Luận án Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty TNHH NN một thành viên giầy Thượng Đình

- Thị trường “khó tính”: một thị trường đặc biệt khó tính phải kể đến đó là thị trương EU. EU là một thị trường rộng lớn, có sức mua lớn song đây lại là thị trường đặc biệt khó tính, coi trọng mẫu mã và thời trang, bởi đa số người dân Châu Âu ưa chuộng hàng hóa có nhãn hiệu nổi tiếng, cũng như họ luôn tỏ ra thận trọng và bảo thủ. - Thị trường “dễ tính”: đa số mọi người trong chúng ta đều nghĩ Mỹ là một thị trường khó tính nhưng thật ra không phải vậy. Tuy Mỹ có một hệ thống tiêu chuẩn khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu và hầu hết những tiêu chuẩn về hàng hóa đều bắt nguồn từ quốc gia này, nhưng thực chất Mỹ lại là thị trường có nhu cầu đa dạng và tương đối dễ tính. Đặc điểm này xuất phát từ việc Mỹ là một quốc gia đa chủng tộc, có mức sống rất khác nhau, là quốc gia có nhiều tỷ phú nhất nhưng cũng không có nghĩa là không có người nghèo.

doc120 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 865 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty TNHH NN một thành viên giầy Thượng Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất giầy da hiện đại bước đầu đưa vào sản xuất loại sản phẩm mới này. Sản phẩm mới này cũng được bạn bè thế giới đặc biệt là khu vực EU đón nhận nhiệt tình. Tuy nhiên do hiện nay mặt hàng giầy có mũ da bị EU áp thuế chống bán phá giá nên công ty đã buộc phải ngừng và hạn chế việc xuất khẩu loại giầy này sang khu vực EU. Trước hoàn cảnh bị áp thuế chống bán phá giá, để duy trì được kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU, công ty đã có sự chuyển hướng sang sản xuất và xuất khẩu các loại giầy có mũ làm bằng nguyên liệu dệt, plastic để tránh bị áp thuế. Năm 2007 vừa qua lại có một sự thay đổi trong xu hướng lựa chọn giầy dép, giầy thể thao hay các loại giầy dép thời trang đã không còn thịnh hành, người tiêu dùng Châu Âu , Châu Mỹ và Châu Úc lại có xu hướng lựa chọn những đôi giầy vải thoải mái. Giầy vải từ lâu đã là thế mạnh của công ty, song cái mà người tiêu dùng cần không vải là loại giầy vải bình thường như trước kia mà là những đôi giầy vải thời trang, kiểu cách, tạo cảm giác thoải mái khi mang. Do đó, để thành công trong việc xuất khẩu loại giầy vải này phải dựa khá nhiều vào nỗ lực của đội ngũ thiết kế, phòng chế thử mẫu cũng như phòng xuất nhập khẩu. Những hạn chế còn tồn tại trong quá trình phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu giầy của công ty. Tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu bình quân còn thấp. Sử dụng kết quả đã tính được ở bảng 2.15 kết hợp với công thức (2) ta tính được tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu: M = = -1,4. M < 0 cho thấy hoạt động phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng của công ty còn kém hiệu quả, công ty đang đánh mất đi những thị trường xuất khẩu hiện có của mình. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do công ty chưa có sự quan tâm đúng mức dành cho việc xây dựng một chiến lược hay một chương trình mở rộng thị trường, cũng như có các biện pháp đúng mức cần thiết trong việc duy trì số lượng thị trường xuất khẩu. Đây chính là lý do khiến số lượng thị trường xuất khẩu của công ty luôn biến động thất thường. Trước thực trạng này, công ty cần tìm ra những nguyên nhân yếu kém khiến thị trường xuất khẩu của mình bị thu hẹp cũng như có giải pháp về một chiến lược mở rộng thị trường thực sự hiệu quả. Chưa thực sự tích cực trong việc tìm kiếm thêm khách hàng mới. Khách hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với mỗi công ty bởi họ chính là những người đem lại thu nhập cho công ty. Tuy nhận thức được vai trò của khách hàng song dường như công tác tìm kiếm, thiết lập mối quan hệ với các khách hàng mới chưa thực sự hiệu quả. Số khách hàng của công ty luôn có sự biến động thất thường. Bảng 2.19: Tình hình số lượng khách hàng xuất khẩu của công ty giai đoạn 2003 – 2007 STT Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 1 Số khách hàng hiện tại 13 15 17 15 17 2 Số khách hàng mới 4 3 1 4 1 3 Số khách hàng mất đi 2 1 3 2 0 4 Số khách hàng thực mới=(3)-(2) 2 2 -2 2 1 5 Số khách hàng khôi phục lại 0 0 0 0 0 (Nguồn: Phòng Xuất Nhập Khẩu). Qua bảng trên ta nhận thấy trong cả giai đoạn 2003 – 2007, bên cạnh việc có thêm những khách hàng mới và mất đi những khách hàng cũ thì công ty không hề khôi phục lại được bất cứ khách hàng nào. Năm 2003 và 2004 là những năm đánh dấu sự thành công của công ty trong việc tìm kiếm các khách hàng mới. Cụ thể năm 2003 có thêm 4 khách hàng mới là: QS, AZOT, YANKANG và WS. Sang đến năm 2004, công ty lại tiếp tục tìm kiếm được thêm 3 khách hàng mới là: CENTRAL PARK, FOOTECH, SAMJI, IKE. Trong đó nổi lên là 2 khách hàng tiềm năng là CENTRAL PARK (Đài Loan) và FOOTECH (Hồng Kông), chỉ riêng việc đặt hàng của 2 khách hàng mới này đã chiếm hơn 40% tổng sản lượng xuất khẩu của công ty và giá trị đặt hàng chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến năm 2006, với nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới, công ty đã có thêm 4 khách hàng mới mà nổi lên là TRD (Cuba) và KOVIC (Hàn Quốc). Bên cạnh việc có thêm những khách hàng mới thì hàng năm công ty cũng mất đi một lượng lớn khách hàng, đồng thời công ty cũng không khôi phục được lại mối quan hệ với bất cứ khách hàng nào. Vậy đâu là lý do khiến khách hàng ngày càng xa rời công ty. Lý do rất đơn giản là chính công ty đã quên mất khách hàng của mình trước. Sau khi hoàn thành hợp đồng, có được lợi nhuận, công ty đã không còn quan tâm chú ý tới công tác marketing đối với khách hàng, lơ là khách hàng của mình sau mỗi thương vụ làm ăn mua bán thành công. