Luận án Thạch Lam với Tự lực văn đoàn

Văn chương Thạch Lam, ngày càng phát lộ những giá trị to lớn, mãi mãi sẽ là những di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Việc giữ gìn và phát huy những thành quả đó trong các sáng tác của Thạch Lam nói riêng, của văn học trước 1945 nói chung là hết sức cần thiết và phải luôn đặt trong tính liên tục của lịch sử để nghiên cứu; mọi giá trị đều được chắt lọc, thử thách và khẳng định từ đó.

doc198 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p, giết người… không có cái nào mạnh đến thắng đoạt cả cái khác, nhưng tất cả các tâm hồn khác nhau ấy hoà hợp, sôi réo lấy nhau để tạo nên lòng say sưa cái Tuyệt Mỹ, Tuyệt Thiện, lòng ham mê sự sáng tác khiến nghệ sĩ ngang hàng cả với trời [107,318]. Nói tóm lại, tâm hồn nghệ sĩ là sự thu nhận và ngân vang của mọi tâm hồn, là người sống và thấu hiểu mọi cảnh đời, kiếp người. Nếu chỉ thu về trong hai tính cách là "trong sạch" và "cao thượng" thì đó là sự lầm lẫn lớn, họ chỉ có thể là "người hiền lành, hay một người quân tử, nhưng không bao giờ là một nghệ sĩ". Từ đó Thạch Lam nêu lên luận điểm: "Người ta sinh ra là nghệ sĩ hay không, chứ không có thể học tập mà thành được", và ông khẳng định vai trò của trực giác: "muốn cố sức tìm hiểu thế nào cũng không bằng cái "trực giác" nhiệm mầu của tâm hồn nghệ sĩ"(Câu chuyện bên gốc liễu hay Tâm hồn người nghệ sĩ ). Những nội dung này, đương thời cũng có một số nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu đề cập với từng cấp độ và thái độ tiếp nhận khác nhau nhưng chưa mấy ai đoan chắc, mạnh mẽ như Thạch Lam. Những luận điểm đó đến nay không còn bị phản đối như trước, và ngày càng được xem xét nhìn nhận một cách bình tĩnh, khoa học, chứng tỏ nhãn quan cùng "trực giác" của Thạch Lam hơn nửa thế kỉ trước rất mạnh mẽ, sâu sắc. Đồng thời có thể Thạch Lam đã đề cao quá mức, tôn sùng đến tuyệt đối tư chất người nghệ sĩ khi ông cho rằng: "Họ là những cái sinh sản bất ngờ, những cái đột nhiên, kì dị và ghê gớm của vũ trụ" [107,319]; nhưng cũng rất đúng khi ông khẳng định: "Các nghệ sĩ chân chính bao giờ cũng rất hiếm. Tìm được đích đáng và tìm được nhiều đó là danh dự của cả một thời, cả một dân tộc"[107,319]. Như vậy, với một số bài viết rất tâm huyết và sáng tạo, Thạch Lam đã luận bàn những vấn đề rất cơ bản đang là điểm nóng, nhạy cảm của phê bình, lí luận văn học về sự bền vững của một tác phẩm, người nhà quê trong văn chương, những nội dung bức thiết đối với nhà văn - người nghệ sĩ cũng như văn chương hiện thời và tương lai, nhất là những quan niệm mới mẻ về tâm hồn người nghệ sĩ. 3.2.3. Tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam về tiểu thuyết. Bàn luận về tiểu thuyết, một thể loại chủ công của văn học hiện đại đã có nhiều ý kiến của nhiều nhà văn, nhà phê bình trên các sách báo và công trình nghiên cứu. Trong Tự lực văn đoàn , các nhà văn chủ chốt như Nhất Linh, Khái Hưng qua Lời giới thiệu các tập tiểu thuyết đã thể hiện rõ quan niệm của mình. Riêng Thạch Lam, trong tiểu luận Theo dòng, đã dành hẳn 5/14 bài để bàn về các vấn đề của tiểu thuyết. Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu phân tích, nhận xét, đánh giá, nội dung các bài này. Chúng tôi chỉ trình bày thêm một số nội dung cần thiết. Đó là những quan niệm nghệ thuật mới mẻ, những đóng góp của Thạch Lam về lí luận, phê bình, cụ thể: Quan niệm thế nào là tiểu thuyết? Thạch Lam đã điểm lại các định nghĩa, quan niệm của các trường phái tiểu thuyết nổi tiếng thế giới. Ông khảo từ Tự vị Larousse đến quan niệm của các nhà tiểu thuyết Pháp, ý, Nga, Mỹ, Anh và phát biểu chủ kiến riêng của mình. Nhìn chung, Thạch Lam đồng tình với quan niệm của các tiểu thuyết gia Anh, Nga: tiểu thuyết là sự sống. Theo Thạch Lam, tiểu thuyết "cần phải linh hoạt và phức tạp như cuộc đời, như sự sống, mà sự sống thì không có khuôn phép gì nhất định" (Sự sống trong tiểu thuyết). "Tiểu thuyết bao giờ cũng là sáng tác của trí tưởng tượng một câu chuyện xếp đặt, nhưng với đời sống bên trong một ngày một mạnh mẽ hơn, người đọc muốn rằng câu chuyện xếp đặt đó phải hợp với lẽ phải và xúc động đến tình cảm của mình" (Quan niệm trong tiểu thuyết). Cốt lõi của tiểu thuyết theo quan niệm của Thạch Lam là cái "đời sống bên trong" này. Vì thế ông đòi hỏi cần phải thay đổi nhận thức và một số yếu tố cơ bản của tiểu thuyết. Về nhân vật tiểu thuyết: trong nhiều bài viết, Thạch Lam rất phản đối loại "nhân vật hoàn toàn" "vai chính hoàn toàn". Ông cho rằng: "Trước hết, các quan niệm "vai chính hoàn toàn" của tiểu thuyết là sai lầm". Bởi vì Cái hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu không có ở trên đời, đó là một điều ai cũng biết: người ta là một động vật rất phiền phức. Tâm hồn người ta không giản dị như một biểu hiện và bao giờ cũng có một phần bí mật. Một người rất tốt có thể có những lúc giận dữ, tàn ác như một người ác có thể có những lúc hiền hậu, nhân từ. Người ta là người với những sự cao quý và hèn hạ của người (Quan niệm trong tiểu thuyết). Do vậy ông không chấp nhận lối xây dựng nhân vật công thức một chiều có thể làm người ta "phục" mà không "yêu" "chính vì một nhân vật hoàn toàn là một nhân vật không thực, một nhân vật được đặt bởi tác giả và vì thế không linh động chút nào" (Một vài ý nghĩ...). Nhân vật tiểu thuyết hiện đại phải là những nhân vật thật và hoạt động. Nhà văn phải là những nghệ sỹ có tâm hồn phong phú, có tình cảm dồi dào, phải biết và diễn tả được cả cái phần "vô giác" trong sự sống của con người như Freud từng quan niệm. Thạch Lam nói rõ: "Nhà nghệ sĩ giỏi là nhà nghệ sĩ tạo ra những nhân vật thật và hoạt động, ngoài những tính cách và đặc điểm của cái địa vị xã hội, tìm đến được cái bí mật không tả được trong mỗi con người" (Quan niệm trong tiểu thuyết). ông yêu cầu "phải làm sống lại trong tiểu thuyết cái không khí bao bọc lấy vai chính", nhưng không phải theo những lối cũ sáo mòn hay nô lệ lối viết của tiểu thuyết truyền thống, mà theo một cách thức mới: "phải bày tỏ bằng những hành động cái tâm lý của các nhân vật". Ông quan tâm và nhấn mạnh vai trò của quan sát - một thao tác quan trọng của tiểu thuyết hiện đại. Đó là một phương diện thể hiện cái tài của nghệ sĩ, phải biết quan sát đúng, chú ý từng chi tiết nhỏ, cụ thể: " Những cái mà ta thường coi là nhỏ nhặt, vụn vặt hay tỉ mỉ chính lại là những cốt yếu của tiểu thuyết hay" (Quan niệm trong tiểu thuyết). Thạch Lam luôn trở đi, trở lại nhấn mạnh việc miêu