ rệt giữa bờ khuất
gió và bờ đón gió.
Đối với vịnh Bắc Bộ tình hình có khác. Tại đây, quy luật bất đối xứng trong phân bố độ
dâng mực nước không phải diễn ra theo hướng bờ trái và bờ phải xét theo hướng gió thịnh
hành ở vùng trung tâm vịnh. Thật vậy, dải bờ phía bắc vịnh tiếp giáp với Trung Quốc độ rút
nước đạt cao nhất, trên 12 mm, còn ở bờ tây nam vịnh, đại lượng này chỉ bằng 7-8 mm.
Đường đẳng độ cao mực nước -10 mm có hướng chạy từ tây sang đông. Dải ven bờ Trung
Quốc, tuy xét theo gió địa phương là bờ đón gió, song do quá trình rút nước chung của vịnh,
độ cao mực nước lại thấp.
65
Hình 4.5. Trường mực nước trong gió tây nam
4.6. Nhận xét chung về kết quả tính mực nước theo mô hình
1. Trên hình 4.6 thể hiện phân bố biên độ dao động mực nước do hai trường gió đông
bắc và tây nam gây ra. Thấy rằng, vì các trường gió dùng để tính các trường mực nước là
những trường gió trung bình mùa, nên biên độ nhận được nhỏ hơn so với những dữ liệu đã
dẫn trong mục 4.1 của chương này. Nếu sử dụng các trường gió điển hình của các tháng mùa
đông và mùa hè, thì chắc chắn sẽ nhận được những trị số biên độ lớn hơn. Tuy nhiên, thông
qua những thử nghiệm đơn giản này, chúng tôi cũng đã thấy được những đặc điểm định tính
của quá trình dâng rút mực nước do ảnh hưởng của các hệ thống gió mùa. Để so sánh, trên
hình 4.7 dẫn bản đồ phân bố biên độ của sóng năm của mực nước trung bình của biển Đông
do tác giả [42] lập bằng cách ngoại suy số liệu phân tích điều hòa mực nước thực đo tại nhiều
trạm ven bờ và hải đảo. Thấy rằng mô hình số đã nhận được những đặc điểm chung nhất của
phân bố biên độ dao động mùa.
66
Hình 4.6. Biên độ dao động (cm) theo các trường gió trung bình mùa đông và mùa hè
2. Kết quả số của việc tính trường mực nước trong hai trường hợp có thay đổi hệ số ma
sát theo độ sâu và không thay đổi hệ số này theo độ sâu cho những kết quả không khác nhau.
Điều này đã được khẳng định trước đây trong [45] ứng với trường hợp tính triều. Chúng ta
càng dễ hiểu sau khi phân tích diễn biến phân bố mực nước ở hai mục trên. Thật vậy, ở vùng
khơi rộng lớn của biển, nơi độ sâu lớn, vai trò của ma sát đương nhiên nhỏ. Ma sát đáy chỉ có
ảnh hưởng đáng kể khi chúng ta xem xét vùng nước nông sát bờ và cửa sông. Song sự phân
bố mực nước ở dải bờ của các vịnh, như chúng ta đã thấy, rất ít chịu ảnh hưởng của chuyển
động cỡ nhỏ trong phạm vi vịnh, mà bị quy định chủ yếu bởi phông chung dâng rút nước ở
phần biển khơi.
3. Đặc điểm phân bố độ cao mực nước trong biển chủ yếu do độ lớn và hướng gió ở
phần khơi biển quy định. Ở vùng biển khơi trường gió tương đối đồng nhất, do đó có thể đặc
trưng nó bằng một trị số trung bình của vận tốc và hướng. Kết quả so sánh các bản đồ mực
67
nước tính theo trường gió thực mùa đông và gió giả định 5 m/s hướng đông bắc cho thấy đối
với phần lớn diện tích biển, ngoại trừ các vịnh, bức tranh dâng mực nước gần như hoàn toàn
giống với trường hợp gió thực.