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu giầy của công ty. Công tác marketing còn nhiều yếu kém: Do không có một phòng marketing riêng cộng với sự hạn chế về nguồn nhân lực marketing đã khiến hoạt động marketing của công ty cũng như việc quản lý quan hệ khách hàng chưa thực sự hiệu quả. Đây chính là nguyên nhân khiến công ty không khôi phục lại được mối quan hệ với bất kỳ một khách hàng nào trong suốt giai đoạn 2003 – 2007. Sự lãng quên của khách hàng đối với công ty cho thấy công ty chưa thực sự biết cách chủ động duy trì, nâng cao mối quan hệ với khách hàng, cũng như chưa có sự chăm sóc khách hàng ngay cả khi đã kết thúc hợp đồng. Như vậy dù cho đội ngũ nhân viên của phòng xuất nhập khẩu có nỗ lực phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo, giá thành sản phẩm bán ra luôn ở mức phải chăng thì khách hàng cũng vẫn lãng quên hình ảnh của công ty. Công ty đã quên mất rằng mối quan hệ tạo dựng được với khách hàng chính là tài sản vô giá mà doanh nghiệp cần phải giữ gìn. Chưa có một định hướng chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu: Đây chính là lý do của sự bất hợp lý trong cơ cấu thị trường xuất khẩu. Việc quá chú trọng tới thị trường EU sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy đơn hàng giầy thể thao gặp nhiều khó khăn đặc biệt là cuối năm 2006 do ảnh hưởng của vụ kiện chống bán phá giá của EU. Đồng thời việc chỉ tập trung vào một thị trường đã khiến công ty có sự nơi lỏng đối với các khu vực thị trường khác. Đây là nguyên nhân khiến tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu của công ty có dấu hiệu ngày càng sụt giảm. Chưa quan tâm đúng mức tới khâu quảng bá, xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu: Điều mà công ty giầy Thượng Đình chưa làm được là để cho khách hàng, người tiêu dùng thế giới biết mình là ai, sản phẩm của mình gồm có gì Đối với các công ty trên thế giới thì lượng xuất khẩu càng tăng đồng nghĩa với việc tăng chi phí cho quảng cáo và tiếp thị sản phẩm. Nhưng đối với công ty giầy Thượng Đình lại không phải vậy, chi phí dành cho quảng cáo và tiếp thị sản phẩm chiếm một tỷ lệ rất rất nhỏ trong doanh thu bán hàng của công ty. Bên cạnh đó mỗi khi có dịp tham dự vào các hội chợ, triển lãm quốc tế thì mục đích của công ty là chỉ lấy đơn hàng xuất khẩu làm chính, mà bỏ đi tầm nhìn xa hơn là giới thiệu sản phẩm với các đối tác, quảng bá hình ảnh của công ty. Bên cạnh đó, công ty vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức tới việc xây dựng và phát triển thương hiệu của mình. Sở dĩ có tình trạng này là do sự nhận thức chưa đúng về thương hiệu. Thương hiệu không chỉ giúp công ty chống lại sự “làm nhái, làm giả” sản phẩm mà nó còn giúp công ty xây dựng và củng cố uy tín cũng như hình ảnh của mình. Nếu có sự nhận thức đúng đắn về thương hiệu chắc chắn giầy Thượng Đình sẽ được bạn bè thế giới biết đến nhiều hơn nữa. Bộ phận thiết kế còn hoạt động kém hiệu quả: Giầy dép là một mặt hàng thời trang nên thiêt kế là một khâu vô cùng quan trọng. Tuy nhiên việc thiết kế để đưa ra những sản phẩm mới của công ty lại khá rụt rè. Phần lớn sự cải tiến các mẫu thiết kế sản phẩm chỉ dành cho giầy vải và giầy thể thao. Bên cạnh đó, hoạt động của phòng chế thử mẫu còn nhiều hạn chế. Thời gian giao mẫu và chất lượng mẫu còn có lúc chưa đáp ứng được được yêu cầu của khách hàng như màu sắc chưa đúng, các chi tiết chưa chuẩn Nguyên nhân là do mẫu phát triển ngày càng phức tạp và đòi hỏi thời gian giao hàng gấp trong khi nguồn vật tư cho mẫu chưa phong phú, vật tư không đồng bộ và chất lượng đôi khi không ổn định. Đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế: Hiện nay cán bộ quản lý nội bộ doanh nghiệp vẫn còn yếu kém, kém phát triển, không chuyên nghiệp, chính vì vậy mà công ty gặp nhiều khó khăn khi đưa ra một chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, một chiến lược xuất khẩu thực sự hiệu quả Một hạn chế nữa mà đa phần các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp phải là trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp quốc tế của cán bộ nhân viên còn hạn chế. Đây là một khó khăn lớn trong việc đàm phán và ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, do sự yếu kém này mà kiến thức về thị trường nước ngoài còn hạn chế, công ty nhiều khi còn nóng vội, chưa kiên nhẫn trong việc nghiên cứu và thâm nhập thị trường nước ngoài, nhất là những thị trường khó tính, rất dễ dẫn đến những quyết định sai lầm. CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GIẦY CỦA CÔNG TY TNHH NN MỘT THÀNH VIÊN GIẦY THƯỢNG ĐÌNH 3.1. Dự báo về thị trường xuất khẩu của ngành giầy dép Việt Nam 3.1.1. Dự báo nhu cầu sản phẩm giầy dép thế giới. Là một ngành hướng ra xuất khẩu, ngành giầy dép Việt Nam đã và đang là nguồn cung cấp giầy dép tiềm năng cho các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu dùng giầy dép của các nước trên thế giới ngày càng tăng cùng với sự cải thiện của đời sống kinh tế xã hội. Dự báo đến năm 2008, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm giầy dép của thế giới vẫn tiếp tục tăng, bởi giầy dép là một trong các sản phẩm tiêu dùng thời trang không thể thiếu được, đặc biệt là ở các nước có khí hậu lạnh, người dân không thể không đi giầy. Về xu hướng tiêu dùng, thời trang giầy dép có liên quan mật thiết đến sự phát triển thời trang trong cách ăn mặc. Theo một cuộc khảo sát mới đây cho thấy, người dân ở các nước EU có xu hướng chuyển sở thích từ quần áo sang trọng sang quần áo bình thường hơn. Xu hướng này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường giầy dép. Theo đó, giầy vải và giầy thể thao đã trở thành những sản phẩm chấp nhận được trong những trường hợp không phải đi làm và bây giờ mọi lứa tuổi đều có thể sử dụng. Bên cạnh đó, xu hướng thời trang giầy dép hiện nay không còn phụ thuộc quá nhiều vào các nhà thiết kế, mà ảnh hưởng bởi mong muốn được thoải mái, đa năng và mang tính cá nhân. Ngoài ra, thời trang giầy dép còn bị ảnh hưởng bởi thể thao, phim ảnh, âm nhạc, sự kiện nghệ thuật và văn hóa của giới trẻ. Giới trẻ hay thay đổi nhưng nhãn hiệu vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự lựa chọn của họ. Đây là một điểm bất lợi đối với các công ty kinh doanh xuất khẩu giầy dép của Việt Nam, bởi hầu hết người tiêu dùng ở nước nhập khẩu vẫn chưa biết đến thương hiệu của da giầy Việt Nam. Về giá cả, do xu hướng biến động giá cả nguyên vật liệu trên thế giới trong thời gian qua đã khiến cho giá cả của mặt hàng giầy dép có xu hướng tăng, đây là một bất lợi bởi sản phẩm giầy dép xuất khẩu của ta vốn dĩ đã khó cạnh tranh với hàng giá rẻ của Trung Quốc. Bên cạnh đó, ưu thế của ta về công lao động vẫn là nhân tố cạnh tranh giúp giảm giá thành sản phẩm nhưng nay đã bắt đầu bộc lộ những khó khăn và biến động lớn, do người lao động có xu hướng dịch chuyển sang các ngành dịch vụ có thu nhập cao hơn. 3.1.2. Triển vọng về thị trường xuất khẩu của ngành giầy dép Việt Nam. Hiện nay giầy dép Việt Nam đứng thứ tư trong top 10 nước xuất khẩu hàng đầu vào thị trường 25 nước. Trong đó, EU và Mỹ là hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới. Ở khu vực Châu Á, nước ta đứng thứ ba trong số các nước xuất khẩu giầy dép lớn nhất vào Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Italia Thị trường EU, EU là một trong những thị trường sản xuất và tiêu thụ giầy dép và đồ da lớn nhất thế giới, chiếm gần 30% mức tiêu thụ toàn cầu. Người EU tiêu thụ khoảng 2 tỷ đôi