Tóm tắt nội dung luận án:
Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của xã hội, trên mọi lĩnh
vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh vực văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy
nhiên, truyền thống và hiện đại không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà luôn ở
trong thế vận động, liên hệ tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, làm
thành diện mạo văn hóa của dân tộc. Nếu không nhận dạng và giải quyết tốt sự thống nhất biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
Về khái niệm văn hóa, phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay, có thể rút ra
khái niệm văn hóa: văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn; những giá trị đó đáp ứng
được nhu cầu của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Văn hóa là biểu hiện của trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Truyền thống, được hiểu như là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen
trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch
sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Còn hiện đại được hiểu
là những gì “thuộc thời đại ngày nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”. Hiện đại gắn liền
với phát triển, tạo ra những giá trị mới hơn, có phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Truyền thống
và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau; đó là sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại. Về sự thống nhất
giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa: truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại và hiện
đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống. Đồng thời, giữa truyền thống và hiện đại
trong sự phát triển của văn hóa lại có sự mâu thuẫn, trong đó cái truyền thống do tính ổn định,
tính bảo thủ cản trở sự phát triển của cái hiện đại và ngược lại có những cái hiện đại không phù
hợp, mâu thuẫn, xung đột với cái truyền thống.
Trong tiến trình lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc phát triển kinh tế, xã
hội, Cần Thơ đặc biệt quan tâm đến phát triển văn hóa; trong đó, việc kết hợp biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại luôn được chú trọng và được xem như một quy luật phát triển của văn
hóa. Nhờ đó mà văn hóa Cần Thơ đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đã đạt được, văn hóa Cần Thơ còn nhiều mặt hạn chế, mâu thuẫn:
sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai trò của
văn hóa; các biểu hiện của phong tục tập quán, lạc hậu, lỗi thời làm cản trở sự phát triển xã
hội mới; Để khắc phục những hạn chế, mâu thuẫn đó, Cần Thơ cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp: tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển biến căn bản tâm lý
của cán bộ, đảng viên và nhân dân sớm thích nghi với đời sống đô thị và nhận thức đúng đắn
vai trò của văn hóa; nâng cao trình độ dân trí để nhân dân hưởng thụ và sáng tạo những giá trị
văn hóa; tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa
mới lành mạnh trong xã hội, đi đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa;
khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều công trình văn hoá nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao;
bảo tồn, phát huy các đặc điểm, giá trị văn hóa riêng có ở Cần Thơ.
Những kết quả mới của luận án:
Một là, luận án đã phân tích làm rõ lý luận chung về văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn
giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
Hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ, luận án đề xuất một số giải pháp có tính
định hướng góp phần vào phát triển văn hóa Cần Thơ trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa
truyền thống và hiện đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khả năng ứng dụng của luận án:
Luận án giúp người đọc hiểu rõ nội dung, giá trị của truyền thống và hiện đại trong văn
hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình xây dựng nền văn
hóa mới ở Cần Thơ. Những ý nghĩa lịch sử mà luận án rút ra cũng như một số giải pháp có tính
định hướng mà luận án đề xuất, có thể góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ
bản trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc của vùng
đồng bằng sông nước, văn minh miệt vườn ở Cần Thơ. Luận án có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Văn hóa học.
206 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, công tác
chưa trở thành mối quan tâm thường xuyên của báo chí, chưa có sức thuyết
phục cao; mặt trái xã hội đề cập quá nhiều và không thích đáng. Thông tin
trên các trang tin điện tử (Website) còn nhiều sơ hở, khai thác thông tin
nước ngoài thiếu chọn lọc, kiểm chứng.
Phát triển văn học và nghệ thuật, trong những năm gần đây, thành phố
Cần Thơ đã củng cố một bước tổ chức của các hội văn học nghệ thuật, xác định
rõ hơn tính chất “chính trị - xã hội - nghề nghiệp” của các hội nhằm tập hợp,
đoàn kết các văn nghệ sĩ; phát hiện, bồi dưỡng tài năng; tăng cường đầu tư sáng
tác và giới thiệu, truyền bá sáng tác mới. Trang cấp kinh phí cho các hội văn học
nghệ thuật về căn bản đảm bảo cho hoạt động của hội.
Bên cạnh các văn nghệ sĩ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến tiếp
tục giữ vị trí nòng cốt trong sáng tác, đã hình thành lực lượng nghiên cứu, phê
bình, sáng tác trẻ đông đảo, có triển vọng.
179
Đoàn cải lương Tây đô, hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp của thành
phố Cần Thơ, chủ yếu ở 2 đoàn nghệ thuật: Ca múa kịch Cần Thơ17 và Cải
lương Tây đô.
Đoàn cải lương Tây Đô tiếp tục phát huy truyền thống, đội ngũ cán bộ
diễn viên tương đối vững tay nghề. Ngoài phục vụ nhiệm vụ chính trị, đoàn cố
gắng duy trì hoạt động ở vùng nông thôn. Thỉnh thoảng, các đài phát thanh -
truyền hình của khu vực, của thành phố mời đoàn tham gia chương trình thu,
phát hình kịch bản cải lương hoặc những bài ca lẻ. Hình thức biểu diễn của đoàn
ngày càng điều chỉnh theo hướng tổng hợp, tiết mục gọn nhẹ; chỉ diễn một
vài trích đoạn cải lương, thay vì nguyên vở như thời kỳ trước.