Hình 4.7. Biên độ (cm) của sóng năm mực nước trung bình biển Đông theo [42]
Vì vậy, theo chúng tôi, để tính mực nước dâng trong gió đối với những trạm tiếp giáp
biển khơi, hoàn toàn có thể dùng gió giả định bằng trung bình của trường gió trên toàn biển.
Điều này giảm nhẹ việc chuẩn bị đầu vào cho chương trình tính, do đó dễ áp dụng trong dự
báo nghiệp vụ.
4. Đối với các vịnh biển tình hình tỏ ra phức tạp hơn. Độ dâng hoặc rút mực nước ở mỗi
trạm mực nước không những chỉ phụ thuộc vào phông gió chung trên biển lớn, mà ở mức độ
đáng kể phụ thuộc vào trường gió ngay trong phạm vi vịnh. Tùy theo tình thế gió mà diễn ra
sự chênh mực theo hướng gió hay hướng ngang với hướng gió.
5. Từ các nhận xét (3) và (4) có thể rút ra một kết luận có ý nghĩa phương pháp luận
68
rằng khi dự báo mực nước tại một trạm cụ thể nào đó theo những phương pháp thống kê đơn
giản việc dựa vào các đặc trưng gió có tính địa phương như tốc độ gió lấy tại một trạm khí
tượng gần đấy chắc chắn sẽ mắc lỗi lớn. Trường hợp đơn giản nhất, thí dụ đối với các trạm
thuộc biển khơi, thì cũng nên dựa vào các đặc trưng gió trung bình của cả vùng biển lớn bao
quanh trạm tính.
Như vậy, phương pháp sử dụng mô hình để tính cho cả biển sẽ đáng được chú ý, vì nó
cho phép cho phép thâu tóm được ảnh hưởng của trường gió trên quy mô lớn trong điều kiện
đường bờ và phân bố độ sâu cụ thể của cả vùng xung quanh trạm mà chúng ta quan tâm.
6. So sánh các bản đồ dâng rút nước trong hai mùa gió đông bắc và tây nam cho thấy sự
khác biệt giữa chế độ dao động mực nước ở hai bờ phía tây và đông biển. Ở bờ tây của biển
do phần thềm lục địa nước nông phát triển cộng với sự có mặt của các vịnh nên biên độ dao
động mực nước lớn. Còn ở bờ đông của biển nơi các đường đẳng sâu lớn áp sát bờ hơn, độ
dâng hay rút mực nước chỉ đạt trị số nhỏ. Thí dụ, trong trường gió mùa đông bắc, trong khi ở
bờ tây dâng mực nước đạt tới 50 mm thì ở bờ đông đường đẳng độ cao mực nước 0 mm áp sát
bờ Philippin và Calimantan. Chỉ ở dải sát bờ mới quan sát thấy độ rút nước cỡ 10 mm.
Những đường cong biến trình năm của mực nước ở những trạm khác nhau dọc theo các
bờ biển có dẫn trong các công trình [26, 42, 44] cũng đã khẳng định điều này. Còn trong miền
trung tâm của biển Đông dao động mực nước có trị số không đáng kể. Nhân đây, có thể nhận
xét rằng, có lẽ chính vì lý do này mà các tác giả của công trình [26] trong khi ngoại suy biên
độ dao động mùa và biên độ của các sóng năm của thủy triều đã mắc sai lầm, để cho các
đường đẳng biên độ lớn nằm ở giữa biển.
)(Sa
7. Những tính toán trên đây chỉ mới là những thử nghiệm bước đầu nhằm tái lập trường
mực nước theo trường gió trên biển, nhưng đã cho phép chúng ta thấy được những nét chung
trong phân bố trường mực nước trong các kiểu gió khác nhau, rút ra kết luận về tầm quan
trọng của cấu trúc trường gió ảnh hưởng tới đặc điểm dâng mực nước trong những miền khác
nhau của biển và sự khác nhau rõ rệt về biên độ dao động giữa bờ tây và bờ đông của biển.