giầy/năm, trong đó thị trường nội địa cung ứng khoảng 45 – 50%, phần còn lại là nhập khẩu, các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu có giá thấp, chất lượng từ thấp tới trung bình. Việt Nam là nước đứng thứ hai trong việc nhập khẩu giầy dép vào EU sau Trung Quốc, đạt giá trị 2,184 tỷ USD trong năm 2007, chiếm 7,2% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của EU. Nhìn chung, giầy dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, 33 mã hàng giầy thể thao và giầy mũ da bị áp thuế chống bán phá giá, nhưng các chủng loại khác vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan của EU và không bị hạn chế về số lượng. Giầy dép mặc dù bị áp thuế chống bán phá giá 10% nhưng vẫn tăng 11,4% so với năm 2006. Nhu cầu nhập khẩu giầy dép những năm gần đây của thị trường EU khoảng trên 29 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, năm 2008, xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào EU sẽ khó khăn hơn và dự báo chỉ tăng trưởng 8% (so với 11,4% của năm 2007) vì nhu cầu thị trường này yếu bởi tăng trưởng kinh tế chậm lại do kinh tế toàn cầu suy giảm bởi tác động của kinh tế Mỹ và dư âm của cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính. Ngoài ra, năm 2008 cũng năm bất lợi trong xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào thị trường EU, bởi EU đã dự kiến đưa toàn bộ hàng hóa thuộc danh mục XII (chủ yếu là giầy dép) ra khỏi danh sách hưởng thuế ưu đãi GSP bên cạnh việc duy trì thuế chống bán phá giá đến hết tháng 10/2008. Do đó về công tác thị trường, năm 2008 Bộ Công Thương cho rằng Việt Nam cần tiếp tục khai thác triệt để các thị trường trọng điểm có kim ngạch lớn như Đức, Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, đồng thời kết hợp với đẩy mạnh xúc tiến thương mại vào các thị trường mới của khu vực EU như Cộng hòa Séc, Hungary, Balan. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp da giầy Việt Nam cũng nên tìm hướng cho thị trường xuất khẩu mới, tránh phụ thuộc quá nhiều vào EU. Bên cạnh việc chuyển đổi thì đa dạng hóa thị trường cũng hết sức cần thiết. Các chuyên gia về thị trường cho rằng, sở dĩ Việt Nam bị nhiều vụ kiện, trước hết bởi tốc độ tăng trưởng quá nóng của một số mặt hàng xuất khẩu chỉ tập trung vào một thị trường, gây cảm giác lo ngại cho các nhà sản xuất ở nước sở tại. Thị trường Hoa Kỳ, Hoa Kỳ hiện là thị trường nhập khẩu giầy dép lớn nhất thế giới, bình quân mỗi năm người tiêu dùng Mỹ tiêu thụ 35 tỷ USD giầy dép khoảng 2 tỷ đôi, trong đó giầy thể thao chiếm 35%. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào Hoa Kỳ năm 2007 đạt 900 triệu USD, tăng 12% so với năm 2006. Tuy nhiên quy mô xuất khẩu còn khiêm tốn so với dung lượng thị trường Hoa Kỳ bởi nhập khẩu giầy dép của Hoa Kỳ vào khoảng 17 – 18 tỷ USD/ năm, chiếm 1/3 dung lượng thị trường thế giới. Mục tiêu phấn đấu của Việt Nam năm 2008 là đạt kim ngạch 1,1 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007, chiếm khoảng trên 5% kim ngạch nhập khẩu giầy dép của Hoa Kỳ, so với 4% năm 2007. Tuy thị phần giầy dép Việt Nam tại thị trường Hoa kỳ còn rất khiêm tốn nhưng với việc Việt Nam gia nhập WTO thì các sản phẩm giầy dép xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ sẽ còn tăng mạnh hơn nữa nhờ chính sách thuế ưu đãi. Bên cạnh đó, hiện nay các nhà nhập khẩu giầy dép của Hoa Kỳ đang có kế hoạch mở rộng hướng đặt hàng từ Việt Nam, nhất là các loại hàng có yêu cầu sản xuất phức tạp và chất lượng từ trung bình khá trở lên. Thị trường Nhật Bản, cũng giống như thị trường Mỹ nhu cầu nhập khẩu giầy dép cũng đang trong xu hướng tăng, tập trung chủ yếu vào các loại giầy có đế ngoài và mũ giầy bằng cao su hoặc plastic, da thuộc hoặc da tổng hợp, dép xốp, dép quai hậu. Tuy nhiên, Nhật Bản là một thị trường cạnh tranh cao do mặt hàng giầy dép được nhập khẩu từ nhiều nước và lượng hàng nhập khẩu nhiều, bên cạnh đó người tiêu dùng Nhật Bản đánh giá các sản phẩm hàng trong nước và ngoài nước theo tiêu chí họ chấp nhận trả giá cao hơn một chút những sản phẩm chất lượng tốt. Ngoài ba thị trường trên thì giầy dép xuất khẩu xủa Việt Nam cũng còn nhiều thị trường tiềm năng khác như Canada, Hàn Quốc, Malaysia, Braxin, Australia, Mêxicô vì nhu cầu nhập khẩu giầy dép của các thị trường này cũng đang tăng mạnh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải tiếp tục tăng cường tìm kiếm và khai thác các thị trường tiềm năng khác như Trung Đông, Châu Phi, đồng thời tiếp tục đầu tư, đổi mới công nghệ để sản xuất các sản phẩm cao cấp, tập trung vào những mặt hàng không bị áp thuế như giầy thể thao và giầy trẻ em. 3.2. Phương hướng phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình trong thời gian tới. 3.2.1. Dự kiến kế hoạch sản xuất kinh doanh và mục tiêu xuất khẩu của công ty năm 2008. Để thực hiện được mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu là 11 triệu USD trong năm 2008, công ty giầy Thượng Đình cần tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, cũng như tìm kiếm thêm các khách hàng mới để đáp ứng yêu cầu sản xuất. Bảng 3.1: Dự kiến kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2008 Các chỉ tiêu ĐVT Thực hiện năm 2007 Kế hoạch năm 2008 Ghi Chú 1. Giá trị SXCN Tỷ đồng 225,0 235,0 – 250,0 104,5% - 111% 2. Doanh thu Tỷ đồng 210,0 225,0 – 235,0 114% - 123% 3. Kim ngạch xuất khẩu Tr.USD 8,955 10,200 – 11,000 107% - 116% 4. Thu nhập doanh nghiệp Tỷ đồng 0,800 1,000 – 1,500 125% - 188% 5. Tổng sản phẩm Triệu.đôi 7,538 7,800 – 8,000 103% - 106% 5.1. Giầy vải xuất khẩu Triệu.đôi 1,583 1,700 – 1,900 107% - 120% 5.2. Giầy thể thao XK Triệu.đôi 1,432 1,500 – 1,600 104,7% – 111,7% 5.3. Giầy vải nội địa Triệu.đôi 4,523 4,600 – 4,700 101,7% - 104% Trong đó: a. Sản xuất tại công ty Triệu.đôi 5,563 5,500 – 5,700 102% 5.1. Giầy vải xuất khẩu Triệu.đôi 1,583 1,700 – 1,900 107% - 120% Kể cả dép Nhật 5.2. Giầy vải nội địa Triệu.đôi 3,980 3,800 95,5% b. Sản xuất tại Hà Nam Triệu.đôi 1,575 1,900 – 2000 120% - 127% 5.1. Giầy thể thao Triệu.đôi 1,032 1,500 – 1,600 145% - 155% Kể cả giầy đá bóng 5.2. Giầy vải nội địa Triệu.đôi 0,543 0,800 c. Gia công thành phẩm Triệu.đôi 0,400 0,380 – 0,410 100% 6. Tiêu thụ nội địa Triệu.