tả con người ở tất cả các phương diện cuộc sống, đặc biệt là thế giới bên trong, thế giới nội tâm và yêu cầu cần phải có "con mắt linh hồn" mới "soi thấu được cái bí mật của tâm lý". Đó là một bước tiến của trình độ tư duy nghệ thuật, nhất là tư duy tiểu thuyết. Như vậy, về nhân vật tiểu thuyết, Thạch Lam là một trong những người phát hiện ra đặc điểm: nội dung nhân vật không trùng khớp với địa vị xã hội và tính cách xã hội của nhân vật, mà rộng hơn, phong phú, phức tạp, đa diện hơn nhiều. Nhân vật của tiểu thuyết hiện đại không chỉ có một hai nhân vật chính mà có rất nhiều nhân vật, nhân vật nào cũng cần được coi trọng cả. Mỗi nhân vật là một phần bức tranh cuộc sống, biểu hiện một phương diện của sự sống - "mà nói đến sự sống tức là nói đến sự đổi thay (…) cuộc sống cũng luân chuyển như dòng sông chảy mãi không ngừng" (Một vài ý nghĩ...). Ông là người sớm tiếp nhận và ca ngợi tài năng của Đotstoiepski, coi Đotstoiepski là nhà văn lớn nhất của thời đại, và toàn cầu. ở đánh giá đó, ta thấy Thạch Lam đã vươn tới một tầm nhìn hiện đại. Quan niệm về chức năng tiểu thuyết và người đọc tiểu thuyết. Có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về chức năng tiểu thuyết, tuỳ thuộc vào quan điểm của các trường phái, các nhà nghiên cứu lý luận phê bình. Thạch Lam cho rằng: giải trí là chức năng trực tiếp. Thoát ly, vừa như là một nhu cầu của người đọc vừa có tư cách như một chức năng. Nhưng ông cũng xác định: "Giới hạn cái lợi ích của tiểu thuyết ở giải trí và thoát ly là làm hẹp đi cái ảnh hưởng của tiểu thuyết nhiều lắm. Tiểu thuyết có một lợi ích khác rất lớn, và theo ý tôi, quan trọng nhất: tiểu thuyết dạy ta biết sống, nghĩa là dạy ta biết sung sướng" (Tiểu thuyết để làm gì?). Như thế ông đã nhấn mạnh chức năng giáo dục và thẩm mỹ của văn học, thể hiện cụ thể trong tiểu thuyết, xem đây là một nguồn bổ sung cho cuộc sống, làm cho chúng ta "sống đầy đủ hơn", "chúng ta là người một cách hoàn toàn hơn". Giá trị của một tác phẩm tiểu thuyết nói riêng, của cả thể loại nói chung là "sẽ làm cho chúng ta yêu, ham muốn yêu, không phải là yêu một người, nhưng yêu mọi người; không phải yêu một vật, nhưng yêu mọi vật" (Tiểu thuyết để làm gì?). "Nó giúp ta biết sống, rút lại là biết cách sung sướng". Do vậy tiểu thuyết sẽ làm cho tâm hồn chúng ta phong phú hơn, dồi dào, đẹp đẽ hơn. Đây là một quan niệm rất gần gũi và được giới nghiên cứu cũng như bạn đọc các thời kỳ đồng cảm, thừa nhận. ở đây Thạch Lam dường như có dụng ý dùng ngọn roi phê bình quất mạnh vào tầng lớp người ít quan tâm đến văn chương, đời sống của họ "tẻ ngắt, khô khan phẳng lặng như mặt ao tù". Ông nói: "Nếu chỉ ăn với ngủ , với chơi thì cái đời sống đó chẳng có gì đáng quý; cái đời sống cần là cái đời sống bên trong, cái đời sống của tâm hồn" (Tiểu thuyết để làm gì?). Cái tâm lý an phận với đời sống tinh thần "nghèo nàn" và "rất bạc nhược", "chẳng dám yêu cái gì tha thiết mà cũng chẳng dám ghét cái gì tha thiết" đang làm cằn cỗi, tha hoá đời sống dân tộc. Vì thế vai trò của nhà văn và tác phẩm tiểu thuyết đang rất cần thiết làm tốt các chức năng đã nêu để củng cố và "giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn"như Thạch Lam tâm niệm. Chỗ đứng người