8. Một trong những nhược điểm chính của những tính toán này là chúng tôi chưa có
điều kiện khảo sát cả ảnh hưởng của trường áp suất khí quyển. Trong tương lai cần hoàn thiện
hơn nữa sơ đồ lưới tính. Có thể mở rộng những đường biên lỏng và làm lưới tính với bước
nhỏ hơn nữa. Đồng thời thử nghiệm tính với những trường gió trung bình tháng hoặc các
trường gió điển hình của các kiểu thời tiết.
69
KẾT LUẬN
1. Lần đầu tiên những đặc điểm của dao động tự do của thủy vực biển Đông với phân bố
độ sâu và hình dạng đường bờ phức tạp đã được khảo sát chi tiết bằng mô hình số. Kết quả
phân tích phổ dao động tự do cho thấy thủy vực này có khả năng phản ứng cộng hưởng với
một dải rộng các tần số của những nhiễu động ngoại lực từ những chu kỳ cỡ vài ngày đến vài
giờ.
2. Sự trùng hợp của một số chu kỳ cộng hưởng của biển với những chu kỳ dao động
của các sóng thủy triều cưỡng bức và tính phân hóa trong đặc điểm dao động tự do ở các vùng
khác nhau của biển đã cho phép giải thích khá thỏa đáng những đặc điểm độc đáo nhất trong
chế độ dao động thủy triều ở biển Đông bằng cơ chế cộng hưởng.
Đó là sự ngự trị của thủy triều toàn nhật trên hầu khắp vùng khơi và các vịnh lớn, sự
cường hóa khá mạnh của thủy triều toàn nhật trong các vịnh, sự tồn tại của một số vùng biên
độ triều rất nhỏ với tính chất bán nhật đều xen lẫn trong vùng nhật triều mạnh, sự biến đổi
tương quan biên độ của các sóng thành phần của thủy triều trên đường truyền sóng từ đại
dương vào biển theo hướng trục chính của nó, sự phân hóa tính chất triều khá phức tạp trong
không gian biển nói chung và ở các cịnh nói riêng.
3. Những đặc trưng phổ của mực nước thực đo tính được đã góp thêm vào việc tìm hiểu
phân hóa cấu trúc các dao động mực nước ở những vùng khác nhau của biển. Một lần nữa
khẳng định rằng ở những vùng biển nông, thềm lục địa đặc điểm địa hình đáy và đường bờ đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các sóng nước nông phát triển. Mặt khác cũng thấy rằng vùng trực
tiếp tiếp giáp với biển khơi là nơi chịu ảnh hưởng nhiều hơn của các quá trình thời tiết và gió
mùa trên biển so với các quá trình nước nông.
Sự phát triển phong phú của các dao động với chu kỳ là bội của các dao động thủy triều
đòi hỏi phải áp dụng những phương pháp phân tích điều hòa chi tiết để nâng cao chất lượng
dự báo mực nước và những tính toán ứng dụng. sơ đồ phân tích điều hòa ở đây có thể đáp ứng
yêu cầu đó.
4. Ở điều kiện biển Đông, trường gió đóng vai trò quan trọng trong dao động mực nước
biển. Do ảnh hưởng của các hệ thống luân phiên gió mùa đông bắc và tây nam và sự khác
nhau trong phân bố độ sâu, độ dốc đáy và hình dạng đường bờ, vùng bờ phía tây và tây bắc
biển có biên độ dao động mùa mạnh hơn nhiều so với vùng bờ đông và đông nam đối diện.
Dao động của mực nước trong các vịnh của biển Đông do gió gây nên phụ thuộc cả vào
phông gió chung trên biển khơi lẫn tính không đồng nhất của trường gió trong bản thân các
vịnh. Do đó phương pháp mô hình số để tính toán dao động mực nước trong gió có nhiều triển
vọng hơn, vì nó cho phép thâu tóm được đầy đủ những đặc điểm của trường gió và điều kiện
địa hình cụ thể của biển.