đôi 4,700 4,900 – 5,000 104% - 106% 7. Thu nhập bình quân 1000 đ 1.700 1.900 – 2.000 12% - 118% 3.2.2. Định hướng thị trường xuất khẩu của công ty. Tiếp tục củng cố và giữ vững thị trường EU. EU là một thị trường lớn với dân số trên 500 triệu người, mức sống cao vào loại nhất trên thế giới, bình quân một người dân EU tiêu dùng 4 đến 5 đôi giầy dép trong một năm. Với một thị trường tiêu thụ giầy khổng lồ như thế, sức sản xuất giầy dép của EU không thể đáp ứng được hết nhu cầu lớn như vậy, vì thế mỗi năm thị trường này nhập khẩu một lượng lớn giầy dép từ các nước khác như Trung Quốc, Việt Nam Thêm vào đó với 27 quốc gia thành viên, mỗi nước đều có văn hóa đời sống khác nhau do đó cũng có sự khác nhau về sở thích cũng như sự lựa chọn giầy dép càng cho thấy tiềm năng về xuất khẩu giầy dép sang thị trường này. Hàng năm thị trường EU chiếm đến hơn 80% kim ngạch xuất khẩu của công ty giầy Thượng Đình. Do đó nếu mất đi thị trường xuất khẩu giầy dép này thì sẽ là rất khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu của công ty. Vì vậy việc đề ra định hướng tiếp tục củng cố và giữ vững thị trường này là hoàn toàn cần thiết. Để có thể thực hiện được điều này, công ty cần phải trả lời được ba câu hỏi: Làm thế nào để cạnh tranh được với hàng Trung Quốc? Có biện pháp gì trước vụ kiện chống bán phá giá? Làm thế nào để nâng cao giá trị mặt hàng xuất khẩu và xây dựng được thương hiệu? Khai thác tối đa khả năng thâm nhập vào thị trường Châu Mỹ. Trước vụ kiện chống bán phá giá ở thị trường EU, công ty giầy Thượng Đình cũng như nhiều công ty kinh doanh giầy dép khác nhận ra rằng không thể mãi chỉ phụ thuộc vào một thị trường xuất khẩu là EU. Việc chuyển hướng, mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác là hoàn toàn cần thiết. Trước tình hình đó, công ty giầy Thượng Đình đã nhận ra thị trường Châu Mỹ đầy tiềm năng, và nổi lên ở khu vực này là thị trường Bắc Mỹ với ba nước là Mỹ, Mêxicô và Canada, bên cạnh đó một thị trường nổi lên ở khu vực Nam Mỹ là Panama cũng rất được quan tâm. Đây đều là những thị trường triển vọng được công ty xác định sẽ đẩy mạnh thâm nhập trong thời gian tới. Đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng như Châu Phi, Châu Úc. Gặp khó khăn trên những thị trường truyền thống, công ty giầy Thượng Đình đã tích cực tìm kiếm thị trường mới, trong đó thị trường Châu Phi và Châu Mỹ được công ty chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu. Một lợi thế được đề cập đến là hàng giầy dép xuất khẩu của công ty có sức cạnh tranh cao cả về chủng loại và giá cả trên thị trường Châu Phi. Và thực tế là công ty đã thâm nhập rất thành công vào thị trường Nam Phi. Mặc dù đã khởi động rất tốt trên thị trường Nam Phi nhưng nhưng công ty chưa thể thâm nhập được sâu vào cả khu vực tiềm năng này. Chính vì vậy mà định hướng của công ty sẽ là đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Nam Phi và thông qua Nam Phi để thâm nhập vào các nước Châu Phi khác. Bên cạnh đó, ở thị trường Châu Úc nổi lên có Australia, nhu cầu nhập khẩu giầy dép của Australia vẫn luôn trong xu hướng tăng. Chính vì vậy công ty đã có dự kiến sẽ có những chuyến khảo sát thực tế ở khu vực thị trường này nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới. Tiếp tục khai thác lợi thế nhằm nâng cao kim ngạch trên các thị trường truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đông Âu. Bên cạnh việc chú trọng xuất khẩu sang EU và Mỹ, công ty cũng không bỏ qua các thị trường truyền thống vốn có như Đông Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngoài lợi thế là những thị trường truyền thống, có mối quan hệ làm ăn tốt đẹp nhiều năm, thì các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc còn có lợi thế về mặt địa lý, là những thị trường có nền kinh tế tăng trưởng khá trong khu vực nên người dân có mức sống cao Công ty cần tận dụng những lơn thế này để thâm nhập sâu hơn nữa, qua đó tăng kim ngạch xuất khẩu về cho công ty. 3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu giầy của công ty. 3.3.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu trong cả ngắn hạn và dài hạn. Đối với công ty, việc xây dựng chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu là hoàn toàn cần thiết trước tình hình khó khăn về thị trường xuất khẩu như hiện nay. Chiến lược này sẽ giúp công ty có được chính sách định hướng rõ ràng về thị trường xuất khẩu, cũng như có biện pháp tiếp cận và thâm nhập thi trường phù hợp để qua đó hạn chế bớt rủi ro trong quá trình phát triển và mở rộng thị trường. Chiến lược này được chia làm hai loại là chiến lược tập trung và chiến lược phân tán. Chiến lược tập trung: Chiến lược này có ưu điểm cơ bản là do chỉ thâm nhập sâu vào một số ít thị trường nên dễ tập trung được các nguồn lực của doanh nghiệp, việc chuyên môn hóa sản xuất và tiêu chuẩn hóa sản phẩm đạt được mức độ cao hơn, hoạt động quản lý trên thị trường cũng dễ dàng hơn. Đồng thời, do tập trung được nguồn lực nên doanh nghiệp có thể tạo được ưu thế cạnh tranh cao hơn trên thị trường. Tuy nhiên chiến lược này có nhược điểm cơ bản là tính linh hoạt trong kinh doanh bị hạn chế, mức độ rủi ro tăng lên, và doanh nghiệp khó đối phó với những biến động của thị trường. Chiến lược phân tán: Chiến lược này được đặc trưng bằng việc mở rộng đồng thời hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ra nhiều thị trường nước ngoài khác nhau. Ưu diểm của nó là tính linh hoạt cao và hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh. Nhưng do hoạt động kinh doanh bị dàn trải nên khó thâm nhập sâu, hoạt động quản lý phức tạp hơn và chi phí thâm nhập thị trường cũng lớn hơn. Ngoài việc xây dựng một chiến lược tối ưu thì công ty cũng cần lựa chọn phương thức thâm nhập phù hợp, cũng như nghiên cứu kỹ các yếu tố về dung lượng thị trường, thị hiếu tiêu dùng, kênh phân phối, đối thủ cạnh tranh, giá cả và chất lượng và cần phải nắm vững 4 nguyên tắc sau khi quyết định thâm nhập một thị trường xuất khẩu nào đó: - Về đối thủ cạnh tranh, sự hạn chế thông tin về đối thủ cạnh tranh trên mỗi thị trường thường làm cho ưu thế cạnh tranh trở nên không bền vững. Hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh sẽ tránh được việc cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ mạnh hơn và tìm ra các thị trường riêng cho mình, đó có thể là các thị trường ngách. Đây chính là lý do để có thể nói rằng muốn phát triển và mở rộng thị trường thì cần phải nâng cao hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh. - Về nắm bắt thị hiếu tiêu dùng, để làm được điều này công ty phải chuyển từ cách nghĩ “có cầu mới có cung” sang “cung tạo ra cầu”. Theo đó, công ty cần chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho thật phong phú dù chỉ có một mặt hàng xuất khẩu là giầy dép, người tiêu dùng muốn chọn loại nào cũng có ví dụ như to, nhỏ, hình thái, kiểu dáng - Về giá cả và chất lượng sản phẩm, công ty cần phải hiểu một chân lý rằng “thị trường quyết định giá cả” – theo đó một mặt hàng nếu thấy