Trường trung học Văn hoá Nghệ thuật đã nâng cấp lên thành trường cao
đẳng văn hóa nghệ thuật, hàng năm trường đều có sự phát triển về quy mô và
số lượng lớp học, khoa đào tạo, số lượng học viên. Trường luôn chủ động phối
hợp, liên kết với Trường đại học Văn hoá Hà Nội, Trường đại học Văn hoá
thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thêm bậc học cao đẳng, đại học. Trường đang
bổ sung đội ngũ cán bộ, giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng chương
trình, giáo trình giảng dạy để lập đề án nâng lên bậc đại học đến năm 2020.
Xây dựng, phát triển các doanh nghiệp thuộc ngành văn hoá, thành phố
Cần Thơ có 03 doanh nghiệp văn hoá; đến năm 2006, cả 03 doanh nghiệp đã
chuyển sang cổ phần hoá với tên gọi: Công ty cổ phần sách và dịch vụ văn hoá
Tây Đô, Công ty cổ phần điện ảnh Cần Thơ, Công ty cổ phần in tổng hợp Cần
Thơ. Quá trình thực hiện kinh doanh theo phương thức mới, dù còn không ít
khó khăn, thách thức nhưng cả 03 doanh nghiệp đều hoàn thành công tác phục
vụ các nhiệm vụ chính trị, cơ sở vật chất không ngừng được đầu tư, chỉ tiêu
kinh doanh của Công ty hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Mặt bất cập trên lĩnh vực văn học và nghệ thuật đáng quan tâm là: còn ít
những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh chân thực,
17. Năm 2004, đoàn Ca múa kịch chuyển về tỉnh Hậu Giang.
180
sâu sắc, đúng tầm vóc sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố.
Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, hoạt động bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở Cần Thơ có bước tiến đáng kể. Công
tác kiểm kê di tích, sưu tầm văn hóa phi vật thể, xây dựng luật pháp, thực hiện
các chương trình chống xuống cấp di tích đã được các cơ quan trong thành phố
quan tâm thực hiện. Việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa đạt được bước tiến về cả quy mô, chất lượng và hiệu quả. Đã tạo được
phong trào quần chúng rộng rãi, góp nhiều công sức, tiền của cho bảo tồn, tôn
tạo, vừa tham gia quản lý và vừa phát huy các di sản đó.
Văn hóa dân gian, cổ truyền, các loại hình nghệ thuật của các dân tộc
anh em như: Khmer, dân tộc Hoa đã được tổ chức sưu tầm, lưu giữ lâu dài
phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân. Bảo tàng thành phố đã có những bước
phát triển nhảy vọt. Từ cơ sở cũ chật hẹp, nội dung trưng bày hạn chế, bảo tàng
đã được đầu tư xây dựng mới có quy mô lớn ở đồng bằng sông Cửu Long.
Mạng lưới các phòng truyền thống quận, huyện, xã, phường phục vụ tốt công
tác giáo dục truyền thống tại địa phương.
Trong 5 năm 2005-2009, đã tổ chức sưu tầm bổ sung hơn 2.847 hiện vật
các loại. Hoàn thành phòng trưng bày với diện tích 360m2 tại di tích Chiến
thắng 75 tiểu đoàn địch, với 176 hiện vật và hình ảnh các loại. Hoàn thành
công tác trưng bày Bảo tàng Cần Thơ trên diện tích 1.388m2 với 1.195 hiện
vật, 981 hình ảnh và 239 tài liệu khoa học bổ trợ.
Thực hiện dự án bảo tồn và phát huy các giá trị di sản phi vật thể “Kỹ
thuật đóng ghe xuồng ở Phụng Hiệp”, “Chợ nổi”, “Đờn ca tài tử”, “Nghi thức
làm phước trong Lễ dâng y của người Khmer”, “Múa bóng rỗi” và “Nghề dệt
chiếu”. Mới đây, tại lễ hội đời sống dân gian Smíthonian 2007, diễn ra từ ngày
23-6 đến ngày 09-7-2007 tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, “Nghệ thuật làm
bánh dân gian” của nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm là một nét văn hóa độc đáo
181
của Cần Thơ18. Tổ chức trưng bày 16 chuyên đề tại bảo tàng, phục vụ hơn 500
ngàn lượt khách tham quan, trong đó có hơn 5.000 lượt khách nước ngoài.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về công tác bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa, vẫn còn một số hạn chế là: công tác phát hiện, bảo tồn, phát
huy giá trị và khai thác giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể còn
nhiều bất cập do thiếu kinh phí và cơ chế quản lý phù hợp, phát sinh nhiều tiêu
cực trong trùng tu, tôn tạo. Một số di sản văn hóa vật thể tiếp tục bị xâm phạm,
lấn chiếm, đánh cắp, làm hư hại khá nặng nề, nhiều di sản không còn khả năng
khôi phục.
Văn hóa đối với tôn giáo, các cấp uỷ Đảng và chính quyền ở Cần Thơ
đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp
luật, nhiều lễ hội của các tôn giáo, như: lễ Phật Đản, Giáng sinh, các lễ hội tôn
giáo của người Khmer, người Hoa đã trở thành sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng dân cư trong thành phố. Lãnh đạo thành phố và các ngành chức năng
thành phố Cần Thơ đã triển khai nhiều hoạt động văn hóa để phát huy ý tưởng
công bằng, bác ái, hướng thiện… trong các giáo lý tôn giáo, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, góp phần ổn định chính trị xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống đồng bào có đạo.
