Luận án Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trường Công nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế (Nghiên cứu điển hình từ ngành dệt may Việt Nam)

MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA TRANG LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT 9 LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG 1.1. Cách tiếp cận tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế 9 1.1.1. Tăng trưởng kinh tế 9 1.1.2. Chất lượng tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững 10 1.1.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng 14 1.1.3.1. Các mô hình lý thuyết 14 1.1.3.2. Các mô hình thực nghiệm 16 1.2. Đánh giá tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế 18 1.2.1. Đánh giá về tăng trưởng kinh tế 18 1.2.1.1. Tổng giá trị sản xuất GO 19 1.2.1.2. Tổng sản phẩm quốc nội 19 1.2.1.3. Tổng thu nhập quốc dân 20 1.2.1.4. Thu nhập bình quân đầu người 20 1.2.2. Đánh giá về chất lượng tăng trưởng kinh tế 21 1.2.2.1. Chất lượng tăng trưởng trên góc độ các yếu tố kinh tế 21 1.2.2.2. Chất lượng tăng trưởng trên góc độ các vấn đề xã hội 25 1.2.2.3. Chất lượng tăng trưởng trên góc độ các vấn đề về môi trường 26 1.3. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng 27 1.3.1. Các yếu tố kinh tế 28 1.3.2. Các yếu tố phi kinh tế 33 1.4. Vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế 35 1.5. Bài học kinh nghiệm của một số nước về thúc đẩy tăng trưởng trong mối 37 tương quan với yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng 1.5.1. Bài học kinh nghiệm từ mô hình tăng trưởng của Trung Quốc 37 1.5.2. Bài học kinh nghiệm từ mô hình tăng trưởng của Thái Lan 43 CHƯƠNG 2: CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT 51 NAM – NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH NGÀNH DỆT MAY 2.1. Công nghiệp Việt Nam 51 2.1.1. Tổng quan về Công nghiệp Việt Nam 51 2.1.2. Chất lượng tăng trưởng của Công nghiệp Việt Nam 57 2.1.2.1. Nhìn từ khía cạnh kinh tế 57 2.1.2.2. Nhìn từ khía cạnh xã hội 69 2.1.2.3. Nhìn từ khía cạnh môi trường 71 2.1.3. Đánh giá tổng quát 73 2.2. Ngành dệt may Việt Nam 75 2.2.1. Quá trình phát triển ngành dệt may Việt Nam 75 2.2.2. Hiện trạng phát triển ngành may mặc Việt Nam 76 2.2.2.1. Quy mô và năng lực sản xuất 76 2.2.2.2. Phân bố doanh nghiệp may mặc theo lãnh thổ 82 2.2.2.3. Trình độ công nghệ và trang thiết bị sản xuất 84 2.2.2.4. Nguồn nhân lực ngành dệt may 87 2.2.2.5. Thị trường và kim ngạch xuất khẩu 90 2.2.2.6. Đầu tư vào dệt may Việt Nam 93 2.2.2.7. Công nghiệp phụ trợ may mặc 95 2.2.2.8. Tổ chức quản lý ngành may mặc 97 2.2.2.9. Đánh giá tổng quát 99 2.3. Chất lượng tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam 101 2.3.1. Đánh giá chất lượng tăng trưởng theo các tiêu chí kinh tế 101 2.3.2. Chất lượng tăng trưởng đánh giá theo tiêu chí xã hội 117 2.3.3. Chất lượng tăng trưởng đánh giá theo tiêu chí môi trường 119 2.4. Các nhân tố tác động đến chất lượng tăng trưởng ngành dệt may Việt 124 Nam 2.4.1. Các nhân tố bên ngoài 124 2.4.2. Các nhân tố bên trong 129 2.5. Mô hình tăng trưởng công nghiệp dệt may của một số nước và bài học 134 cho Việt Nam 2.5.1. Mô hình của Trung Quốc 134 2.5.2. Mô hình của Ấn Độ 137 2.5.3. Mô hình của Thái Lan 139 2.5.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 140 CHƯƠNG 3: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH 146 DỆT MAY VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP 3.1. Quan điểm, định hướng và mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng 146 ngành dệt may Việt nam trong bối cảnh hội nhập 3.1.1. Quan điểm 146 3.1.2. Một số định hướng dài hạn 148 3.1.2.1. Định hướng tổng thể 148 3.1.2.2. Định hướng sản phẩm chủ yếu, lãnh thổ và nguyên phụ liệu 150 3.1.3. Mục tiêu phát triển đến năm 2015 152 3.1.3.1. Mục tiêu tổng quát 152 3.1.3.2. Mục tiêu cụ thể 153 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành may mặc Việt Nam trong những năm tới 153 3.2.1. Phát triển công nghiệp phụ trợ 154 3.2.2. Phát triển công nghiệp thời trang 160 3.2.3. Tăng năng lực cạnh tranh toàn ngành 161 3.2.4. Tăng cường chính sách sản xuất ++ và liên kết sản xuất 164 3.2.5. Phát triển theo hướng thân thiện môi trường 165 3.2.6. Giải pháp về quản lý 169 3.2.7. Giải pháp về nhân sự 171 3.2.8. Giải pháp về tài chính 174 3.2.9. Giải pháp về marketing 178 3.3. Kiến nghị các chính sách quản lý vĩ mô đối với ngành dệt may 181 KẾT LUẬN 184 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 186 .

pdf198 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trường Công nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế (Nghiên cứu điển hình từ ngành dệt may Việt Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay bằng một số chính sách trong đó tập trung vào chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách thuế và đầu tư “mồi”. Theo đó, Nhà nước đóng vai trò là nhà đầu tư chủ yếu trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may, khuyến khích liên kết, hiệp tác giữa các doanh nghiệp dệt và doanh nghiệp may, giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI, và có chính sách thuế hợp lý nhằm thu hút hơn nữa các nhà đầu tư FDI vào lĩnh vực dệt nhuộm tại Việt Nam. (3) - Về sản xuất - Cần có những chính sách, thể chế và khung pháp lý tăng cường liên kết sản xuất kinh doanh diễn ra giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ. - Tăng cường mối liên kết hợp tác với các tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn trên thế giới nhằm ổn định khách hàng và từng bước tham gia vào các chuỗi liên kết của họ. Sự liên kết này còn nằm trong chuỗi liên kết giữa các nhà sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu cùng hệ thống các nhà tiêu thụ sản phẩm. - Tăng cường chính sách sản xuất + + (plus plus) để phát triển theo chiều dài của chuỗi giá trị bao gồm những hoạt động gia tăng nhiều giá trị (phát triển công nghiệp phụ trợ, thiết kế, marketing…). (4) - Về đầu tư - Khuyến khích khu vực dân doanh đảm nhận vai trò phát triển ngành. Tập trung đầu tư một số cụm điểm công nghiệp dệt may, tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng nhằm thu hút đầu tư nước ngoài… - Tập trung đầu tư một số cụm công nghiệp dệt may, tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng nhằm thu hút đầu tư của ngành, chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để tiếp nhận làn sóng dịch chuyển công nghệ lần hai. 164 - Tập trung đầu tư nhà nước và đầu tư nước ngoài vào khâu sợi - dệt, da, giả da nhằm đảm bảo nguyên liệu may. - Tập trung đầu tư xây dựng hai trung tâm dịch vụ, thương mại, phát triển thị trường hàng dệt may tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Tăng cường đầu tư phát triển nguyên phụ liệu