cần thiết thì đắt cũng mua, ngược lại những thứ mà thị trường không ưa thì dù giá rẻ cũng không thể bán được. Bên cạnh giá cả thì chất lượng của sản phẩm chính là thứ mà người tiêu dùng quan tâm. Hàng hóa không nhất thiết là phải có chất lượng cao, điều quan trọng mà công ty cần làm là chất lượng hàng hóa phải ổn định. Tránh việc tạo ra sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu không cần thiết, bởi những sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu của người tiêu dùng sẽ làm cho giá thành cao và người tiêu dùng sẽ không mua nữa. - Về thời gian giao hàng: việc đảm bảo thời gian giao hàng mà bên mua yêu cầu có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo uy tín của công ty. Nếu như giao hàng chậm hay không đảm bảo thời gian giao hàng sẽ khiến bên mua không muốn đặt hàng lại lần thứ hai và như vậy công ty sẽ mất đi cơ hội bán hàng cũng như mất đi một bạn hàng mới. Đẩy mạnh công tác Marketing xuất khẩu, tạo nguồn và điều hành quản lý. Khi quyết định thâm nhập hoặc mở rộng thị trường, một công ty phải giải quyết ba vấn đề cơ bản đó là marketing, tạo nguồn và điều hành quản lý. Về marketing, công ty phải trả lời được một số câu hỏi quan trọng sau: Công ty lựa chọn thị trường hay tiếp tục kinh doanh ở thị trường nào? Chính sách và chiến lược sản phẩm của công ty sẽ như thế nào ở từng thị trường? Chính sách và chiến lược giá cả của công ty đối với từng thị trường? Chính sách và chiến lược phân phối của công ty. Chính sách và chiến lược thông tin, quảng cáo. Về tạo nguồn, thực chất là việc cân nhắc sử dụng các nguồn lực có hiệu quả để phục vụ cho hoạt động của công ty ở các thị trường khác nhau. Muốn tạo được một nguồn hàng thích hợp, công ty cần phải tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý vì đây là hai yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất, có tính quyết định đối với việc cho ra đời một sản phẩm như thế nào. Bên cạnh đó, công ty cũng cần tập trung vào ba vấn đề chính là chi phí, chất lượng và rủi ro. Vấn đề thứ ba được cân nhắc khi quyết định mở rộng hoặc thâm nhập thị trường là đầu tư và điều hành để thực hiện các mục đích của mình. Công ty có thể xây dựng các chi nhánh với 100% vốn của công ty, liên doanh với nước ngoài hoặc các hình thức kinh doanh quốc tế khác, chẳng hạn như xây dựng hệ thống phân phối trực tiếp tại thị trường EU và Hoa Kỳ, hiện nay công ty mới chỉ có 3 đại lý bán hàng ở nước ngoài là ở Mỹ, Canada và Đức. Việc quyết định hình thức kinh doanh nào phụ thuộc vào hàng loạt các nhân tố cũng như quan điểm của công ty, các rủi ro liên quan đến từng hình thức kinh doanh và khả năng thực tế của công ty để vươn tới mục tiêu. Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu. Ngoài việc chủ động nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, công ty giầy Thượng Đình cần phải nâng cao năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Cụ thể là: - Chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua việc tham gia các hội chợ, triển lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức ở trong và ngoài nước. Hội chợ, triển lãm có thể giúp công ty trong một vài ngày tiếp cận được nhóm khách hàng tập trung có lợi ích tiềm năng mà công ty có thể phải mất vài tháng để tiếp xúc nếu không có hội chợ. Bên cạnh đó, việc tham gia hội chợ cũng là một cơ hội để doanh nghiệp quảng bá sản phẩm và hình ảnh của mình. - Tích cực quảng cáo và giới thiệu sản phẩm của công ty. Quảng cáo ban đầu là nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm và chất lượng của nó, sau là để thuyết phục người tiêu dùng về sự cần thiết và lợi ích khi mua sản phẩm của công ty. Tuy nhiên, tùy vào thị trường ở mỗi nước mà công ty sẽ đưa ra nội dung, phương thức và hình thức quảng cáo khác nhau sao cho phù hợp với bản sắc văn hóa ở nước đó. - Thúc đẩy hoạt động tiếp thị sản phẩm. Tiếp thị là một quá trình liên kết doanh nghiệp với khách hàng thông qua việc khuyến khích mua bán hàng hóa nhằm thỏa nhu cầu của khách hàng và tạo ra lợi nhuận. Tiếp thị có vai trò quan trọng đối với hoạt động của công ty, đặc biệt khi mà mặt hàng kinh doanh của công ty là sản phẩm tiêu dùng. Việc tiếp thị sản phẩm một cách thường xuyên sẽ có tác dụng như một chức năng để chinh phục khách hàng. Có hai cách thức tiếp thị, thứ nhất là tiếp thị đại chúng – sử dụng một chương trình tiếp thị duy nhất nhằm vào một lượng lớn khách hàng với cùng một sản phẩm, cùng biện pháp xúc tiến, thứ hai là tiếp thị thích hợp – tập trung vào một nhóm khách hàng nhất định và dồn mọi nỗ lực để chinh phục nhóm khách hàng đó. Ngoài ra cũng có rất nhiều con đường cũng như các cách thức tiếp thị khác để tiếp thị sản phẩm của công ty ra thị trường nước ngoài. Chẳng hạn như công ty cần thường xuyên ra nước ngoài tìm đối tác, thành lập các văn phòng đại diện, trung tâm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài, lập các kênh phân phối ở nước ngoài. Việc thành lập các văn phòng giao dịch là một biện pháp rất hay để giao dịch cũng như tìm kiếm các đối tác mới, bởi việc các doanh nghiệp dù có tích cực ra nước ngoài để tìm kiếm đối tác nhưng sang bên đó lại không có chỗ để giao dịch thì cũng không có hiệu quả cao. Nâng cao năng lực thiết kế sản phẩm đồng thời chú ý tới xu hướng thời trang. Thiết kế được xem là điểm yếu nhất đối với các công ty kinh doanh giầy dép của Việt Nam nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói riêng. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng ra tăng, đặc biệt là trước hàng Trung Quốc có mẫu mã đa dạng và phong phú thì điểm yếu này cần phải được khắc phục. Nếu không công ty giầy Thượng Đình sẽ khó cạnh tranh được trên thị trường cả trong và ngoài nước, đặc biệt khi mà hiện nay đối thủ cạnh tranh trực tiếp với hàng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam trên các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ lại là Trung Quốc. Mặc dù đã có trung tâm thiết kế mẫu 3D song công ty vẫn còn yếu về khâu thiết kế là do nguồn nhân lực trong thiết kế và phát triển sản phẩm còn yếu và thiếu. Lý do của sự yếu và thiếu về nguồn nhân lực này là do chưa có đủ thời gian và kinh phí để đảm bảo chất lượng cho các khóa đào tạo về thiết kế và phát triển sản phẩm. Trước thực trạng này, công ty cần: - Tạo điều kiện cả về thời gian và kinh phí cho việc bồi dưỡng cán bộ thiết kế giầy dép bằng cách cử họ đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ của Trung tâm mẫu và đào tạo thuộc Viện da giầy, hay mời các chuyên gia nước ngoài sang giảng dạy trực tiếp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ thiết kế