Mặt nhược điểm là, nhận thức về tôn giáo và văn hóa trong tôn giáo của
một số cấp uỷ đảng và chính quyền còn sơ lược, đơn giản, chưa thật nắm vững
tính đặc thù để lãnh đạo, quản lý phù hợp, có hiệu quả. Thiếu sự phối hợp đồng
bộ, nhịp nhàng giữa các ngành, đoàn thể trong công tác phát triển văn hóa đi
đôi với phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
3.2. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ TRONG THỜI
KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
18. Bộ Văn hoá - thông tin đã quyết định chọn 11 loại hình di sản văn hoá phi vật thể của Việt nam để giới
thiệu tại Lễ hội đời sống dân gian Smíthonian 2007, diễn ra từ ngày 23-6 đến 09-7-2007 tại thủ đô
Washington, Hoa Kỳ, có 39 nghệ nhân tham gia trong các loại hình văn hoá di sản: Nghệ thuật cồng chiêng,
nghề đẽo thuyền độc mộc, nghề đan gùi và sử thi của đồng bào Bana Rơngao (Kon Tum); đờn ca tài tử, múa
lân (Bạc Liêu); nghệ thuật hát bội (Vĩnh Long); nghề dệt dân tộc Chăm (An Giang)…và nghệ thuật làm bánh
dân gian của nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm (Cần Thơ).
182
3.2.1. Quan điểm và phương hướng chung trong việc phát triển
văn hóa ở Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cách đây từ rất lâu, con người đã nhận thức được vai trò to lớn của văn
hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do trình độ phát triển và
do điều kiện lịch sử của mỗi nước mà có sự vận dụng khác nhau cho phù hợp
với đặc điểm tình hình của nước mình.
Ở Liên Xô, cách nay nhiều thập kỷ, trong quá trình lãnh đạo nhân dân
xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ văn hóa
của nhân dân còn thấp kém hơn nhiều so với các nước phát triển, V.I.Lênin đã
khẳng định tính cấp thiết của cách mạng văn hóa. Ông đã coi việc “tiến hành
công tác văn hóa trong nông dân” là một trong “hai nhiệm vụ chủ yếu có ý
nghĩa đánh dấu thời đại”, và ông khẳng định “chỉ cần hoàn thành cuộc cách
mạng này là đủ để… trở thành một nước hoàn toàn xã hội chủ nghĩa xã hội”. Ở
nước ta, ngay sau khi nước ta độc lập, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc xây
dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định, để “biến một xã
hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao”, chúng ta phải phát triển
đồng thời cả kinh tế và văn hóa, lấy phát triển văn hóa làm cơ sở để phát triển
kinh tế. Điều đó cho thấy, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là nguồn lực nội sinh của
mọi sự phát triển, là cơ sở cho sự phát triển lâu bền, toàn diện; rằng văn hóa
không chỉ gắn liền với kinh tế, phát triển văn hóa không chỉ là điều kiện cho sự
phát triển kinh tế, mà hơn thế, phát triển văn hóa cùng với phát triển kinh tế
đều phải hướng tới phát triển xã hội, phát triển con người, hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc vai trò to lớn của văn hóa đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:
“Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên
183
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh
viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh
văn hóa con người Việt Nam” [32, 106] để văn hóa thực sự vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trên nền tảng lý luận đó, phương hướng xây dựng nền văn hóa mới trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Cần Thơ là: xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc của vùng đồng bằng sông nước, văn
minh miệt vườn, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây
dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát
triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu
dương những giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu
tranh chống những biểu hiện phi văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền
tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng
đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Để thực hiện phương hướng chung đó, cần quán triệt các quan điểm
chủ yếu như sau:
Quan điểm thứ nhất, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ phải thật
sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền
184
tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không
quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết
quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố
văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Quan điểm thứ hai là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là
xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị, đặc điểm riêng của văn hóa Cần
Thơ trên cơ sở tiếp thu những cái mới, cái tiến bộ của những thành tựu và
tinh hoa văn hóa trong thời đại mới .
Xây dựng, giữ gìn và phát huy truyền thống và hiện đại của văn hóa Cần
Thơ là giữ gìn và phát huy những giá trị và đặc điểm riêng của văn hóa Cần
Thơ như: đặc điểm của nền văn hóa mang tính sông nước, văn hóa miệt vườn
và tính cách phóng khoáng, giản dị, khoan dung, trọng nghĩa khinh tài của
người dân Cần Thơ; giữ gìn và phát huy những giá trị, đặc điểm văn hóa Cần
Thơ còn là phải tôn trọng tính phong phú và đa dạng của nền văn hóa khác
nhau của các dân tộc khác nhau (Kinh, Khmer, Hoa), đã dung hợp, giao thoa
cũng như tác động lẫn nhau trong suốt chiều dài lịch sử, cải tạo, đấu tranh xây
dựng vùng đất này, gồm văn hóa Kinh, Khmer, Hoa, được biểu hiện qua các
loại hình văn hóa như: nghệ thuật kiến trúc xây dựng, với những kiểu kiến trúc
khác nhau (nhà cổ Long Tuyền, chùa Nam Nhã, chùa Khmer…), những khu di
tích lịch sử - văn hóa (lịch sử khai dân, mở ấp,…), lịch sử đấu tranh cách mạng
(lộ Vòng Cung, khu căn cứ tỉnh ủy…), các phong tục tập quán (cưới xin, ma
chay…), các lễ hội của các dân tộc (lễ cúng đình của người Việt, lễ Ok
Ombok, lễ Đôn ta của người Khmer…), các hình thức văn học - nghệ thuật (ca
dao, dân ca, hò, vè, hát ru…). Tất cả những giá trị, đặc điểm đó phải đặt trong
185
mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại để giáo dục cho thế hệ
trẻ hiểu được truyền thống hào hùng của nhân dân Cần Thơ.