đọc tiểu thuyết, trước hết Thạch Lam xác định: Mỗi thể loại văn học có cách thức tiếp nhận riêng, có công chúng độc giả riêng. Tiểu thuyết là để xem, để tự mình đọc và suy nghĩ, thưởng thức chứ không phải đọc cho nhau nghe như các thể loại khác (chẳng hạn thơ, kịch). "Người đọc tiểu thuyết là một người đọc yên lặng, hay nghĩ ngợi, suy xét và tìm trong tâm lý các nhân vật của truyện những tư tưởng và ý nghĩ của chính mình" (Vài ý kiến về tiểu thuyết). Ông có ý thức đi sâu tìm hiểu đời sống thể loại tiểu thuyết và chỉ ra nguyên nhân tiểu thuyết được xuất bản nhiều, có công chúng độc giả đông đảo là do "sự nảy nở của đời sống trong tâm hồn riêng của từng người". "Khi người ta bắt đầu có một cuộc sống bên trong, hay tìm xét những trạng thái của tâm hồn mình, người ta thích đọc tiểu thuyết. Trái lại, tiểu thuyết lại giúp cho đời sống bên trong được dồi dào, sâu sắc thêm" (Vài ý kiến về tiểu thuyết). Mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - người đọc được xác lập tạo bước phát triển mạnh mẽ cho văn học và thể loại tiểu thuyết. Nó thuận chiều hay có khúc mắc đều ảnh hưởng rất lớn đến đời sống (bao gồm đời sống văn học, xã hội và nhà văn). Do vậy, Thạch Lam rất quan tâm vấn đề độc giả, cụ thể là người đọc tiểu thuyết. Ông quy về hai hạng độc giả. Hạng thứ nhất là những độc giả "chỉ cốt xem truyện", hạng này chỉ thích cốt truyện ly kì, rắc rối, họ "ngốn tiểu thuyết như người ăn cơm lấy no, và khi đọc xong không có cảm tưởng gì cả" (Những người đọc tiểu thuyết). Số lượng độc giả này rất đông, nhưng không phải chỉ có phụ nữ mặc dù họ chiếm phần nhiều mà còn cả đàn ông "có học thức hẳn hoi". Họ không thể nhận được câu văn hay, tư tưởng thâm thuý hoặc phân tích được chỗ hay dở của một cuốn tiểu thuyết - và họ cũng không có nhu cầu phân tích, họ chỉ "ưa thích các nhân vật có hành động cao thượng hay bí mật". Đương thời, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết kiếm hiệp của Tây, của Tàu, của ta rất được ưa thích. Thạch Lam lý giải, chỉ ra cơ sở tâm lý là "tiểu thuyết kiếm hiệp làm thoả một cái nhu cầu tâm lý những người bị một sự hèn kém đè nén (…) bởi thế chúng ta đi tìm an ủi trong những cái tưởng tượng huyền diệu dù rằng rất vô lý" (Những người đọc tiểu thuyết). Trong các loại tiểu thuyết đáp ứng nhu cầu số đông người đọc này, Thạch Lam phản đối loại kiếm hiệp, ủng hộ về loại trinh thám, và du ký, dù rằng nó là "văn chương thoát ly". Bởi vì loại này "kích thích rất mạnh mẽ trí tưởng tượng của người đọc và khiến họ quên trong chốc lát cuộc đời buồn nản hàng ngày". Hơn thế còn làm "nảy nở trong người đọc lòng ham thích du lịch và sự thực", khiến người đọc ước mong những cảnh trời xa lạ bên ngoài". (Những người đọc tiểu thuyết). Hạng độc giả thứ hai là những người "thích suy nghĩ, thích tìm trong sách những trạng thái tâm lý giống tâm hồn mình". "Là những người không lười trí, họ ưa suy nghĩ, tư tưởng và tìm tòi. Họ thờ phụng và theo đuổi cái đẹp, cái hoàn toàn. Họ biết thưởng thức một câu văn hay, một ý tưởng sâu sắc và cảm thấy một cái thú vô song khi sắp bước vào tâm hồn của một nhân vật nào". Đây là hạng độc giả lý tưởng của văn chương, nhưng là rất hiếm. Thạch Lam quan niệm hành động đọc của hạng độc giả