5. Những dữ liệu về các hằng số điều hòa và các đặc trưng phổ nhận được ở đây là nhờ
70
áp dụng những phương pháp tương đối hoàn thiện, hoàn toàn có thể sử dụng trong thực tiễn
dự báo mực nước và các tính toán ứng dụng khác cũng như để tham khảo trong nghiên cứu
nói chung.
Do tính phong phú của hiện tượng dao động mực nước ở điều kiện thiên nhiên biển
Đông, sau này có thể phát triển nghiên cứu tiếp theo các hướng đã hình thành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Thảo Hương: Về một mô hình số trị thủy động tính toán và dự báo nước
dâng trong cơn bão ở vùng ven bờ biển và cửa sông. Tạp chí các khoa học trái đất, số 5, 1983
2. Lê Trọng Đào, Trương Văn Bốn: Tính toán nước dâng do bão bằng mô hình số trị thủy động. Tóm
tắt báo cáo khoa học Hội nghị KHTQ về biển lần III, Hà Nội, 1991
3. Trương Đình Hiển, Phan Phùng, Nguyễn Văn Lục: Một vài kết quả thực nghiệm nghiên cứu dòng
chảy trong vịnh Bình Cang – Nha Trang. Tuyển tập nghiên cứu biển, tập 1, phần 2, Viện KHVN,
1979
4. Vũ Như Hoán: Phương pháp thống kê dự báo nước dâng và mực nước ven biển miền bắc Việt Nam
khi bão tới. Luận án PTS, Hà Nội, 1988
5. Phạm Văn Huấn: Dao động tự do ở biển Đông. Tạp chí các khoa học trái đất, số 4, 1991
6. Phạm Văn Huấn: Phổ dao động mực nước ở biển Đông. Thông báo khoa học của các trường đại
học, số 2, 1992
7. Phạm Văn Huấn: Ước lượng hệ số ma sát trong chuyển động triều ở nước nông và cửa sông. Tạp
chí các khoa học trái đất, số 3, 1992
8. Phạm Văn Huấn: Dao động tự do và sự cộng hưởng trong dao động mực nước của biển Đông.
Công trình Hội nghị khoa học biển toàn quốc lần thứ ba, 11-1991
9. Nguyễn Bích Hùng: Phân tích điều hòa dao động thủy triều vùng cửa sông và đồng bằng sông Cửu
Long. Trong “Động lực triều vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tổng cục KTTV xuất bản, 1983
10. Phạm Văn Ninh (và các cộng tác viên): Mô hình số trị tính toán nước dâng do bão ở ven biển Việt
Nam. Báo cáo khoa học của đề tài cấp nhà nước, Hà Nội, 1984
11. Phạm Văn Ninh, Đỗ Ngọc Quỳnh: Chế độ nước dâng do bão ở Việt Nam. Tóm tắt báo cáo khoa
học Hội nghị KHTQ về biển lần III, Hà Nội, 1991
12. Phan Phùng: Thủy triều trong vịnh Bắc Việt và vịnh Thái Lan. Luận án tiến sĩ đệ tam cấp, Sài Gòn,
1974
13. Đỗ Ngọc Quỳnh, Phạm Văn Ninh, Nguyễn Việt Liên, Đinh Văn Mạnh: Về mô hình số trị bài toán
thủy triều trong vùng biển nông. Tóm tắt báo cáo khoa học Hội nghị KHTQ về biển lần III, Hà
Nội, 1991
14. Nguyễn Ngọc Thụy: Nước dâng do gió mùa và bão ở Việt Nam. Tập công trình số 1 của Trung
tâm Khí tượng Thủy văn biển, Nxb KHKT, Hà Nội, 1988
15. Nguyễn Ngọc Thụy: Thủy triều vùng biển Việt Nam. Nxb KHKT, Hà Nội, 1984
16. Nguyễn Ngọc Thụy: Về xu thế nước biển dâng ở Việt Nam. Tạp chí Biển của Hội khoa học kỹ
thuật biển, số 1, 1993
17. Nguyễn Thuyết: Phổ dao động mực nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong “Động lực triều
vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Tổng cục KTTV xuất bản, Hà Nội, 1993
18. Lê Phước Trình: Một mô hình số trị tính toán nước dâng do bão ở vịnh Bắc Bộ. Hà Nội, 1975
71
19. Nguyễn Văn Viết: Đặc điểm khí hậu vùng biển Việt Nam. BTL Hải quân xuất bản, 1984
21. Алексеев Г. В. К определению зависимости колебания уровния моря от ветра. Океанология,
Вып. 7, No1, 1967
21. Алексеев Г. В. Физико-статистические исследования непериодических колебаний уровния
Арктических морей. Канд. дисс., ААНИИ, Л., 1969
22. Алексеев Г. В. Об эффективности сглаживания и влияние дискретности рядов уровенных
наблюдений при изучении составляющих колебания уровния моря. Тр. ААНИИ, T. 291, 1970
23. Беляев М. М., Рожков В. А., Трапезников Ю. А. Вероятностная модель колебания уровния
моря. В кн. Вероятностный анализ и моделирования океанологических процессов.