Giữ gìn và phát huy các giá trị, các đặc điểm của văn hóa Cần Thơ
phải gắn kết với mở rộng giao lưu với các nền văn hóa của các vùng miền
khác nhau trên cả nước và quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái
tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác và phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi
thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
Quan điểm thứ ba là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là xây
dựng một nền văn hóa phải đảm bảo tính thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa sống ở thành phố Cần Thơ. Các dân tộc
sống trên địa bàn thành phố Cần Thơ đều có những giá trị và sắc thái văn hóa
riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn
hóa Cần Thơ và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình
đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa cúa các dân tộc anh em.
Quan điểm thứ tư là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là sự
nghiệp của toàn dân do Đảng bộ thành phố Cần Thơ lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người dân Cần Thơ phấn đấu vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đều tham gia
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa thành phố. Công nhân, nông
dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Quan điểm thứ năm, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là một
sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và kiên trì,
thận trọng. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của Cần Thơ,
sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá
trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý
và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức
186
tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”,
lấy “xây” làm chính”. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn
hóa quý báu của Cần Thơ cũng như của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì
cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu,
chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”.
3.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa giữa truyền
thống và hiện đại trong việc phát triển văn hóa ở Cần Thơ thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Để giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ hiện nay, tác giả xin đề xuất
các nhóm giải pháp như sau:
1- Trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển
biến căn bản tâm lý, lối sống của mọi tầng lớp nhân dân (kể cả cán bộ, đảng
viên) sống trong một tỉnh thuần nông qua nhiều thế hệ sớm thích nghi với
đời sống đô thị; làm chuyển đổi căn bản về nhận thức của cán bộ, đảng viên
và nhân dân, nhất là cán bộ quản lý về vai trò của văn hóa đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Có như vậy mới huy động được sức mạnh tổng hợp
của nhân dân trong việc xây dựng thành phố Cần Thơ văn minh, hiện đại.
Tập trung đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa tương ứng và khai thác có
hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa đó; đồng thời đầu tư xây
dựng, cải tạo nâng cấp một số công trình văn hóa, nghệ thuật hiện đại. Thu
hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các nhóm xã hội, giữa đô thị và
nông thôn, giữa vùng kinh tế phát triển và vùng sâu, vùng xa. Chú trọng xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Môi trường văn hóa của xã
hội cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo dục nhân cách con
người, trong đó có giáo dục truyền thống.
187
Đưa cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
đi vào chiều sâu có tính thiết thực và hiệu quả. Nâng cao tính tự quản của
cộng đồng trong xây dựng nếp sống văn hóa, khu dân cư và đơn vị văn hóa.
Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; đẩy lùi hủ tục,
các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng. Coi
trọng vai trò, vị trí của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ và duy trì phát
triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Cần Thơ.
Trên cơ sở đó, xác lập những định hướng xây dựng một hệ thống giá
trị mới vừa dân tộc vừa hiện đại và cần được xã hội hóa bằng nhiều chính
sách và biện pháp, trong đó quan trọng nhất là giáo dục gia đình và trường
học, là môi trường văn hóa lành mạnh và phong phú của xã hội, là hệ thống
pháp luật thống nhất và đồng bộ.
2- Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Chăm lo
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí để nhân dân hưởng
thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ
xây dựng con người Cần Thơ theo 5 đức tính được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá VIII) và
những chuẩn mực giá trị của con người Cần Thơ đương đại: “Trí tuệ, năng
động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”. Việc xây dựng nền văn hoá mới, con
người mới ở Cần Thơ cần cụ thể hóa theo các đối tượng, gắn chặt mục tiêu
xây dựng con người mới với những đặc điểm vốn có của Cần Thơ như:
phóng khoáng, khoan dung, cộng đồng, nhân ái, vừa phong phú, sâu sắc,
vừa năng động, sáng tạo. Quy tụ mọi hoạt động văn hóa, phát huy thế mạnh
của từng loại hình văn hóa - thông tin phục vụ nhiệm vụ bồi dưỡng lòng yêu
nước, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Cần Thơ, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục về chủ nghĩa xã hội,
lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tạo sự chuyển biến rõ rệt về bản
188
lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí tuệ người Cần Thơ và đời sống
văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia
đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở ở Cần Thơ. Cần xác định đây là
nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.
Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu
văn hóa ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân ở Cần Thơ; đi
đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa, nhất là đội ngũ
đạo diễn, nhà văn giỏi; khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công
trình văn hoá nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao ở Cần Thơ về tư tưởng và
nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc
đổi mới. Đồng thời có giải pháp, chính sách phù hợp để bảo tồn, lưu truyền
những công trình văn hóa nghệ thuật tiêu biểu này cho muôn đời sau.
Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, trước hết phải coi trọng giáo
dục ngay từ gia đình. Trong suốt chiều dài lịch sử, gia đình bao giờ cũng giữ
vai trò cực kỳ quan trọng trong nuôi dạy con cái, truyền nối các giá trị văn
hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác, hình thành nhân cách ban đầu của thế hệ
trẻ. Ở đây, người mẹ đóng vai trò hết sức quan trọng. Vấn đề bức thiết hiện
nay là phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ người mẹ, cung cấp những tư liệu cần
thiết cho người mẹ làm tròn sứ mạng giáo dục truyền thống cho con cái
bằng những hình thức và nội dung phù hợp như lời ru, chuyện kể, trò chơi
con trẻ… Trong nhà trường, nội dung giáo dục truyền thống thể hiện tập
trung nhất trong môn lịch sử. Cần khẳng định rằng, môn lịch sử, trước hết là
lịch sử dân tộc, có nội dung rất phong phú và có thể phát huy nhiều tác dụng
giáo dục truyền thống. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức nghiên
cứu, đánh giá lại một cách khách quan và đưa ra một chương trình cải
cách toàn diện về môn học này.