này là "một cách luyện mình để cho tâm hồn phong phú hơn lên"; điều họ quan tâm là văn chương nghệ thuật "cốt chú ý cách diễn tả tâm lý của tác giả, có đúng hay không đúng, hời hợt hay sâu sắc" (107 - 293). Để có được nhiều độc giả hạng này là một sự phấn đấu lớn để nâng trình độ văn chương học thuật của cả người sáng tác và người đọc. Bởi họ là "thước đo trình độ văn chương. Họ có nhiều tức là văn chương phong phú và giá trị. Họ là tri kỷ thân yêu của các nhà văn chân chính và khiến những tác phẩm xuất sắc không phải mai một trong quên lãng" (Những người đọc tiểu thuyết). Như vậy, Thạch Lam đã nhìn nhận rất sâu, phân tích rất biện chứng tình hình văn chương và người đọc tiểu thuyết. Cách đánh giá, nhận xét của ông rất có chừng mực và đúng đắn, không hề cực đoan khi nhìn vào thực tế này. Ông chỉ nói, đối với tiểu thuyết và người đọc tiểu thuyết hạng thứ nhất, nhà văn "đáng lẽ bắt buộc độc giả phải theo mình, thì lại đi theo chiều độc giả - sản xuất ra những tiểu thuyết cầu kỳ và theo thời". Nói như thế là ông muốn có một đời sống văn chương cao hơn, văn hoá hơn, chứ không phê phán gay gắt, vì ông cũng là người rất am hiểu quy luật cung cầu, cạnh tranh khốc liệt trong thị trường xã hội hiện thời, bên cái gì cần chấp nhận và cái gì cần phải phấn đấu hướng tới. Từ việc xác định chức năng của tiểu thuyết, mối quan hệ hữu cơ giữa nhà văn-tác phẩm và người đọc, Thạch Lam đề xuất một số định hướng đối với người viết tiểu thuyết. Theo ông "trong người ta cái tốt và cái xấu lẫn lộn mà cái thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác, là phải nâng đỡ những cái tốt, để trong đời có nhiều công bằng, nhiều yêu thương hơn" (Quan niệm trong tiểu thuyết). Muốn vậy, yêu cầu đầu tiên có tính chất "then chốt" của nghệ sĩ là "sự thành thực", "phải để hết nỗi rung động trong tác phẩm đó", "cái thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn". Nhưng tâm hồn phong phú, tình cảm dồi dào và những rung động thành thực đó phải gắn với dân tộc, với đất nước con người Việt Nam, phải là tâm hồn của nghệ sĩ Việt Nam. Cách đây trên 60 năm Thạch Lam đã lớn tiếng công khai trên văn đàn: "chúng ta không cần bắt chước ai (…), chúng ta cứ việc diễn tả cái tâm hồn An Nam của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ mà chúng ta ấp ủ cả trong thâm tâm. Chúng ta chỉ có thể bằng các nhà văn ngoại quốc, khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn của chúng ta mà thôi" (Vài ý kiến về tiểu thuyết). Nhà văn phải có cái tinh thần độc lập sáng tạo, muốn phát triển phải biết tiếp thu các luồng văn hoá và thậm chí phải chịu ảnh hưởng sâu sắc nhưng không được đánh mất mình, chạy theo cái ngoại nhập, thiếu trung thực. Phải có "cái can đảm, mình dám là mình". Và như thế, nhà văn phải "bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp đẽ, đi tìm cái giản dị, cái sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động đúng, đó là công việc các nghệ sĩ phải làm. Chúng ta cứ là chúng ta với cái tâm hồn và bản ngã thật của chúng ta". (Quan niệm trong tiểu thuyết). Đó cũng chính là tư tưởng nghệ thuật, là bản lĩnh vững chắc, là nhân cách nghệ sĩ lớn Thạch Lam mà người đọc tiếp cận được trong suốt tập tiểu luận Theo dòng. 