Гидрометеоиздат., Л., 1984
24. Богданов К. Т. Приливы Австрало-Азиатских морей. Тр. ИО АН СССР, Т. LXVI, 1963
25. Буй Хонг Лонг. Исследование приливных явлений залива Бакбо. Канд. дисс., ЛГМИ, Л., 1987
26. Галеркин Л. И., Шагин В. А., Нефедьев В. П. Сезонные колебания уровния Австрало-
Азиатских морей. Тр. ГОИН СССР, 1962
27. Герман В. Х., Левиков С. П. Вероятностный анализ и моделирование колебаний уровния
моря Гидрометеоиздат., Л., 1988
28. Герман В. Х., Савельев А. В. Расчет штормовых нагонов в Охотском море методом
спектральной регрессии. Океанология, Т. 26, Вып. 3, 1986
29. Готлив Ю. В., Каган Б.А. Резоннансные периоды Мирового океана. Докл. АН СССР, -252, N
3, 1980
30. Данг Конг Минь. Распространение приливных волн и приливного колебания уровния Южно-
Китайского моря. Океанология, Вып. 3, 1975
31. Демиров Е. К. Численное решение задачи о собственных колебаниях Черного моря.
Океанология, Вып. 27, N 5, 1987
32. Дитрих Г., Калле К. Общее мореведение. Гимиз., Л., 1961
33. До Нгок Куйнь. Характер штормовых нагонов в Южно-Китайском море (по результатам
численного моделирования). Канд. дисс., ЛГМИ, Л., 1982
34. Казакевич Д. И. Основы теории случайнных функций и ее применение в гидрометеорологии.
Гидрометеоиздат., Л., 1971
35. Коняев К. В. Спектральный анализ случайнных океанских полей. Гидрометеоиздат., Л., 1981
36. Лабзовский Н. А. Непериодические колебания уровния моря. Гидрометеоиздат., Л., 1971
37. Левиков С. П., Музырев С. В. О влиянии метеорологических возмущений на спектр
колебания в синоптическом диапазоне частот Тр. ГОИН, Вып. 126, 1975
38. Лэ Фыок Чинь. Гидрологические условия южного континентального шельфа Вьетнама.
Докт. дисс., ЛГМИ, Л., 1987
39. Марчук Г. И., Каган Б. А. Динамика океанических приливов. Гидрометеоиздат., Л., 1983
40. Монин А. С., Каменковик В. М., Корт В. Г. Изменчивость Мирового океана. Гидрометео-
издат., Л., 1984
41. Нгуен Нгок Тви. Особенности формирования приливных явлений Южно-Китайского моря.
Океанология, Вып. 2, 1969
42. Нгуен Нгок Тви. Сезонные колебания уровния Южно-Китайского моря и механизм их
возникновения. Океанология, T. X, Вып. 4, 1970
43. Нгуен Нгок Тви. Приливы и колебания уровния Южно-Китайского моря. Канд. дисс., МГУ,
М., 1968
72
44. Нгуен Нгок Тви. Приливы и штормовые нагоны в Южно-Китайском море и в устьях рек.