Trong thời gian qua, do ảnh hưởng mặt trái của nền kinh tế thị
trường nên môi trường văn hóa của xã hội bị nhiễm độc khá nghiêm
189
trọng, gây không ít hậu quả đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh,
thiếu niên. Vì vậy, đề nghị Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch nên có những
văn bản pháp quy, những chương trình và biện pháp hữu hiệu nhằm nâng
cao và làm phong phú thêm môi trường và đời sống văn hóa của nhân
dân, trong đó giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc giữ
vị trí chi phối.
Cho đến nay, tuy Cần Thơ đã được Nhà nước công nhận là thành phố
loại I, trực thuộc Trung ương nhưng tỷ lệ dân số làm nông nghiệp còn nhiều;
do đó, nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là nền tảng kinh tế - xã hội của
Cần Thơ. Trong nông thôn, gia đình là tế bào của xã hội, nhưng bao giờ cũng
tồn tại gắn bó mật thiết với cộng đồng làng, xã. Có thể nói, nền văn hóa nông
nghiệp thực chất là “văn hóa làng, xã” mà cội nguồn và cơ sở căn bản là nền
văn hóa dân gian. Làng (xã) là địa bàn tụ cư truyền thống, là đơn vị kinh tế - xã
hội cơ sở, đồng thời là không gian văn hóa tác động sâu sắc đến sự phát triển
nhân cách con người, đến sự kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống.
Do đó, cần bảo đảm sự tôn trọng và thực thi pháp luật của nhà nước xuống tận
cơ sở; đồng thời khai thác, phát huy mặt tích cực kết hợp với việc hạn chế, xóa
bỏ mặt tiêu cực trong truyền thống cộng đồng, bảo tồn thuần phong mỹ tục của
từng làng, xã.
3- Trong phát triển kinh tế - xã hội, cần bảo đảm sự phát triển cân
đối cả ba lĩnh vực: kinh tế, xây dựng đảng và văn hóa; trong đó, phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đảng là then chốt và văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Không nên quá chú trọng phát triển
kinh tế, xem nhẹ phát triển văn hóa; ngược lại, không quá đề cao phát
triển văn hóa, hạ thấp vai trò của phát triển kinh tế, tạo nên sự phát triển
đồng bộ của các lĩnh vực này chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho
sự phát triển toàn diện và bền vững của thành phố.
Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh
đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn: Học tập và làm theo tấm gương
190
đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là tinh thần đoàn kết nội bộ, phải giữ gìn
sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con người của mắt mình, kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, mọi hiện tượng bè phái, cơ hội, làm
mất đoàn kết trong đảng để Đảng bộ Cần Thơ thật sự trong sạch, vững
mạnh, là “đạo đức”, là “văn minh”. .. Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức,
lối sống cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể ở Cần Thơ như: truyền
thống cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, tăng
cường đoàn kết để phát huy tất cả các nguồn lực, mọi tiềm năng, lợi thế
vốn có và sẽ có, coi đó là giải pháp quan trọng có tính chất quyết định để
đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng thành phố
công nghiệp, văn minh, hiện đại, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của
vùng hạ lưu sông Mê Kông, là một cực tăng trưởng của vùng đồng bằng
sông Cửu Long và của cả nước. Trước mắt, cần nâng cao chất lượng công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính để xây dựng Đảng
bộ Cần Thơ luôn luôn đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh.
4- Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa, trong quá trình mở
rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung
xây dựng những giá trị mới của văn hóa đương đại ở Cần Thơ, cần tiếp
tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của
truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa
thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại. Cần có quan điểm, phương
pháp rõ ràng về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, vận dụng
sáng tạo các chính sách của nhà nước phù hợp với điều kiện của Cần Thơ để
bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc; đồng thời cần có biện pháp kiên quyết
ngăn chặn những loại hình văn hóa không lành mạnh xâm nhập vào Cần
Thơ. Đẩy mạnh hơn nữa việc sưu tầm, nghiên cứu và phổ biến các giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc, có chính sách thỏa đáng đối
với các nghệ nhân dân gian; có kế hoạch phù hợp, cụ thể từng thời kỳ, từng
năm để bảo tồn những giá trị văn hóa vật thể. Tiếp tục trùng tu, tôn tạo các
191
di tích cách mạng, lịch sử, văn hóa, danh thắng trọng điểm. Thường xuyên
giáo dục, nâng cao ý nghĩa lịch sử và văn hóa truyền thống của dân tộc và
của quê hương đối với mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Gắn kết chặt chẽ công tác bảo tồn di sản văn hóa với kinh tế du lịch
và thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa dân
tộc trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, tăng cường hiểu biết giữa
nhân dân Cần Thơ với nhân dân các nước, trước hết là với các nước bạn
là Trung Quốc, Campuchia và Lào. Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng,
bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, vừa kiên trì
củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Cần Thơ,
đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
5- Phát triển nền văn học, nghệ thuật Cần Thơ hiện đại, đậm đà bản
sắc dân tộc, thể hiện chân thật đời sống nhân dân, lịch sử vùng đất Cần
Thơ và công cuộc đổi mới ở Cần Thơ với thái độ cổ vũ cái đúng, cái đẹp,
đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những
phong cách nghệ thuật và phương thức thể hiện mới đáp ứng nhu cầu tinh
thần lành mạnh của công chúng; đồng thời bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ
lành mạnh cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khắc phục yếu kém,
nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình
văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển lành mạnh của
sáng tác văn học, nghệ thuật trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định của pháp luật về sở
hữu trí tuệ, đồng thời xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ có
tính đặc thù, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của văn nghệ sĩ, nghệ
nhân dân gian nhằm tạo điều kiện thuận lợi và động viên văn nghệ sĩ,
nghệ nhân dân gian sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần xây dựng nền văn hóa và con
người Cần Thơ. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của hoạt động giới thiệu,
192
truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, phục vụ nhân dân và công
chúng văn học, nghệ thuật ở nước ngoài.