của công ty. Một đội ngũ cán bộ thiết kế giầy giỏi, cộng với một độ ngũ cán bộ kinh doanh giỏi về marketing và xuất nhập khẩu sẽ trở thành lực lượng chủ yếu giúp công ty chuyển đổi phương thức sản xuất phù hợp, phát triển bền vững. - Quan tâm tới hoạt động cũng như tăng ngân sách cho phòng thiết kế và chế thử mẫu cũng là một biện pháp để khuyến khích nhân viên phòng thiết kế cống hiến hết mình cho công ty. - Không ngừng tìm kiếm, tuyển dụng thêm những cán bộ thiết kế thực sự có năng lực, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ để đưa phòng thiết kế trở thành phòng vững mạnh, cống hiến cho công ty những mẫu thiết kế mới, lạ, hợp với xu hướng thời trang. Bên cạnh đó xu hướng thời trang trong thiết kế giầy dép cũng cần được công ty quan tâm đúng mức. Bởi các sản phẩm giầy dép không cần lịch lãm sang trọng song vẫn phải thời trang. Có rất nhiều xu hướng thời trang trong ngành giầy dép nhưng chủ yếu tập trung vào hai khuynh hướng sau. Một là, sản phẩm giầy dép có mẫu mã đơn giản, giá cả trung bình nhưng phải đặc biệt trong chất liệu, kiểu dáng, màu sắc và phụ kiện trang trí. Hai là, sản phẩm giầy dép tuy không cần đẹp lắm về hình thức nhưng phải có tính bền cao, thể hiện cá tính mạnh, hơi bụi và tạo sự thoải mái. Để nắm bắt được xu hướng thời trang, công ty cần phải thường xuyên theo dõi, nắm bắt thông tin về thị trường để kịp thời đưa ra những mẫu mốt mới nhất và hợp thời trang. Mở rộng thị trường bằng việc xây dựng thương hiệu mạnh. Thương hiệu ngày nay đã dần trở thành một tiêu chí khi lựa chọn sản phẩm, đặc biệt là đối với giới trẻ - những con người năng động và sành điệu. Tuy nhiên đây còn là một hạn chế đối với nhiều công ty trong đó có công ty giầy Thượng Đình. Người tiêu dùng nước ngoài ít biết tới sản phẩm của công ty do hàng xuất khẩu của công ty chủ yếu là hàng gia công cho các hãng của nước ngoài nên phải lấy tên hiệu của hãng. Có thể nói việc giầy dép xuất khẩu của công ty ra thị trường thế giới nhưng chưa có tên, thương hiệu sẽ là một khó khăn trong cạnh tranh. Hơn thế nữa từ năm 1998 đến nay phạm vi lãnh thổ mà thương hiệu giầy Thượng Đình lưu hành chỉ ở một số nước như Trung Quốc, Lào và Campuchia, trong khi thị trường xuất khẩu chính của công ty lại không phải là những nước này. Dù ý thức được vai trò quan trọng của thương hiệu, nhưng công ty chưa thực sự thấu hiểu được giá trị đích thực của thương hiệu nên việc đầu tư của công ty cho thương hiệu cũng rất hạn chế - việc xây dựng và phát triển thương hiệu chỉ chiếm 1% đến 2% doanh thu. Đây là một sai lầm khi mà công ty mong muốn có một thương hiệu mạnh nhưng lại không thực hiện bước khởi đầu quan trọng nhất là xây dựng chiến lược tổng thể về thương hiệu. Chính vì không có chiến lược thương hiệu nên công ty đã gặp khó khăn trong công tác quản lý và phát triển thương hiệu. Bên cạnh đó, sau khi đã xây dựng thương hiệu thành công thì việc không ngừng phát triển và quảng bá thương hiệu là hoàn toàn cần thiết. Một điều đáng buồn là dù công ty đã có thương hiệu ở trong nước, ở Trung Quốc hay ở Lào và Campuchia, thậm chí công ty giầy Thượng Đình cũng đã được trao tặng danh hiệu thương hiệu mạnh hay nhãn hiệu nổi tiếng trong nước nhưng đã bao giờ bạn thấy một quảng cáo về giầy Thượng Đình trên tivi chưa? Không chỉ có vậy ngay cả khi vào trang web của công ty là www.thuongdinh.vn chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy sự sơ sài trong cách trình bày cũng như giới thiệu sản phẩm. Điều này cho thấy sự không quan tâm đúng mức của công ty về vấn đề thương hiệu. Trước thực trạng đó, giải pháp đề nghị là: - Trước hết công ty cần phải thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của thương hiệu, bởi xây dựng thương hiệu là một quá trình đầu tư lâu dài, được xây dựng một cách nhất quán theo một chiến lược phù hợp chứ không phải chuyện một sớm một chiều. - Lựa chọn chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu phù hợp với khả năng tài chính của công ty. - Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về các chính sách, biện pháp xây dựng và phát triển thương hiệu cho đội ngũ cán bộ chịu trách nhiệm về hoạt động này để họ có thể xây dựng được một chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. - Nâng cao nhận thức của toàn cán bộ công nhân viên về thương hiệu. Nhận thức được vai trò, tác dụng của thương hiệu sẽ giúp người lao động thực hiện có hiệu quả hơn các chính sách về thương hiệu của công ty. Có các chương trình đào tạo kỹ năng điều hành sản xuất và quản lý chất lượng: Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo cơ hội cho việc ứng dụng các thành tựu đó vào hoạt động sản xuất, gia công các sản phẩm giầy dép nhằm nâng cao chất lượng các sản phẩm giầy dép để ngày một đáp ứng tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Để chương trình đào tạo thực sự đem lại hiệu quả, cần phải: - Tìm hiểu về công nghệ sản xuất, gia công. - Tổ chức quản lý điều hành phân xưởng. - Quản lý chất lượng sản phẩm. - Kiểm soát chất lượng. - Kỹ năng khuyến khích và động viên người lao động. Ứng dụng tin học và thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh của công ty: Thương mại điện tử ngày nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong giao dịch mua bán quốc tế. Vai trò của thương mại điện tử ngày càng quan trọng trong việc khắc phục tình trạng thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin về thị trường, sản phẩm, bạn hàng và tình trạng khả năng tài chính có hạn. Ngoài việc có thể giúp công ty thực hiện các hoạt động xúc tiến, giao dịch, bán hàng, thương mại điện tử còn phục vụ cho việc thực hiện các hoạt động marketing xuất khẩu như quảng cáo, thực hiện thanh toán điện tử, nghiên cứu thị trường, cập nhật tin tức thường xuyên đặc biệt là thông tin về thị trường nước ngoài, hội chợ triển lãm, tìm hiểu quy định của nước nhập khẩu, cũng như yêu cầu các mặt đối với sản phẩm của khách hàng. Như vậy việc khai thác mạng thông tin Internet và thương mại điện tử có tác dụng rất tốt phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của công ty. Đây có thể được coi là cách nhanh nhất để đưa thông tin về công ty cũng như sản phẩm công ty tới đông đảo người tiêu dùng trên thế giới với chi phí thấp nhất. Đồng thời mạng Internet cũng là nguồn thông tin phong phú giúp doanh nghiệp có thể tìm hiểu được phần nào thị trường mà mình cần tiếp cận với chi phí bỏ ra không đáng kể. Không chỉ dừng lại ở việc tiếp cận với mạng thông tin Internet, việc áp dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trường cũng đặc biệt quan trọng với một công ty chủ yếu kinh doanh xuất khẩu như công ty giầy Thượng Đình. Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại truyền thống, thương mại điện tử có thể giúp công ty mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận với khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Ngoài ra nó còn giúp công ty cải thiện hệ thống phân phối, các hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm sẽ được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các showroom trên mạng. Thương mại điện tử còn giúp công ty có khả năng kinh doanh vượt giới hạn về thời gian và không gian. Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện trong 24 giờ cả 7 ngày trong tuần và suốt 365 ngày trong năm mà không mất thêm chi phí biến đổi. Có thể nói thương mại điện tử có những tác động hết sức mạnh mẽ do đặc thù của Internet là hoàn toàn phù hợp với các giao dịch thương mại quốc tế. Vì vậy việc áp dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với công ty giầy Thượng Đình. 3.3.2. Giải pháp về phía Nhà nước. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường. Các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép của Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác nước ngoài do điều kiện đi lại xa xôi, chi phí tốn kém nên vấn đề tìm hiểu và nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Chính vì vậy mà Chính phủ thường đứng ra hỗ trợ một phần vì các doanh nghiệp trong nước còn nghèo. Cụ thể các công việc cần phải làm: - Tập trung xây dựng các văn bản pháp quy về xúc tiến thương mại; tiếp tục thực hiện cải cách trong việc giải quyết các thủ tục hành chính đi đôi với kiểm tra, giám sát các hoạt động về khuyến mại và hội chợ triển lãm; áp dụng nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia theo tinh thần đổi mới. - Thường xuyên tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp như: Hội chợ triển lãm và kết nối giao thương, tuyên truyền về xuất khẩu, thông tin thương mại và nghiên cứu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường quốc tế thông qua các Trung tâm giới thiệu sản phẩm tại nước ngoài - Hỗ trợ một phần kinh phí cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường mới hay tạo điều kiện và cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào các hội chợ triển lãm quốc tế để quảng bá hình ảnh của mình. Tuy Bộ Công Thương đã có nhiều chương trình hỗ trợ cho ngành hàng, các doanh nghiệp, tuy nhiên, các chương trình đó vẫn chưa xứng với tầm vóc. Vì vậy, Bộ cần phải xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại quy mô lớn, tầm cỡ hơn cho ngành giầy dép và giao cho Cục xúc tiến thương mại chủ trì thực hiện bởi các doanh nghiệp kinh doanh giầy dép không thể chấp nhận những chương trình xúc tiến thương mại nhỏ bé mà cần những chương trình lớn. Đẩy mạnh vai trò, hoạt động của Hiệp hội da giầy Việt Nam. Vai trò của các Hiệp hội ngành hàng ngày càng bị xem nhẹ. Vì vậy, việc đẩy mạnh hoạt động của các hiệp hội nói chung và Hiệp hội da giầy nói riêng, để đây thực sự là chỗ dựa cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh là một việc cần làm. Hiệp hội sẽ là nơi tổ chức, phổ biến, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ kiến thức và nghiệp vụ cho các doanh nghiệp, có vai trò là tổ chức xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp thành viên, có chức năng điều phối để nâng cao sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, hiệp hội còn là đại diện bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp thành viên trong các tranh chấp thương mại, bởi thường trong các vụ kiện thương mại thì người ta chỉ kiện doanh nghiệp chứ không phải kiện Chính Phủ, do vậy Chính phủ khó có thể can thiệp trực tiếp mà phải là hiệp hội. Khi đó, hiệp hội sẽ là tổ chức đại diện hợp pháp về mặt quyền lợi, giúp doanh nghiệp giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong buôn bán quốc tế. Bên cạnh đó, hiệp hội còn là một kênh hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, tình hình tài chính... trong và ngoài nước, cũng như tư vấn để doanh nghiệp có thể hoạt động được một cách tốt nhất. Để hoạt động của hiệp hội bắt kịp với thực tiễn và đạt hiệu quả, các hiệp hội doanh nghiệp cần xúc tiến và tăng cường hơn nữa sự phối hợp với các Bộ ngành, đồng thời hoạt động của hiệp hội cũng không thể không tính đến việc liên kết với các chủ thể nước ngoài để thông qua đó sẽ có thêm những thông tin cần thiết giúp hoạt động của hiệp hội trở nên vững mạnh. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần sớm ban hành chính sách tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các hiệp hội mà cụ thể là Nghị định về quyền và nghĩa vụ của hiệp hội để hiệp hội hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Có thể nói Hiệp hội da giầy Việt Nam thực sự là một điểm sáng trong việc phát huy vai trò của một hiệp hội. Ông Trần Mạnh Thư – Chủ tịch Hiệp hội da giầy Việt Nam khẳng định: một nhiệm vụ ngày càng trở nên quan trọng của Hiệp hội là bảo về quyền lợi của các doanh nghiệp da giầy Việt Nam trong tranh chấp thương mại quốc tế. Và minh chứng cho thấy là vụ kiện với Canada đã thu được thành công, tuy nhiên đó vẫn chưa phải là mục đích cuối cùng của hiệp hội. Mục đích cuối cùng của hiệp hội đó là phải xác định được phương thức hoạt động để đáp ứng nhu cầu về thông tin, về xúc tiến thương mại, xứng đáng là đầu mối quan hệ hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành. Bên cạnh đó, Hiệp hội da giầy cũng có dự định xây dựng, phát triển những hiệp hội thuộc những địa phương có hoạt động mạnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng trở thành những trung tâm dịch vụ, thị trường giao dịch của ngành với quy mô tương xứng, tiến tới hình thành một hình thức giao dịch, mua bán bằng sàn giao dịch trực tiếp. Trong thời gian tới, Hiệp hội da giầy Việt Nam sẽ tăng cường liên kết, khớp nối với Viện nghiên cứu da giầy Việt Nam để mở rộng chức năng hoạt động của Viện so với trước đây, không chỉ là một đơn vị nghiên cứu đơn thuần mà sẽ trở thành một trung tâm tiếp thu khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu thập thông tin, đào tạo Tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi cho ngành da giầy. Một môi trường pháp lý ổn định và đồng nhất có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các công ty nói chung và các công ty thuộc ngành da giầy nói riêng. Cụ thể: - Đơn giản hóa thủ tục hải quan để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của các công ty. Hiện nay có hiện tượng công chức hải quan sách nhiễu doanh nghiệp, gây khó khăn trong quá trình làm thủ tục hải quan cũng