của ngành để gia tăng tỷ lệ nguyên liệu nội địa trong các sản phẩm xuất khẩu. Sự phát triển khả quan của ngành dệt may Việt Nam trong những năm gần đây được thể hiện qua nỗ lực phát triển của từng doanh nghiệp từ những con số phản ánh tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất công nghiệp cũng như kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu nhận diện ngành dệt may Việt Nam dưới chỉ tiêu giá trị gia tăng và một số chỉ tiêu về các vấn đề xã hội và môi trường, có thể khẳng định ngành vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục. Hy vọng những suy nghĩ của bài viết sẽ góp phần nhận diện sâu hơn về thực trạng phát triển ngành và đưa ra các chính sách, giải pháp phù hợp trong điều kiện mới. 3.2.4. Tăng cường chính sách sản xuất ++ và liên kết sản xuất Việt Nam cần tăng cường chính sách sản xuất + + (plus plus) để mở rộng chiều dài của chuỗi giá trị bao gồm những hoạt động gia tăng nhiều giá trị (phát triển công nghiệp phụ trợ, thiết kế, marketing…), đó chính là cách thức để Việt Nam có thể hội nhập dọc và xuôi chiều theo chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao toàn bộ chuỗi giá trị nhằm nâng cao năng suất. Việt Nam hiện nay là một nước gia công hàng dệt may chủ yếu dựa vào nguồn lao động rẻ, do vậy tham gia vào các hoạt động thiết kế, phát triển sản phẩm, phân phối, marketing theo chiều ngang và nâng cao kỹ năng theo chiều dọc là hết sức cần thiết. Ngành dệt may cần phải phát triển các trung tâm mẫu mốt, gắn công nghiệp dệt may với công nghiệp da giày và gắn kết các ngành này với văn hóa Việt Nam, tạo nên sự khác biệt hóa trong sản phẩm. 165 Cần có những chính sách, thể chế và khung pháp lý tăng cường liên kết sản xuất kinh doanh diễn ra giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ. Cần phải tăng cường mối liên kết hợp tác với các tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn trên thế giới nhằm ổn định khách hàng và từng bước tham gia vào các chuỗi liên kết của họ. Sự liên kết này còn nằm trong chuỗi liên kết giữa các nhà sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu cùng hệ thống các nhà tiêu thụ sản phẩm. Hướng phát triển của ngành cần được chuyên môn hóa và hợp tác hóa nên do vậy cần đầu tư ngay vào công nghệ mới để tạo bước nhảy vọt về chất lượng và mang lại giá trị gia tăng. Sự liên kết chuyên môn dẫn đến trong hiệp hội sẽ có các hội chuyên ngành như Chi hội Sợi Việt Nam, cùng giúp nhau trong công nghệ và phát triển các mặt hàng có giá trị cao. Để tổ chức có hiệu quả việc liên kết kinh doanh cần củng cố và nâng cao vai trò hoạt động của các tổ chức hiệp hội chuyên ngành, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. Qua đó các doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh của các sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế và nâng cao được giá trị Việt Nam trong các hàng hóa xuất khẩu trong điều kiện hội nhập WTO. 3.2.5. Phát triển theo hướng thân thiện môi trường Trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt khi đưa hàng ra các thị trường lớn, dệt may Việt Nam cũng đang gặp phải không ít khó khăn trước những rào cản thương mại, những tiêu chuẩn mà đối tác đặt ra. Trong số hàng loạt các tiêu chuẩn bắt buộc đặt ra đối với hàng dệt may, các nhà nhập khẩu hiện quan tâm nhiều đến tiêu chuẩn xanh, sạch đối với sản phẩm ngay từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm... Thực chất, tiêu chuẩn Greentrade Barrier - tiêu chuẩn thương mại “xanh”, cũng chính là một rào cản thương mại xanh. Rào cản thương mại xanh được áp dụng đối với hàng dệt may là đòi hỏi các sản phẩm phải đáp ứng được các tiêu 166 chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khỏe đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất, bắt buộc các nhà xuất khẩu phải tuân thủ. Một liên hệ thực tế, tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng dệt may của Trung Quốc, thì tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành Dệt May của Việt Nam và các nước châu Á khác. Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt may được dỡ bỏ và một số tiêu chuẩn được các thị trường EU, Mỹ, Nhật... áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nói trên. Một thực tế đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm - hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm và các hóa chất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau: Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều hóa chất độc hại đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hóa học) trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000-8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l. Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt - nhuộm hiện nay, có khoảng 300-400 mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3-4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700-800 mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai [42]. Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là “nhiễm nước thải” không được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt - nhuộm phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi 167 trường, mới đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như để phát triển sản xuất, xuất khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn thân thiện về môi trường. Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi trước tiên vẫn là ý thức của nhà sản xuất trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh xanh sạch trong sản xuất. Các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cần rà soát một cách kỹ lưỡng, cẩn thận những hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao gồm cả hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước), phải biết rõ nguồn gốc, xuất xứ của chúng và cần có “hồ sơ” của từng loại hóa chất, chất trợ, từng mẫu thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an toàn” (safety data sheets) mà các hãng sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm đều có. Thay thế vào đó là những hóa chất, chất phụ trợ thân thiện với môi trường, các thuốc nhuộm biết rõ nguồn gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và ít ô nhiễm môi trường. Song song với hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm (dùng cả trong nhuộm và in hoa) là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị tương ứng. Mặc dù, trong một vài năm gần đây, trong chiến lược tăng tốc, nâng cao chất lượng hàng dệt may, tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ngành dệt may nước ta đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm - hoàn tất. Nhiều loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư có chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt May Thắng Lợi và Dệt 8/3; các máy nhuộm khí động lực” (Air-Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8/3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước - xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng). Song nhìn một cách tổng thể, phần lớn ngành nhuộm-in hoa-xử lý hoàn tất của các sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, theo lối “thủ công truyền thống”. Do đó, năng suất 168 chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hóa chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Đồng thời, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và gây ô nhiễm nặng nề đến môi trường, gây tốn kém về tiền của khi phải xử lý nước thải. Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, tạo sức mạnh cạnh tranh với các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường rộng lớn và “khó tính” như: Mỹ, EU, Nhật Bản..., đã đến lúc ngành dệt may Việt Nam cần chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị truyền thống sang loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường”, sản xuất sạch hơn, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất – chất phụ trợ, thuốc nhuộm, hơi, điện, nước với các máy móc thiết bị phù hợp, nhất là các loại mới tiên tiến, hiện đại... Ngoài ra, các vấn đề tiêu chuẩn hàng hóa và môi trường cũng cần được ưu tiên lên hàng đầu trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp mà phải phát động ra toàn ngành, trong tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt may nhập khẩu vào các thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ, ngành Dệt May Việt Nam cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước, cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hóa. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh” phù hợp. Việc làm này, nước láng giềng Trung Quốc bắt đầu đặc biệt quan tâm đến đầu tư chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sau hàng loạt các đơn hàng bị từ chối và phải bồi thường gây tốn kém. Bắt đầu từ năm 2003, Trung Quốc thực hiện Tiêu chuẩn quốc gia mới GB18401-2001 đối với Formandehit thoát ra từ các sản phẩm dệt-may chính thức có hiệu lực thi hành. Tiêu chuẩn này quy định các giới hạn Formandehit phân giải như sau: 20mg/kg đối với những sản phẩm dùng cho trẻ sơ sinh (dưới 24 tháng); 75mg/kg cho các sản phẩm tiếp xúc trực tiếp với da và 300mg/kg đối 169 với sản phẩm không tiếp xúc trực tiếp với da và dùng trong nhà. Các mức trong tiêu chuẩn này hoàn toàn đồng nhất với các ngưỡng giới hạn Formandehit của “nhãn sinh thái” Oeko-Tex standard 100 nổi tiếng ở châu Âu và một số nước phát triển, Trung Quốc đã xây dựng bộ tiêu chuẩn “nhãn xanh” (standard for green labelling) từ năm 2001, đồng thời lập tổng sơ đồ quốc gia thực hiện tiêu chuẩn, quản lý và giám sát thực hiện, tiêu chuẩn này đã hoàn thành trong năm 2004. Đối với ngành Dệt May Việt Nam, cho đến nay vấn đề này vẫn còn coi nhẹ, các doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ với các tiêu chuẩn mà đối tác nhập khẩu đặt ra. Vấn đề chất thải gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và người tiêu dùng dường như không phải là công việc của các nhà sản xuất mà là của cơ quan môi trường. Theo phân tích của các chuyên gia, nhiều chất thải hóa học độc hại ngành Dệt-Nhuộm thải ra môi trường loại nước thải có những đặc tính riêng mà trong tiêu chuẩn về nước thải công nghiệp nói chung nước ta không đề cập đến... Chính vì vậy, việc xây dựng và ban hành tiêu chuẩn quốc gia về nước thải ngành Dệt-Nhuộm với những chỉ tiêu ô nhiễm phù hợp, khả thi là hết sức cần thiết. Với những tiêu chuẩn như vậy cùng với các chế tài về thu phí nước thải, đồng thời có biện pháp giám sát, kiểm tra thường xuyên thì sẽ bảo vệ được môi trường sống, đồng thời góp phần vào việc phát triển sản xuất ổn định, bền vững trong ngành Dệt - May không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra các thị trường lớn, khó tính khác. 3.2.6. Giải pháp về quản lý - Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp may. Đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, cần tinh gọn bộ máy để phát huy hiệu lực trong quản lý và điều hành doanh nghiệp. 170 - Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết các khó khăn cho một số công ty, hoặc điều hành các dự án mới. Đây cũng là kinh nghiệm từ một số công ty lớn của các nước như Singapore, Trung Quốc và Ấn Độ. - Các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp may xuất khẩu cần thành lập một bộ phận chuyên trách về các vấn đề liên quan đến WTO nhằm chuẩn bị cho các vụ kiện chống bán phá giá của các nước. Thực tế này đã diễn ra, và trong tương lai còn tiếp tục diễn ra đối với các sản phẩm dệt may Việt Nam. - Từng bước sắp xếp lại sản xuất theo hướng chuyên môn hoá, xây dựng quy mô sản xuất phù hợp với năng lực, trình độ quản lý tạo ra sự linh hoạt và thích ứng nhanh với thị trường. Tích cực chuẩn bị lực lượng từ quy hoạch lại sản xuất, bố trí năng lực, mở rộng hợp tác liên kết, đầu tư bổ sung. Bên cạnh đó để tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành với nhau trên cơ sở quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm. - Tăng cường sự liên kết và hợp tác trong kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp may quy mô lớn và nhỏ, doanh nghiệp địa phương và trung ương, doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp dân doanh với các hộ cá thể trong các vùng nghề truyền thống cùng tham gia phát triển ngành. - Đặc thù của ngành may là hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, có thể tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng nhỏ lẻ và thường gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Do vậy để đảm bảo tăng trưởng ổn định thì giải pháp hữu ích là tổ chức liên kết dọc theo kiểu vệ tinh, hình thành các công ty mẹ và công ty con. Công ty mẹ chịu tách nhiệm đặt hàng, cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, công ty vệ tinh, sau đó thu gom và xuất khẩu với thương hiệu có uy tín, đảm bảo thị trường tiêu thụ ổn định và phát triển vững chắc. 171 - Các doanh nghiệp dệt may cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mạng thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý theo mục tiêu (đây là phương pháp điều hành tiên tiến hiện nay). - Gắn các vùng công nghiệp dệt may với các cơ sở nguồn nguyên phụ liệu, các ngành hỗ trợ cho ngành may nhằm đảm bảo tận dụng nguồn lao động dồi dào, điều kiện hạ tầng giao thông dịch vụ, thông tin, vận chuyển cho ngành may tăng trưởng cao và có chất lượng. - Xây dựng cơ chế quản lý mới, một cơ chế khuyến khích cả về tinh thần và vật chất, xây dựng văn hoá doanh nghiệp nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển ngành may. - Nâng cao hiệu quả công tác quản lý bằng việc hoàn chỉnh và ban hành mới nhiều quy chế hoạt động, củng cố và sắp xếp lại một số khâu trong bộ máy quản lý ngành, tạo sự phối hợp nhịp nhàng trong hệ thống, mở rộng phân cấp quản lý cho các đơn vị, thực hiện tốt quy chế dân chủ với việc công khai các hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy tốt năng lực của đội ngũ cán bộ và công nhân viên chức. 3.2.7. Giải pháp về nhân sự Ngành dệt may sử dụng nhiều lao động, do vậy chất lượng của nguồn lực lao động là nhân tố mang tính sống còn cho ngành. Việc nâng cao chất lượng lao động, đặc biệt là lực lượng quản lý cấp trung sẽ góp phần hết sức quan trọng trong việc nâng cao được giá trị gia tăng, cải thiện mức thu nhập cho người lao động. Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng nguồn lao động còn giúp ngành dệt may đối phó với tình trạng thiếu hụt lao động, góp phần thoát khỏi tình trạng thâm dụng lao động, chỉ dựa vào nguồn lao động giá rẻ. Thực hiện giải pháp này, trước hết cần: (1) - Nâng cao nghiệp vụ và năng lực làm việc của lao động ngành may 172 Đối với lao động trong ngành may, cần đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực, đến năng lực và trình độ nghiệp vụ của các loại lao động trong các doanh nghiệp, cụ thể như sau: - Đối với cán bộ quản lý các cấp, cả về kinh tế và kỹ thuật, cần thường xuyên tổ chức bồi dưỡng và sát hạch nghiệp vụ. Có các tiêu chuẩn về chức danh quản lý và nghiệp vụ rõ ràng. Những người không bảo đảm yêu cầu, cần phải được đưa ra khỏi các vị trí quản lý. Các doanh nghiệp cần thường xuyên tổ chức tham quan, học hỏi các doanh nghiệp điển hình trong ngành, các mô hình quản lý tốt của các liên doanh, kể cả mô hình quản lý tốt ở ngoài nước. - Đối với lực lượng nghiên cứu khoa học: cần tạo môi trường cho họ có điều kiện nghiên cứu và áp dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tế. Muốn vậy, cần trang bị các loại máy móc và các phương tiện thí nghiệm hiện đại, đủ khả năng thiết kế các sản phẩm mới và giải quyết các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ cho ngành. Cần nhanh chóng chuyển công tác nghiên cứu khoa học từ hình thức nghiên cứu theo đề tài và kinh phí của Nhà nước sang hình thức nghiên cứu theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp. Đó là điều kiện tiên quyết để khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển của ngành dệt may và là mảnh đất tốt để những tài năng khoa học sáng tạo và hưởng thụ theo sự cống hiến của mình. - Đối với cán bộ kinh doanh, cán bộ tiếp thị và bán hàng: Tiếp thị không được hiểu đơn thuần là việc đem các sản phẩm sẵn có ra chào mời khách hàng mà nó còn phải bắt đầu từ khâu trước đó là thiết kế ra các mẫu, mốt mới. Đây hiện tại vẫn là khâu yếu của Ngành may Việt Nam hiện nay, do đội ngũ làm công tác này mới chỉ được đào tạo trong những năm gần đây và còn ít kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Để hoạt động trong lĩnh vực này nhanh chóng bắt kịp với trình độ quốc tế, giảm bớt sự thua thiệt trong kinh doanh xuất khẩu, cần tập trung đầu tư mạnh cho đào tạo đội ngũ thiết kế thời trang cả về trình độ kiến thức và cơ sở vật chất cho thực hành, đồng thời xúc tiến các hoạt động giao lưu cả trong và ngoài nước để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm. 173 - Đối với công nhân, lực lượng lao động trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư của sản xuất, cần được quan tâm để không ngừng nâng cao tay nghề, đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường cả trong và ngoài nước. Các điển hình về thợ giỏi, bàn tay vàng của ngành cần được nhân rộng. Thông qua các cuộc thi thợ giỏi, tay nghề của công nhân sẽ có điều kiện để tập dượt và nâng cao. - Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới sau khi đã qua khoá đào tạo ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật. (2) - Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Nguồn nhân lực của hầu hết các doanh nghiệp trong ngành may còn hạn chế về chuyên môn, kỹ thuật và quản lý. Nhiều doanh nghiệp may hoặc không đủ kinh phí cho đào tạo hoặc có người được đào tạo sau đó lại chuyển đi nơi khác gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Do đó Nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở đào tạo thuộc ngành và địa phương, các doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực bằng các hình thức thích hợp. Các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành may: - Không ngừng nâng cao chất lượng lao động thông qua việc tiếp tục đào tạo đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực và phẩm chất, tổ chức đào tạo và nâng cao tay nghề cho lao động. - Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo (kể cả việc thuê các chuyên gia đào tạo nước ngoài) để đáp ứng nhu cầu tăng vọt về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới. - Đầu tư thêm thiết bị máy móc cho trường công nhân kỹ thuật may và thời trang nhằm nâng cao năng lực đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển chung của các doanh nghiệp và cung cấp lao động có tay nghề cao trong ngành. 174 - Xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các trường đào tạo, viện nghiên cứu chuyên ngành được bình đẳng như đối với các loại hình trường, viện do chính phủ hoặc các bộ quản lý. (3) - Hoàn thiện hệ thống chính sách và chế độ khuyến khích động viên người lao động trong ngành may thoả đáng Điều kiện làm việc của người lao động cũng phải được cải thiện để cùng với kỹ năng, có điều kiện tăng năng suất lao động, rút ngắn dần khoảng cách và tiến tới theo kịp với năng suất lao động của các nước trong khu vực, có như vậy mới đảm bảo sự tăng trưởng bền vững. Lao động trong ngành may là loại lao động nặng nhọc, môi trường lao động bị ô nhiễm do bụi, nóng, ồn... nhiều loại bệnh nghề nghiệp xuất hiện, mà đa phần là lao động nữ, trong khi đó thu nhập vẫn chưa cao, chưa tương xứng với sức lao động bị hao phí. Ngành cần kiến nghị với cấp trên và các cơ quan liên quan để bổ sung các chế độ đãi ngộ thích hợp với lao động của ngành, đặc biệt là lao động nữ như: Các chế độ tiền lương, bồi dưỡng độc hại, ca 3, thai sản, hưu trí... Tóm lại, việc đầu tư cho con người phải được tiến hành đồng bộ ở tất cả các khâu mới tạo được sức mạnh tổng lực cho sự tăng trưởng nhanh và chất lượng tăng trưởng cao. 3.2.8. Giải pháp về tài chính Các giải pháp tài chính cần triển khai nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và đảm bảo chất lượng tăng trưởng của ngành may trong giai đoạn tới: (1) - Đảm bảo huy động đủ vốn cho tăng trưởng Thu hút vốn đầu tư là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động đầu tư cho tăng trưởng. Bởi nhu cầu về vốn là một nhu cầu tất yếu cho hoạt động kinh doanh. Hiện nay nguồn vốn đầu