Nghiên cứu đề xuất với các Bộ, ngành có liên quan hoàn thiện
chương trình, giáo trình; đổi mới phương thức đào tạo, gắn đào tạo với
thực tiễn nghệ thuật Cần Thơ, phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ
cao nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng văn hóa Cần
Thơ. Tiếp tục củng cố, đổi mới chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt
động, phát huy vai trò, năng lực tập hợp, tổ chức đội ngũ văn nghệ sĩ,
nghệ nhân dân gian của các hội văn học, nghệ thuật. Tăng cường đầu tư
cho văn hóa, đảm bảo kinh phí cho các chương trình mục tiêu lớn, cho
hoạt động sáng tạo của các hội văn học, nghệ thuật.
Chú trọng nâng cao chất lượng tư tưởng - văn hóa, khắc phục xu
hướng thương mại hóa đơn thuần, xa rời tôn chỉ mục đích trong hoạt động
báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản. Xây dựng đội ngũ hoạt động báo
chí, xuất bản vững vàng về tư tưởng - chính trị và nghiệp vụ, có năng lực
hoạt động thích ứng với thời kỳ mới nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động
của hệ thống thông tin đại chúng. Đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật
chất - kỹ thuật của báo Cần Thơ theo hướng hiện đại. Phát triển, mở rộng
việc sử dụng mạng Internet, đồng thời có biện pháp hạn chế tác dụng tiêu cực
của thông tin mạng, ngăn chặn có hiệu quả hành vi lợi dung thông tin mạng
truyền bá tư tưởng phản động, lối sống trái đạo lý, phản tiến bộ.
Mở rộng và tăng cường hiệu quả hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa.
Đổi mới việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật Cần Thơ và đất
nước, con người Cần Thơ với thế giới. Mở rộng phạm vi, đồng thời chú trọng
nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực báo chí, xuất bản. Sớm hoàn thành việc xây dựng trung tâm văn hóa Tây
Đô, trung tâm dịch thuật - quảng bá văn hóa Cần Thơ ở nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa, giới thiệu các
tác phẩm văn học, nghệ thuật xuất sắc của nước ngoài với công chúng Cần
193
Thơ, nhằm góp phần tăng cường hiểu biết và bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ
lành mạnh cho công chúng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Chủ động phối hợp với các đối tác nước ngoài tổ chức các hoạt động
văn hóa, văn học nghệ thuật quốc tế tại Cần Thơ, từng bước khẳng định Cần
Thơ là địa chỉ giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa.
Xây dựng cơ chế, chế tài để ngăn chặn, đẩy lùi sự xâm nhập của các
sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động từ nước ngoài vào Cần Thơ, bồi dưỡng
và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ đối với các sản
phẩm trên.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần
Thơ đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: nền kinh tế duy trì
được tốc độ tăng trưởng khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, huy
động vốn đầu tư xã hội có nhiều tiến bộ, nhiều công trình kinh tế - xã hội quan
trọng được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, bộ mặt đô thị cả nội thành và
ngoại thành thay đổi nhanh chóng. Văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực, an
sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, công
tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả khá tốt.
Tuy nhiên chất lượng, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải
thiện nhiều, quá trình phát triển còn tiềm ẩn nhân tố chưa bền vững, chưa tương
xứng với tiềm năng, thế mạnh thành phố. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực,
nhưng công nghiệp còn nhỏ lẻ, chưa có doanh nghiệp lớn; các loại hình dịch vụ
chất lượng cao còn hạn chế; sản xuất nông nghiệp còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá
cả không ổn định, đời sống của một bộ phận nông dân vẫn còn nhiều khó khăn.
Phát triển văn hóa - xã hội chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân lao động
còn nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo chưa thực sự vững chắc, nhiều vấn đề
xã hội bức xúc phát sinh quá trình đô thị hóa chưa được giải quyết triệt để. Công
194
tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào cuộc sống còn hạn chế, hiệu
quả chưa cao. Chất lượng giáo dục, cả về văn hóa, chính trị, hướng nghiệp chưa
đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực. Đời sống văn hóa cơ sở yếu kém, thiếu chiều
sâu, chậm triển khai vận động thực hiện tiêu chí về người Cần Thơ theo tinh
thần Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó, Đảng bộ thành phố Cần Thơ
cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp nêu trên, có
như vậy văn hóa mới phát triển tương xứng với tăng trưởng kinh tế để thành phố
Cần Thơ phát triển nhanh và bền vững, sớm trở thành trung tâm động lực phát
triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
195
KẾT LUẬN CHUNG
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội và giữa con
người với con người. Văn hóa là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần,
cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự
tiến bộ của loài người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Văn hóa, đó là thuộc tính bản chất, tộc loài của con người với các chức
năng: giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định chuẩn mực của hành
vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song, cốt lõi trong các chức năng
của những giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức.
Chính vì vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội nên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng khẳng
định:“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [29, 110] và Nghị quyết hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã xác định: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội… Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là
một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì
thận trọng” [29, 55 - 58].