Докт. дисс., МГУ, М., 1968
45. Нгуен Тхо Шао. Моделирование приливных явлений и баланс приливной энергии Южно-
Китайского моря. Канд. дисс., ЛГМИ, Л., 1988
46. Некрасов А. В. Баланс приливной энергии в Южно-Китайском море. В сб. Гидрофические
поля океана. Владисток, 1976
47. Некрасов А. В. Связь волнового потока приливной энергии с рисунком приливной карты.
Межведом. сб. Исследование и освоение Мирового океана. Вып. 65, 1978
48. Океанологическая энциклопедия. Гидрометеоиздат., Л., 1974
49. Педлоски Дж. Геофизическая гидродинамика. ‘Мир’, Ч. 1, 2, М., 1984
50. Пересыпкин В. И., Аналистические методы учета колебаний уровния воды. Гидрометео-
издат., Л., 1982
51. Полукаров Г. В. Итегрирование уравнений приливов. Тр. ГОИН, Вып. 57, Гидрометеоиздат.,
1961
52. Поляков И. В. Механизм формирования сгоно-нагонных колебаний уровния Арктических
морей. Канд. дисс., ААНИИ, Л., 1984
53. Праудман Дж. Динамическая океанология. ИЛ., М., 1957
54. Рожков В. А. Методы вероятностного анализа океанологических процессов. Гидрометео-
издат, Л., 1980
55. Сергеев Ю. Н. Применение метода краевых значений для рачета карт гармонических
постоянных приливов в Южно-Китайском море. Океанология, Вып. 4, 1964
56. Сирипонг А. Динамика термической структуры верхнего слоя и поверхностная циркуляция
Южно-Китайского моря. ВНИИ, ГМИ МЦД, Вып. 4, 101, 1984
57. Хемминг Р. В. Численные методы для научных работников и инженеров. Наука, М., 1968
58. Шулейкин В. В. Физика моря. Гидрометеоиздат, Л., 1964
59. Ямпольский А. Д. О спектральных методах исследования океанологических процессов.