tư khá quan trọng cho quá trình phát triển của ngành may là nguồn vốn nước ngoài. Nhưng để đảm bảo chất lượng tăng trưởng của ngành thì có thể thấy nguồn vốn nước ngoài là nguồn vốn cần thiết cho sự phát triển còn nguồn vốn trong nước là nền tảng của sự phát triển và là 175 nguồn vốn giúp doanh nghiệp không bị lệ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài, chính vì vậy ngành dệt may Việt Nam cần huy động nguồn vốn trong nước cho hoạt động đầu tư phát triển. Cổ phần hoá doanh nghiệp là một biện pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp ngành dệt may cần nghiên cứu và áp dụng các giải pháp huy động vốn sau đây: - Nhanh chóng thực hiện cổ phần hoá hoàn toàn các doanh nghiệp mạnh, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, tạo kênh huy động vốn nhanh để tái đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư sâu cho quá trình nghiên cứu phát triển và thiết kế sản phẩm cũng như đổi mới công nghệ. - Tập trung khai thác các nguồn tài chính để đảm bảo cung cấp đủ vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là nguồn tài chính với lãi suất thấp. - Cần huy động mọi nguồn lực tự có trong công ty như khấu hao cơ bản, vốn có được bằng cách bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên... - Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế. - Xin phép sử dụng nguồn vốn ODA hoặc đặc biệt ưu đãi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư các nhà máy xử lý nước thải, hoặc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính. - Vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, từ các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thương mại... đối với các hình thức này, các doanh nghiệp dệt may rất cần được bảo lãnh của chính phủ. - Phát huy hơn nữa vai trò của công ty tài chính Dệt May. Sử dụng Công ty tài chính Dệt May như một công cụ tài chính mạnh, ưu tiên đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh và giải quyết nhanh vốn cho một số dự án nóng của các doanh nghiệp có nhiều đóng góp cho lợi ích chung của toàn ngành và tạo đà phát triển trong tương lai. (2) - Nâng cao chất lượng đầu tư 176 - Chất lượng đầu tư là một trong những nhân tố quyết định đến chất lượng tăng trưởng. Có đầu tư thì có tăng trưởng và phát triển. Nhưng đầu tư tràn lan, không có hiệu quả thì không thể có chất lượng tăng trưởng cao. Do vậy, chủ các doanh nghiệp may (kể cả doanh nghiệp nhà nước) cần sớm xây dựng các dự án đầu tư có thể được triển khai thực hiện bởi nhiều đối tác khác nhau, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Đây cũng là một biện pháp để huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế. - Quy hoạch các vùng phát triển nguyên liệu, định vị các cụm công nghiệp dệt may tại các khu công nghiệp của các tỉnh, đồng thời cùng với các tỉnh đưa ra quy hoạch phát triển phối hợp đầu tư giữa các doanh nghiệp hiện có với các đối tác khác nhằm nhanh chóng thực hiện đầu tư các dự án mới (kể cả một số cơ chế thông thoáng khi làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài). - Để có thể xây dựng và triển khai các dự án đầu tư, cần khuyến khích và mở rộng việc sử dụng các công ty tư vấn chuyên ngành, hoặc thành lập các Trung tâm tư vấn của ngành may có đủ chuyên gia ngành may, chuyên gia thiết bị động lực, chuyên gia xây dựng và chuyên gia tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp xây dựng nhanh các dự án đầu tư. Đã đến lúc cần coi trọng việc chuyên môn hoá. (3) - Nâng cao hiệu quả của đầu tư trong ngành may - Tiếp tục đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, kết hợp đầu tư mở rộng tại các cơ sở ở các địa phương. - Thường xuyên nghiên cứu cải tiến tổ chức sản xuất trong các dây chuyền may, đặc biệt là dây chuyền sản xuất các sản phẩm mới, mạnh dạn thuê chuyên gia nước ngoài để tìm ra những giải pháp về tổ chức sản xuất, tổ chức cho các cán bộ đi thăm quan học tập tại các doanh nghiệp may trong và ngoài nước để nâng cao nhận thức và tiếp thu công nghệ mới. - Đổi mới thiết bị đi đôi với đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng thao tác chuẩn vào sản xuất, kết hợp với duy trì và củng cố hệ thống quản lý chất lượng 177 theo tiêu chuẩn ISO 9000, hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng các hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành. - Đẩy mạnh phong trào tiết kiệm, tăng cường khuyến khích lợi ích vật chất cho các đơn vị làm tốt công tác tiết kiệm vật tư, năng lượng, ban hành các quy chế khoán định mức vật tư và mua lại sản phẩm sản xuất bằng nguyên phụ liệu tiết kiệm của các đơn vị thành viên, tạo sự năng động sáng tạo của các dơn vị thành viên. (4) - Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ Những năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã đầu tư công nghệ theo chính sách "hai tầng" đó là tầng nhiều vốn và tầng nhiều lao động. Chính sách này tỏ ra rất có hiệu quả, nhờ đó mà ngành đã nâng cao được sản lượng, chất lượng mặt hàng, giải quyết được công ăn việc làm và cải thiện đời sống người lao động. Bởi vậy những năm tới chúng ta vẫn nên tiếp tục chính sách này và phải biết kết hợp hài hoà giữa các chính sách vì: thứ nhất, công nghệ cao (công nghệ nhiều vốn) giúp ta lấp dần khoảng cách về trình độ công nghệ dệt may giữa nước ta với các nước tiên tiến trên thế giới. Công nghệ cao giúp ngành sản xuất được nhiều mặt hàng, xuất khẩu được nhiều mặt hàng đem lại giá trị cao. Thứ hai, công nghệ sử dụng nhiều lao động giúp ngành tiết kiệm vốn và giải quyết nạn thất nghiệp. Nó rất thích hợp với công ty vừa và nhỏ. Thực hiện phát triển công nghệ một cách hiệu quả nhất (đặc biệt là đối với công nghệ nhập). Phải có sự lựa chọn kỹ càng, theo kế hoạch, chủ động, tự tìm kiếm kết hợp với sự giới thiệu của các hãng nước ngoài khi nhập công nghệ. Tạo đủ điều kiện tiền đề cần thiết trước khi nhập. Những điều kiện tiền đề này giúp cho việc đưa công nghệ vào sản xuất nhanh chóng, duy trì và khai thác công nghệ có hiệu quả. Nhập những thiết bị công nghệ với khoảng cách không quá xa về trình độ so với công nghệ ngành hiện tại. Nếu không sẽ rất khó duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất và kinh doanh ngành may. 178 Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương thích thì việc củng cố các Viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật chuyên ngành là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm bảo đảm cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả. 3.2.9. Giải pháp về marketing Hoạt động marketing đặc biệt quan trọng đối với hàng dệt may, do đặc thù của sản phẩm này là đòi hỏi phải phù hợp với nhu cầu thị hiếu, kiểu dáng, phong tục tập quán và văn hoá của từng vùng, từng nước cũng như xu hướng thời trang luôn thay đổi trong từng thời kỳ. Trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp dệt may đã chủ động và đầu tư tốt cho các hoạt động marketing, công tác nghiên cứu thị trường, nhất là các doanh nghiệp may xuất khẩu. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn chế và yếu kém trong việc chủ động đáp ứng nhanh nhạy những yêu cầu đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường trong nước cũng như xuất khẩu hiện nay, do vậy mặc dù ngành may Việt Nam tăng trưởng nhanh, nhưng chưa đảm bảo tăng trưởng ổn định và vững chắc, chỉ cần một biến động trên thị trường quốc tế cũng đã ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của ngành. (1) - Mở rộng mạng lưới kênh phân phối hàng dệt may Thời gian qua hoạt động xuất khẩu của ngành may Việt Nam còn quá phụ thuộc vào hạn ngạch, chưa tận dụng hết khả năng khai thác thị trường và mặt hàng xuất khẩu không quy định hạn ngạch, chưa thâm nhập sâu vào các mạng lưới phân phối trên thị trường lớn, phần lớn vẫn phải xuất khẩu qua trung gian do vậy giá trị gia tăng thấp. Xu hướng buôn bán hàng dệt may trên thế giới trong giai đoạn tới sẽ buộc các nhà sản xuất phải chuyên môn hoá cao hơn vì các nhà nhập khẩu sẽ chỉ tập trung vào một số quốc gia nhất định. Để chủ động cạnh tranh trong thời kỳ mới, các doanh nghiệp may phải sớm trang bị thêm cho mình khả năng nhạy bén, sáng tạo trong kinh doanh, có những chiến lược tiếp thị thích hợp, chủ động hơn trong việc khai thác và phát triển mối 179 quan hệ với khách hàng. Xây dựng, tổ chức và thâm nhập sâu hơn vào mạng lưới bán lẻ trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Hiện nay, mạng lưới phân phối hàng dệt may tại nước ngoài chia thành hai loại: mạng lưới bán lẻ của các tập đoàn bán lẻ lớn có thương hiệu của nhà phân phối và mạng lưới cửa hàng bán lẻ đại chúng. Xây dựng chiến lược thị trường phù hợp cho từng đẳng cấp sản phẩm. Để thâm nhập vào hệ thống bán lẻ của các tập đoàn lớn, các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản lý sản xuất kinh doanh và tích cực xây dựng mối quan hệ trực tiếp với các tập đoàn này hoặc qua các nhà sản xuất và đại lý sẵn có của họ. (2) - Tăng cường hệ thống xúc tiến thương mại Phối hợp tốt với các sở, ban ngành và các đơn vị có liên quan để hình thành một hệ thống xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Mỹ.. tìm kiếm thăm dò thị trường mới như Châu Phi, Trung Đông...từ đó hình thành các đại diện thương mại. Các đại diện thương mại bên cạnh việc nghiên cứu thị trường còn có nhiệm vụ giúp cho các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận các đối tác, nâng cao hiệu quả của việc tham gia quảng cáo tại các hội chợ, triển lãm, mặt khác còn cung cấp những thông tin kịp thời về những biến động của thị trường và các đối tác trong quá trình kinh doanh. (3) - Giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may Cần quan tâm hơn nữa đến thị trường xuất khẩu, một mặt giữ vững phát triển có hiệu quả các thị trường truyền thống như: CHLB Đức, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... mặt khác tập trung khai thác và mở thêm thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được triển khai thực hiện. Bên cạnh việc duy trì các hợp đồng sản xuất gia công, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc khai thác các hợp đồng kinh doanh thương mại FOB. (4) - Tăng cường phát triển thị trường trong nước Ngành may Việt nam phải giành lại thị trường trong nước hiện đang đầy ắp hàng dệt may nhập về từ Trung Quốc. Nhu cầu hàng dệt may trong nước cũng là 180 một thị trường rộng lớn để các doanh nghiệp may Việt nam khai thác; tăng trưởng và tăng trưởng ổn định. Để khai thác triệt để thị trường nội địa các doanh nghiệp may phải có đủ năng lực đáp ứng bằng cách: - Nâng cao nhận thức về thị trường. Coi trọng mẫu mã, nhãn hiệu phù hợp, hiện đại và đúng xu thế thời trang. Thị trường nội địa cần xác định những mặt hàng trọng điểm, mũi nhọn cần chiếm lĩnh, thúc đẩy sản xuất mẫu mốt, các mẫu chào hàng phong phú sát với nhu cầu của thị trường trong nước. - Để khai thác thị trường nội địa nên tăng cường mở thêm hệ thống các nhà phân phối lớn trong nước, các cửa hàng và đại lý bán sản phẩm. - Tập trung công tác nghiên cứu thị trường, tổ chức chế thử và đưa vào kinh doanh nhiều loại mẫu mã mới với sự đồng bộ về nhãn mác, bao bì đóng gói, xây dựng hình ảnh mới về sản phẩm của ngành may Việt Nam với người tiêu dùng trong nước. (5) - Tăng cường hệ thống thông tin thị trường của ngành may Hệ thống thông tin khoa học công nghệ may chưa được tổ chức một cách chặt chẽ. Sự liên kết, hợp tác và trao đổi thông tin về khoa học và công nghệ, về kinh tế giữa các viện nghiên cứu, các trường và các doanh nghiệp may chưa thành hệ thống và có sự thống nhất. Để hỗ trợ cho sự phát triển chung của cả ngành, cũng như thúc đẩy sự tăng trưởng ngành nên tập trung vào: - Các doanh nghiệp phối kết hợp trong việc thông tin về thời trang, hướng dẫn thị hiếu xã hội vào sản phẩm của các doanh nghiệp may trong nước, kích thích sự phát triển của ngành. Định hướng thời trang Việt Nam theo hướng kết hợp hài hoà bản sắc dân tộc Việt nam và xu hướng thời trang thế giới. - Tạo diều kiện cho các doanh nghiệp khai thác tốt các phần mềm tin học, các phương tiện thông tin hiện đại trong sản xuất kinh doanh ngành dệt may; Áp dụng kinh doanh qua mạng, tăng cường quảng cáo và marketing trực tuyến và qua mạng. 181 - Tăng cường các bộ phận thông tin khoa học công nghệ may. Tổ chức hệ thống thông tin kinh tế khoa học công nghệ ngành dệt may. Xây dựng kho tin khoa học ngành dệt may. Tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, với các trung tâm thiết kế, các viện nghiên cứu và các trường đào tạo. (6) - Thành lập trung tâm dệt may Thành lập trung tâm dệt may với các chức năng sau: - Thu thập, phân phối và thông tin cho các doanh nghiệp về xu thế mới, kiểu dáng, chất liệu vải, thời trang, tư liệu kỹ thuật mới. - Dự báo tình hình thị trường dệt may thế giới và có những định hướng thị trường cho các doanh nghiệp dệt may. - Tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành theo định kỳ - Xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác. 3.3. Kiến nghị các chính sách quản lý vĩ mô đối với ngành dệt may Bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng của mỗi doanh nghiệp cũng như Tập đoàn dệt may Việt Nam, việc điều hành và quản lý Nhà nước ở cấp vĩ mô, các giải pháp của Chính phủ và các Bộ ngành có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hoàn thiện môi trường kinh doanh góp phần hỗ trợ tích cực cho ngành và các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trong khung khổ các cam kết WTO về dệt may. Từ luận cứ đó, việc kiến nghị Chính phủ là rất cần thiết cho sự phát triển của ngành: Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung và các cam kết WTO nói riêng cho các doanh nghiệp, các tổ chức, hiệp hội ngành dệt may Việt Nam. Việc tuyên truyền và phổ biến cần thực hiện linh hoạt, chủ động, thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau, đồng bộ và có tính định hướng cao. Các đối tượng khác nhau, từ cơ quan nhà nước, chủ thể sản xuất, kinh doanh, các hiệp hội ngành nghề, cần được cung cấp thông tin theo những cách phù hợp khác nhau để đảm bảo hiệu quả 182 tuyên truyền. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng để thay đổi tư duy theo hướng tích cực và dẫn đến thành công. Thứ hai, hỗ trợ tài chính có điều kiện cho doanh nghiệp dệt may có khả năng cạnh tranh hiệu quả và xuất khẩu thông qua việc: Tăng cường và đa dạng hoá các hình thức tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp dệt may thanh toán xuất nhập khẩu, tiếp tục hoàn thiện các giải pháp ưu đãi tín dụng cho xuất khẩu hàng dệt may phù hợp với các nguyên tắc của WTO; Hoàn thiện Quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo cơ chế mới phù hợp với các nguyên tắc của WTO; Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với các nguyên tắc WTO cho phép và Ngân hàng tín dụng xuất khẩu để tập trung toàn bộ các công cụ hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu vào một kênh duy nhất. Thứ ba, tiếp tục mở cửa thị trường ngành dệt may nói chung và ngành dệt may nói riêng, hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may trong quá trình nghiên cứu, phát triển, tiếp thị sản phẩm tạo các điều kiện và bước đột phá cần thiết cho sự xâm nhập và lớn mạnh của các sản phẩm dệt may Việt Nam vào các thị trường nước ngoài tiềm năng. Thứ tư, tiếp tục cải thiện các thủ tục hành chính để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp phụ trợ, dần tiến đến chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ năm, Nhà nước hỗ trợ phát triển thượng nguồn ngành may, tăng cường liên kết dệt – may Việt Nam bằng một số chính sách trong đó tập trung vào chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách thuế và đầu tư “mồi”. + Nhà nước đóng vai trò là nhà đầu tư chủ yếu trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may. + Khuyến khích, tạo khung pháp lý và cơ chế để phát triển các liên kết, hiệp tác giữa các doanh nghiệp dệt và doanh nghiệp may, giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI. 183 TÓM TẮT CHƯƠNG 3 Từ việc phân tích và đánh giá thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam, trong chương 3, nghiên cứu sinh đã đưa ra bốn quan điểm nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may trong những năm tới, gồm: Thứ nhất, nâng cao chất lượng tăng trưởng, tiếp tục đóng vai trò và vị trí của một ngành công nghiệp quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thứ hai, nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may theo hướng ưu tiên cho xuất khẩu phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Thứ ba, nâng cao chất lượng tăng trưởng theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Thứ tư, nâng cao chất lượng tăng trưởng trong khuôn khổ các điều kiện bảo vệ môi trường và các vấn đề xã hội. Với những quan điểm trên kết hợp với một số định hướng và mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nghiên cứu sinh đề xuất 9 giải pháp gồm các giải pháp về quản lý nhà nước, quản lý ngành và giải pháp doanh nghiệp: giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ, giải pháp phát triển công nghiệp thời trang, giải pháp tăng năng lực cạnh tranh ngành, giải pháp tăng cường sản xuất ++ và liên kết sản xuất, và giải pháp phát triển theo hướng thân thiện môi trường, giải pháp về quản lý, giải pháp về nhân sự, giải pháp về tài chính và giải pháp về marketing. Đồng thời, nghiên cứu sinh cũng đưa ra năm kiến nghị đối với các cơ quan quản lý vĩ mô; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về hội nhập quốc tế của Việt Nam, hỗ trợ tài chính có điều kiện cho doanh nghiệp dệt may có khả năng cạnh tranh hiệu quả và xuất khẩu, tiếp tục mở cửa thị trường ngành dệt may, và hỗ trợ phát triển thượng nguồn ngành may, tăng cường liên kết dệt may. 184 KẾT LUẬN Sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may Việt Nam trong những năm gần được thể hiện qua nỗ lực phát triển của từng doanh nghiệp cũng như toàn ngành từ những con số phản ánh mức độ tăng trưởng trong giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu, mức độ đầu tư... Tuy nhiên, nếu nhận diện ngành dệt may Việt Nam dưới chỉ tiêu giá trị gia tăng, khả năng cạnh tranh, cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu ngành, và một số chỉ tiêu liên quan đến các vấn đề môi trường và môi sinh, có thể khẳng định rằng chất lượng tăng trưởng của ngành dệt may Việt Nam là khá thấp. Cho đến nay, đã có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề chất lượng tăng trưởng, cụ thể hơn nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu phân tích chất lượng tăng trưởng và mối tương quan giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ở các ngành kinh tế. Theo đó, hệ thống lý luận cơ bản về chất lượng tăng trưởng ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng là vấn đề có tính động, cần được nhìn nhận phù hợp trong từng bối cảnh, điều kiện và môi trường trong từng thời kỳ. Luận án đã nỗ lực chỉ ra quan điểm của nghiên cứu sinh về chất lượng tăng trưởng trong đặc thù điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam. Kinh nghiệm thúc đẩy tăng trưởng và giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế nói chung cũng đã được nghiên cứu sinh tổng hợp đúc rút thành những bài học có giá trị cho Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH. Từ hệ thống lý luận về tốc độ và chất lượng tăng trưởng, nghiên cứu sinh đã nỗ lực tìm ra những luận giải cơ bản về sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam thông qua phương pháp phân tích đánh giá hiện trạng phát triển ngành. Nghiên cứu kinh nghiệm từ mô hình phát triển ngành dệt may của một số nước có điều kiện tương đồng để rút ra các bài học cần thiết đã được làm rõ trong nội dung luận án. 185 Có thể nói, để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng, ngành dệt may Việt Nam đã, đang và sẽ phải vượt qua rất nhiều rào cản. Có rào cản xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, song chủ yếu là những vấn đề xuất phát từ chính nội tại ngành mà không thể dễ dàng vượt qua trong thời gian ngắn. Qua việc phân tích ngành dệt may Việt Nam theo cách tiếp cận của luận án nghiên cứu, nghiên cứu sinh đưa ra các giải pháp, kiến nghị với mong muốn góp phần vào việc tìm ra hướng đi đúng đắn, vượt qua các rảo cản đang kìm hãm sự phát triển của ngành nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, hướng tới phát triển bền vững. Luận án đã nêu bật được các định hướng ở cả tầm vĩ mô lẫn trung mô, đồng thời phân tích và chỉ ra một số chính sách chưa phù hợp trong quá khứ để cùng luận bàn các định hướng phát triển ngành trong tương lai khi mà bối cảnh kinh doanh đã thay đổi rất nhiều. Luận án không chỉ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong ngành dệt may Việt Nam mà còn có giá trị tốt cho các nhà lãnh đạo quản lý ngành công nghiệp cũng như các nhà đầu tư có định hướng vào ngành dệt may Việt Nam trong những năm tới. 186 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Lê Xuân Bá (2005), Chất lượng tăng trưởng kinh tế - Một số đánh giá ban đầu cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu Viện Kinh tế và Quản lý Trung ương. 2. Bộ Công Nghiệp (2004), Báo cáo tổng kết hoạt động công nghiệp, Hà Nội. 3. Bộ Công Nghiệp (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động công nghiệp, Hà Nội. 4. Bộ Công Nghiệp (2006), Báo cáo tổng kết hoạt động công nghiệp, Hà Nội. 5. Bộ Công Nghiệp (2006), Báo cáo tổng kết về tình hình công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001-2005, Hà Nội. 6. Bộ Công Nghiệp (2005), Nghiên cứu phân tích chuỗi giá trị ngành may mặc Việt Nam, Hà Nội. 7. Bộ Công Thương (2007), Báo cáo tổng kết hoạt động công nghiệp, Hà Nội. 8. Bộ Công Thương (2007), Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu 2007, Hà Nội. 9. Buckholz (2008), Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối, Nhà xuất bản Tri thức. 10. CIEM (2004), Chính sách phát triển kinh tế - kinh nghiệm và Bài học của Trung Quốc, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 11. Lê Huy Đức (2005), “Nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Công nghiệp, (2), tr.8-10. 12. Dương Đình Giám (2004), “Liên kết kinh tế một nhu cầu cấp bách đối với phát triển kinh tế - xã hội hiện nay”, Tạp chí Công nghiệp, (4), tr.12-13. 13. JICA-NEU (2003), Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, NXB Thống kê, Hà Nội. 14. Vũ Trọng Lâm (2005), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 187 15. Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt (2005), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Đại học KTQD, Hà Nội. 16. Nguyễn Văn Nam (2005), Giải pháp nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010, NXB Đại học KTQD, Hà Nội. 17. Hồ Lê Nghĩa (2005), Chiến lược phát triển nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ CNH, HĐH đến năm 2010, tầm nhìn 2020, Đề tài nghiên cứu Bộ Công nghiệp 2005, Hà Nội. 18. Lâm Ngọc (2006), “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp, (5), tr.5-6. 19. Kenichi Ohno (2006), “Phát triển kinh tế của Nhật Bản – Con đường đi lên từ một nước đang phát triển”, Diễn đàn phát triển Việt Nam, Hà Nội. 20. Kenichi Ohno (2006), Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản – Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà Nội. 21. Nguyễn Đình Phan, Nguyễn Kế Tuấn (2006), Giáo trình Kinh tế Công nghiệp, NXB ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Phúc (2004), “Nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt nam trong quá trình CNH, HĐH”, Tạp chí Công nghiệp, số 4, tr. 1- 10. 23. Vũ Ngọc Phùng (2007), Giáo trình kinh tế phát triển, NXB ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 24. Trương Thị Minh Sâm (2006), Các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng ở Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thời kỳ 2001-2010, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 25. Tập đoàn Dệt May Việt Nam (2007), Báo cáo tổng kết năm 2007, Hà Nội. 26. Tập đoàn Dệt May Việt Nam (2006), Quy hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn 2020, Hà Nội. 27. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (2006), Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội 188 28. Ngô Kim Thanh, Hồ Tuấn (2005), Chất lượng tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam, Đề tài nghiên cứu Bộ Công nghiệp 2005, Hà Nội. 29. Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Kế Tuấn (2006), Kinh tế Việt Nam năm 2006 - Chất lượng tăng trưởng và Hội nhập kinh tế Quốc tế, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 30. Nguyễn Văn Thường (2006), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: những rào cản cần phải vượt qua, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội. 31. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám thống kê 2001, NXB Thống kê, Hà Nội. 32. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, Hà Nội. 33. Tổng cục Thống kê (2003), Niên giám thống kê 2003, NXB Thống kê, Hà Nội. 34. Tổng cục Thống kê (2004), Niên giám thống kê 2004, NXB Thống kê, Hà Nội. 35. Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, Hà Nội. 36. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê 2006, NXB Thống kê, Hà Nội. 37. Phan Đăng Tuất (2007), Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, Bộ Công Thương, Hà Nội. 38. Trần Văn Tùng (2003), Chất lượng tăng trưởng nhìn từ khía cạnh Đông Á, NXB Thế giới, Hà Nội. 39. Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp (2007), Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp giai đoạn 2001-2010 và định hướng chiến lược giai đoạn 2011-2020, Hà Nội. 40. Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp (2006), Chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, Bộ Công Thương, Hà Nội 189 41. Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp (2007), Chính sách phát triển công nghiệp từ hoạch định cấu trúc và hiệu quả kinh tế ngành, Bộ Công Thương, Hà Nội. 42. Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp (2007), Điều tra hiện trạng môi trường ngành công nghiệp, Bộ Công Thương, Hà Nội. Tiếng Anh 43. Tran Tho Dat (2004), Source of Vietnam’s Economic Growth, 1986-2004, Statistics Publisher. 44. Douglass, N.C (2004), Institutions and Productivity in History, St. Louis, MO Washington University. 45. Kuznets, S 1966, New Haven, CT (2005), Modern Economic Growth: rate, structure and spread, Yale University Press. 46. A. van der Veen Project (2001), The quality of growth' indicators for transition economies”, Yale University Press. 47. Solow, R.M (1956), “A contribution to the theory of Economic Growth”, Quarterly journal of Economics, (2), p 15-16. 48. Stiglitz, J. và Meier, G. Frontiers of Development Economics (2006), The future in perspective, Oxford University Press 49. Vinod Thomas, Mansoor Dailami (2006) , The quality of Growth, World bank. 50. Vinod Thomas (2007), Strategic objectives: improving the Quality of Growth, World bank.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA_Ho.Tuan_NEU.pdf
Tài liệu liên quan