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, kinh tế không thể tự
mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, văn hóa không phải là sản phẩm thụ
động, sản phẩm tự nhiên của kinh tế, mà là cội nguồn của sự tăng trưởng kinh
tế, là “nguồn lực nội sinh” của phát triển kinh tế. Đồng thời, phát triển văn hóa,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, “giải quyết tốt sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa”
chính là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển lâu bền, phát triển vì mục tiêu nhân
văn, vì giá trị nhân đạo.
196
Ý thức được tầm quan trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa nên trong những năm qua
Cần Thơ luôn thể hiện nhất quán quan điểm: hiện đại bắt nguồn từ truyền thống,
lấy truyền thống làm nền tảng trên cơ sở chắt lọc, kế thừa và phát triển truyền
thống; đồng thời không phủ định sạch trơn truyền thống, truyền thống văn hóa ở
Cần Thơ được bảo tồn, phát triển nâng cao sinh động, phong phú qua tính hiện
đại. Nhờ vậy, mà thành phố Cần Thơ đã thu được những thành tựu và những
kinh nghiệm của quá trình đổi mới nói chung và lĩnh vực phát triển văn hóa - xã
hội nói riêng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hóa mới được tạo dựng, quá
trình đổi mới tư duy về văn hóa, xã hội, xây dựng con người và nguồn nhân lực
có bước phát triển mới. Môi trường văn hóa xã hội có những thuận lợi cho việc
phát huy nguồn nhân lực văn hóa, xã hội để xây dựng đất nước. Tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Cần Thơ ổn định tạo
điều kiện cơ bản cho phát triển thành phố. Kinh tế tăng trưởng liên tục, xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế mở ra triển vọng mới cho sự phát triển kinh tế tạo tiền
đề giải quyết các vấn đề xã hội và văn hóa.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đối với sự phát triển văn
hóa ở Cần Thơ trong thời gian tới. Đó là: sự phát triển không cân đối giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, vì vậy sự phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố Cần Thơ chưa nhanh và bền vững.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập
trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Cần Thơ đương đại, việc tiếp tục
đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống
văn hóa Cần Thơ và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự
phát triển của thời đại còn hạn chế. Cần Thơ còn thiếu chính sách hợp lý để bảo
tồn, phát triển văn hóa dân tộc và biện pháp kiên quyết ngăn chặn những loại
hình văn hóa không lành mạnh xâm nhập vào Cần Thơ.
Cần Thơ còn thiếu các thiết chế văn hóa, nhất là cấp quận, huyện để nhân
dân sinh hoạt văn hóa và vui chơi. Do đó, hoạt động văn hóa ở một số huyện có
197
đông đồng bào theo đạo bị hoạt động tôn giáo lấn át, các tệ nạn xã hội nảy sinh
và phát triển.
Để khắc phục những thách thức, khó khăn nêu trên, Cần Thơ phải có sự
đầu tư mạnh mẽ cho lĩnh vực văn hóa, sự tăng tốc trong công tác quản lý, điều
hành; đặc biệt là cần có sự quan tâm của cấp lãnh đạo và sự phối hợp có hiệu
quả với các ngành chức năng. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn
hóa, trong đó tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành
mạnh trong cơ quan, nơi công cộng, cộng đồng dân cư, gia đình và mỗi cá nhân.
Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, chú trọng chất lượng các mô hình văn hóa; đánh giá chặt chẽ và đúng thực
chất danh hiệu gia đình văn hóa, khu vực văn hóa, phường văn hóa, xã văn hóa.
Kế thừa và phát huy giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, xây dựng con
người Cần Thơ “Trí tuệ - năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh lịch”19. Làm tốt
công tác bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống cách mạng, nhằm tuyên truyền,
giáo dục cho thế hệ trẻ lòng tự hào dân tộc. Tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho
văn hóa, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa. Huy động các
nguồn lực, trí tuệ và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công
trình, thiết chế văn hóa. Khuyến khích và tạo điều kiện cho đội ngũ văn nghệ sĩ
sáng tạo các tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng, nghệ
thuật cao. Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, kiên quyết ngăn
chặn, đấu tranh đẩy lùi sự suy thoái về văn hóa, tư tưởng, chính trị, đạo đức lối
sống và các biểu hiện phản văn hóa trong đời sống xã hội.
Những nhiệm vụ đó chỉ có thể thực hiện thành công khi lãnh đạo thành
phố Cần Thơ biết khơi dậy tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm
năng sáng tạo này không ở đâu khác, nó nằm trong văn hóa, trong sự hiểu biết,
trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu và trình độ thẩm mỹ của mỗi con người
và của cả cộng đồng dân tộc Việt, Khmer, Hoa ở Cần Thơ.
19. Nghị quyết 45-CT/TW của Bộ Chính “Về xây dựng và phát triển Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”.
198
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Tp.Hồ Chí Minh.
3. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hoá.
6. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức.
7. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Vĩnh Long (2001), Tìm hiểu văn hóa Vĩnh
Long , Nxb. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
8. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ - thực
trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Văn Bính (2004 - Chủ biên), Toàn cầu hóa và quyền công dân
ở Việt Nam nhìn từ khía cạnh văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp.
11. Bộ Giáo dục và đào tạo (2003), Triết học 3 tập (Dùng cho Cao học và
nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. C.Mác và Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
13. C.Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
14. C.Mác và Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
199
15. Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
16. Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 2002), Văn hóa các
dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Mạnh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam,
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
18. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (Đồng
chủ biên), (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Lý luận và
thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Vấn đề khai thác các giá trị truyền
thống vì mục tiêu phát triển, www.chungta.com.