như trong công tác hoàn thuế, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất nhập khẩu của các công ty. Tuy hiện nay Nhà nước ta đã áp dụng hải quan điện tử song việc phổ biến rộng rãi cách thức tiến hành thủ tục cho các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, đồng thời hệ thống hải quan điện tử còn mang tính thủ công vì vậy việc hoàn thiện hệ thống hải quan điện tử là một việc làm cấp thiết. - Các văn bản, chính sách, quy định của Nhà nước đối với ngành da giầy chưa thực sự mang tính thực tiễn. Theo đó có không ít văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo theo lối “khép kín” giữa cơ quan Nhà nước với nhau, nếu có tổ chức hội thảo với đại diện doanh nghiệp thì cũng chỉ là mang tính hình thức. Kết quả là luật ban hành ra không có “hơi thở” của cuộc sống, không có tiếng nói của doanh nghiệp và không có tính khả thi. Giải pháp cho vấn đề này là chính phủ cần coi trọng hơn vai trò của các Hiệp hội – bởi tiếng nói của Hiệp hội chính là mong muốn của các doanh nghiệp, thực sự coi trọng các đề xuất cũng như ý kiến góp ý của Hiệp hội với Chính phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách. - Việc nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp cũng hoàn toàn cần thiết. Bên cạnh đó Nhà nước cũng nên hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất cho các đơn vị nghiên cứu và đào tạo. - Xây dựng chính sách thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu công nghệ, thiết bị dây chuyền sản xuất như giảm thuế, hỗ trợ một phần kinh phí Việc làm này sẽ tránh được tình trạng các doanh nghiệp vì tham rẻ mà nhập khẩu công nghệ cũ, lạc hậu gây tổn thất cho cả doanh nghiệp lẫn Nhà nước. MỤC LỤC Trang DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG DANH MỤC HÌNH Hình 1.1 Quá trình lựa chọn thị trường 12 Hình 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của công ty giai đoạn 2003 - 2007 62 Hình 2.3 Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của công ty giai đoạn 2004 2007..63 Hình 2.4. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu giầy dép sang một số nước thuộc EU của công ty năm 2003 và 2007 68 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Tình hình sản xuất của công ty qua các năm 49 Bảng 2.2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của công ty qua các năm. 51 Bảng 2.3: Danh mục trang thiết bị sản xuất chính của công ty 52 Bảng 2.4: Tình hình sử dụng nguyên vật liệu của công ty 55 Bảng 2.5: Tình hình lao động của công ty qua các năm. 57 Bảng 2.6: Trình độ của cán bộ công nhân viên công ty 56 Bảng 2.7: Tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty 58 Bảng 2.8: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giai đoạn 2003 – 2007 59 Bảng 2.9: Số lượng giầy vải xuất khẩu giai đoạn 2004 – 2007 64 Bảng 2.10: Số lượng giầy thể thao xuất khẩu giai đoạn 2004 – 2007 65 Bảng 2.11: Kết quả khảo sát tính cơ lý của sản phẩm xuất khẩu 67 Bảng 2.12: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Âu của công ty 71 Bảng 2.13: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Mỹ của công ty 73 Bảng 2.14: Kim ngạch xuất khẩu sang Châu Á, Châu Úc, Châu Phi của công ty giai đoạn 2003 – 2007. 77 Bảng 2.15: Số lượng thị trường xuất khẩu của công ty trong giai đoạn 82 2003 – 2007 82 Bảng 2.16: Tốc độ phát triển tổng kim ngạch xuất khẩu 83 Bảng 2.17: Tốc độ phát triển kim ngạch trên từng khu vực thị trường 84 Bảng 2.18: Tốc độ tăng số lượng sản phẩm xuất khẩu mới bình quân 85 Bảng 2.19: Tình hình số lượng khách hàng xuất khẩu của công ty giai đoạn 2003 – 2007 87 Bảng 3.1: Dự kiến kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2008 95 Kết Luận 50 năm – một quãng thời gian không phải là dài đối với lịch sử của một đất nước, nhưng lại là cả một chặng đường gian khổ, phấn đấu không ngừng của một công ty. Để có thể khẳng định một tên tuổi giầy Thượng Đình như ngày hôm nay, là kết quả của sự nỗ lực, phấn đấu không biết mệt mỏi của ban lãnh đạo cũng như của tập thể cán bộ công nhân viên công ty. Tuy thời gian thực tập không nhiều, nhưng em cũng phần nào hiểu thêm về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như công tác phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty. Từ đó, em đã mạnh dạn đưa ra những phân tích, đánh giá về thực trạng phát triển và mở rộng thị trường của công ty, cũng như đề xuất một số giải pháp đóng góp. Tuy nhiên, bài phân tích mới chỉ đi sâu vào nghiên cứu những nhân tố chủ quan bên trong công ty. Việc phân tích những nhân tố khách quan bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty còn chưa được đi sâu phân tích, em xin được tiếp tục nghiên cứu. Do thời gian thực tập không dài, cộng với kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài luận văn của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô trong khoa Thương Mại – trường đại học Kinh Tế Quốc Dân, cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty giầy Thượng Đình để bài viết của em vừa có giá trị lý luận, vừa có thể áp dụng vào thực hiện hoạt động của công ty một cách có hiệu quả trong thời gian tới. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Văn Tuấn và toàn thể các cô chú, anh chị trong phòng xuất nhập khẩu công ty giầy Thượng Đình đã nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách: Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu_Nxb Thống Kê 2003. Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu_Nxb Lao Động xã hội 2006. Giáo trình quản trị kinh doanh Thương mại quốc tế_Nxb Giáo Dục. Giáo trình Marketing quốc tế_Nxb Đại học Kinh tế quốc dân 2007. Giáo trình Kinh tế ngoại thương_Nxb Lao động xã hội 2006. Kỹ thuật nghiên cứu thị trường xuất khẩu_Nxb Thống Kê 2006 Xây dựng và phát triển thương hiệu_Nxb Lao Động xã hội 2007. Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ_Nxb Lao động xã hội 2003. Tạp Chí: Thời báo kinh tế - Tập san thời báo kinh tế Việt Nam 2006 – 2007. Tạp chí kinh tế phát triển. Tạp chí ngoại thương. Tạp chí thương mại Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương. Báo Cáo: Báo cáo hoạt động xuất khẩu hàng hóa của công ty các năm từ 2003 đến 2007. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh 2007. Báo cáo chương trình kinh tế xã hội 2007 và nhiệm vụ thực hiện năm 2008. Báo cáo tổng hợp sử dụng lao động 12/2007. Kỷ yếu 50 năm xây dựng và phát triển Công ty TNHH NN một thành viên Giầy Thượng Đình. IV. Internet: www.thuongdinh.vn www.lefaso.org.vn www.baothuongmai.com.vn www.vcci.com.vn www.moi.gov.vn www.mot.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7334.doc
Tài liệu liên quan