Океанология, T. 5, Вып. 5, 1965
60. Cartwright D. E., Catton D. On the Fourier analysis of tidal observations. Intern. Hydro. Rev., vol.
40, N 1, 1963
61. Defant A. Physical Oceanography, vol. 2, London, 1961
62. Garrette C. J. R. Normal modes of the Bay of Fundy and the Gulf of Maine. Can. J. Earth Sci., 11,
N 4, 1974
63. Ippen A. T. Estuary and coastline hydrodynamics. N.Y., 1966
64. Masaki Kawabe. Sea Level variations at the Izu Islands and typical stable paths of the Kuroshio.
Jour. of the Oceanographical Soc. of Japan, vol. 41, 1985
65. Munk W., Cartwright D. E. Tidal spectroscopy and prediction. Phyl Trans. Roy. Soc., A.259, N
1105, London, 1966
66. Papa L. The free oscillations of Ligurian sea computed by HN-method. Dtsch Hydrogr. Z., 30H3,
1977
67. Wunsch G. Bermuda sea level in relation to tides, weather and baroclinic fluctuations. Rev.
Geophys. and Space Phys., 10, N 1, 1972
68. Wyyrtki K. Scientific results of marine investigations of the South China sea and the gulf of
Thailand. Unives. Calif., La Jolla, Calif., 1961
73
PHỤ LỤC
KẾT QUẢ TÍNH HẰNG SỐ ĐIỀU HÒA THỦY TRIỀU CHUỖI MỰC NƯỚC NĂM
THEO PHƯƠNG PHÁP BÌNH PHƯƠNG NHỎ NHẤT
(chương trình phân tích của tác giả)
Trạm Hòn Dấu Đà Nẵng Quy Nhơn Vũng Tàu Rạch Giá Số
TT Sóng H, cm g H, cm g H, cm g H, cm g H, cm g
1 M2 9,29 51 17,23 298 16,06 293 74,83 39 16,12 69
2 S2 5,03 107 5,75 339 6,65 335 28,64 83 3,04 119
3 N2 1,24 41 3,72 278 3,01 278 16,55 20 4,30 47
4 K2 1,48 62 1,91 355 2,00 332 9,04 90 1,29 299
5 K1 65,16 92 19,44 287 30,88 301 59,48 315 20,46 56
6 O1 74,71 30 12,93 241 26,49 253 45,22 264 11,82 30
7 P1 20,63 87 5,60 287 8,83 293 17,85 311 5,45 51
8 Q1 15,69 356 1,93 228 4,85 228 8,64 240 2,04 14
9 M4 1,09 285 0,27 239 0,26 116 0,85 266 1,76 153
10 MS4 0,77 344 0,39 292 0,10 1 1,28 301 1,40 224
11 M6 0,62 239 0,19 294 0,32 135 0,53 184 0,35 205
12 Sa 9,22 185 17,02 242 17,86 238 19,57 270 11,68 219
13 SSa 5,19 89 6,80 113 8,30 131 7,81 115 2,62 149
14 J1 1,17 134 0,83 328 1,32 331 1,77 10 0,86 121
15 S1 0,91 86 0,30 199 1,03 105 0,67 70 2,93 275
16 2ν 0,63 224 0,67 102 0,77 129 2,60 230 0,64 286
17 2µ 1,00 26 0,53 250 0,49 252 3,21 359 1,11 346
18 L2 0,51 290 0,55 246 0,28 186 2,99 339 0,24 181
19 T2 0,52 286 0,43 157 0,66 108 1,27 243 1,42 42
20 2N2 2,57 45 1,22 153 0,57 267 1,71 292 0,95 298
21 2SM2 0,27 171 0,21 247 0,38 261 1,42 302 0,62 288
22 MO3 1,02 290 0,25 126 0,39 65 0,73 116 0,27 344
23 MK3 1,60 354 0,68 182 0,30 134 2,35 193 2,37 324
24 S4 0,05 182 0,01 233 0,01 238 0,11 351 0,20 267
25 MN4 0,38 247 0,15 198 0,22 163 0,36 254 0,43 108
26 2MS6 0,29 289 0,08 345 0,05 101 0,35 225 0,12 183
27 2MN6 0,35 207 0,12 244 0,32 200 0,16 146 0,20 183
28 Mm 2,51 21 3,89 48 2,39 56 3,84 71 3,94 69
29 MSf 1,20 128 2,11 58 1,75 75 0,60 89 1,20 126
30 Mf 0,49 33 1,46 94 0,76 103 1,37 103 0,61 228
Ghi chú: Tất cả các trạm tính theo múi giờ số 7
74
HẰNG SỐ ĐIỀU HÒA THỦY TRIỀU THEO BHI – MONACO
Trạm Hòn Dấu Trạm Hòn Dấu Số
TT Sóng H, cm g
Số
TT Sóng H, cm g
1 M2 5,42 58 16 2ν 0,28 203
2 S2 4,32 110 17 2µ 0,80 42
3 N2 1,24 93 18 L2 0,85 212
4 K2 2,37 88 19 T2 0,51 140
5 K1 72,51 92 20 2N2 0,03 322
6 O1 74,05 37 21 2SM2 0 -
7 P1 20,47 83 22 MO3 0 -
8 Q1 14,00 11 23 MK3 0 -
9 M4 0,75 283 24 S4 0,48 31
10 MS4 0,49 34 25 MN4 1,30 186
11 M6 0,40 228 26 2MS6 1,26 13
12 Sa 10,17 203 27 2MN6 0 314
13 SSa 5,54 86 28 Mm 1,24 166
14 J1 2,32 50 29 MSf 0,71 147
15 S1 2,57 243 30 Mf 3,99 26
75
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LuanAnTienSi.pdf