20. Đoàn Văn Chức (2004), Văn hóa học, Nxb. Lao Động, Hà Nội.
21. Cù Huy Chữ (1997), Kế thừa giá trị truyền thống văn hóa dân tộc
trong việc xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Nxb. Văn
hoá - Thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Dân (2006), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Lê Duẩn (1977), Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới Xã hội
chủ nghĩa, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
24. Thành Duy (2006), Bản sắc văn hóa và hiện đại hóa văn hóa Việt
Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Thành Duy, 2004), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đại học quốc gia Tp.Hồ Chí Minh - Trường đại học khoa học xã hội và
nhân văn - Trung tâm nghiên cứu phát triển đô thị và cộng đồng (2004),Văn hóa
truyền thống trong phát triển đô thị, Nxb. Đại học quốc gia Tp.Hồ Chí Minh.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
200
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các Nghị quyết của Trung ương
Đảng 1996 – 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
34. Encyclopcdie (1989), Từ điển Bách khoa toàn thư Pháp, Paris.
35. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ
thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám. Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại
của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, 3 tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. John Lê Văn Hóa (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong
tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb. Hà Nội.
37. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Văn hóa xã hội
chủ nghĩa (2000), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Huyên (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực của sự
phát triển xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc giá, Hà Nội.
40. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hóa Việt Nam, tập 3, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
41. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 24, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva.
42. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva.
201
43. Phan Huy Lê (1996), Truyền thống và hiện đại - Vài suy nghĩ và đề
xuất, Tạp chí Cộng sản, số 18.
44. C.Mác và Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Huỳnh Minh (1966), Cần Thơ xưa và nay, Nhà in Hạnh Phúc, Gia Định.
58. Đỗ Mười (1993), Thể hiện khát vọng của nhân dân về Chân - Thiện
- Mỹ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
59. Rasun Gamzatov - Daghestan của tôi (1984), bản dịch tiếng Việt,
Nxb. Cầu Vồng, Mát-xcơ-va.
60. Nguyễn Xuân Nam (1998), Văn hóa vì sự phát triển, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
61. Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh (2000), Phác
thảo chân dung văn hóa Việt Nam (Đề tài mã số 3.37 (V), Nxb. Chính trị
quốc gia, HN.
62. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
63. Người đưa tin UNESCO, số 9/1997.
202
64. Bùi Đình Phong (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền
văn hóa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
65. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2005), Đại
cương lịch sử Việt Nam, toàn tập, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
66. Nguyễn Văn Quán (2006), Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam,
Nxb. Lao Động, Hà Nội.
67. Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
68. Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1994), Bộ Văn hóa thông tin
và Thể thao xuất bản, Hà Nội.
69. Trần Ngọc Thêm (1989), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
70. Nguyễn Chí Tình (2009), Văn hóa và thời đại, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
71. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân tỉnh Cần Thơ (2002), Địa chí Cần Thơ.
72. Trường Đại học KHXH&NV TP.Hồ Chí Minh, Viện KHXH tại
TP.Hồ Chí Minh, Bảo tàng lịch sử Việt Nam TP.Hồ Chí Minh (1999), Bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Vai trò của nghiên cứu và giáo dục, Nxb.
TP.Hồ Chí Minh.
73. Trần Diễm Thúy (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
74. GS.VS Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong
văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. GS. Lương Duy Thứ (Chủ biên), Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền
(1998), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb. Giáo Dục.
76. Từ điển triết học (1986), Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
77. Từ điển chính trị vắn tắt (1988), Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
78. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Nxb. Từ điển Bách khoa Hà Nội.
203
79. Viện khoa học xã hội vùng Nam bộ, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ,
Thành uỷ - Uỷ ban nhân dân Tp. Cần Thơ, (2005), Đồng bằng sông Cửu
Long hội nhập và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm
Mỹ Dung, Trần Thúy Anh (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.
204
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Dựa (2008), Văn hóa Cần Thơ và vai trò của nó đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội, Luận văn thạc sĩ Triết học.
2. PGS.TS. Trịnh Doãn Chính, Nguyễn Văn Dựa (2006), Một số vấn đề chính
sách dân tộc đối với đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, Kỷ yếu Hội thảo
đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm
phát triển kinh tế, giai đoạn 2006-2010. Trường đại học KHXH&NV thuộc Đại học
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 202-212, Nxb. Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh.
3. PGS.TS. Doãn Chính, ThS. Nguyễn Văn Dựa (2009), Về giải pháp xóa
đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam bộ, Tạp chí Khoa học
Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính
trị - Hành chính khu vực II, tr. 31-37.
4. Nguyễn Văn Dựa (2010), Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, Tạp chí Khoa học xã hội, số 5 (141),
tr. 8, 9, 10, 11, 12, 21 .
5. Nguyễn Văn Dựa (2008), 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa VII) về công tác thanh niên ở tỉnh Vĩnh Long, Tạp chí Văn phòng cấp ủy, Văn
phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 6 (3/2008), tr. 24-25.
6. Nguyễn Văn Dựa (2009), Thực trạng công tác thủy lợi vùng đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2006-2010 và định hướng 2020, Tạp chí Văn phòng
cấp ủy, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 16-17 (1-2/2009),
tr. 57-59.
7. Nguyễn Văn Dựa (2010), Những tiến bộ của công tác phụ nữ ở thành phố
Cần Thơ và một số vấn đề cần tập trung giải quyết, Tạp chí Văn phòng cấp ủy, Văn
phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 36 (9/2010), tr. 36, 37, 38, 46.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thvnu0065.pdf