3.3. "Theo dòng" có vị trí xứng đáng trong văn nghiệp Thạch Lam, Tự lực văn đoàn và văn học Việt Nam hiện đại. 3.3.1. "Theo dòng" trong văn nghiệp Thạch Lam Cuộc đời cầm bút của Thạch Lam ngắn ngủi, không đầy 10 năm, chủ yếu nở rộ trong khoảng dăm năm (1936- 1940), nhưng đã để lại một di sản quý báu mà qua thẩm định của thời gian càng ngày càng sáng rõ. Di sản đó bao gồm truyện ngắn, tiểu luận, tiểu thuyết, ký. Có thể nói, tất cả những gì Thạch Lam viết ra đều được chắt lọc từ những gì là máu thịt của mình để đóng góp cho đời, và vì một nền văn nghệ dân tộc, hiện đại. Do vậy, tiểu luận Theo dòng là một bộ phận gắn bó hữu cơ trong văn nghiệp Thạch Lam. Nó giúp ông tạo đối trọng, cân bằng giữa sáng tác và lý luận phê bình. Điều đó không phải ai cũng làm được một cách hài hoà như Thạch Lam. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là dường như những gì ông chưa nói rõ được trong sáng tác thì ông muốn bộc lộ trực tiếp trong phê bình. Và ông bộc lộ khá thẳng thắn, nghiêm túc (thêm đôi chút hài hước nhưng rất văn hoá), trình bày theo cách thức riêng của ông (như chúng tôi đã nói ở phần đầu 3.1). Nội dung hệ thống quan niệm nghệ thuật Thạch Lam trong tập Theo dòng đã minh chứng điều đó. Những tư tưởng và quan điểm nghệ thuật được trình bày trong tập tiểu luận này, đối với Thạch Lam là một sự tự nhận thức và soi chiếu cho hoạt động sáng tác của mình. Tuy nhiên giữa lý luận và thực tế bao giờ cũng có khoảng cách nhất định, có thể loại truyện ngắn, ký, ông đã viết rất xuất sắc nhưng tiểu thuyết còn phải bàn luận và thậm chí phải chờ thẩm định của thời gian. Điều cần khẳng định, Thạch Lam đã cơ bản thực hiện thành công những gì ông tâm niệm với cốt lõi là cảm xúc tâm hồn nghệ sĩ lấy giá trị nhân bản làm mục tiêu hướng tới. 3.3.2 "Theo dòng" trong văn nghiệp Tự lực văn đoàn. Đối với Tự lực văn đoàn, Theo dòng là một sự bổ sung có ý nghĩa to lớn. Bởi trên diện mạo văn chương của tổ chức này đã hội đủ các anh tài văn học, các thể loại đều có các cây bút xuất sắc và đạt thành tựu lớn. Phê bình, lý luận cũng đã có nhiều người viết (Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam), nhưng sắp xếp, hệ thống và in thành sách thì đây là tập đầu tiên. Tập sách đã góp phần hoàn thiện diện mạo Tự lực văn đoàn cả về hình thức thể loại và nội dung, tạo ưu thế và uy thế cho văn đoàn cả về sáng tác và lý luận. Tập tiểu luận này, ngoài ý nghĩa như trên chắc chắn còn có tác động đối với công việc sáng tác của văn đoàn. Tôn chỉ mục đích của văn đoàn là cương lĩnh chung, ở đây Thạch Lam đi sâu vào các vấn đề cơ bản của văn chương và phát biểu thành hệ thống quan niệm nghệ thuật. Trong đó đặc biệt ông tranh luận về những vấn đề đang trở thành hướng viết chính của một số thành viên như tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, Khái Hưng, xu hướng văn chương xu thời không phải không có trong những tác phẩm của văn đoàn (tập trung ở các bài Người nhà quê trong văn chương, Vài ý kiến về tiểu thuyết, Theo dòng, Sự bền vững của một tác phẩm…). Điều đó sẽ có tác động tích cực đối với việc tổng kết lý luận và góp phần nhất định làm tăng hiệu quả cho hoạt động của văn đoàn trên một số phương diện. 3.3.3 "Theo dòng" trong nền lý luận văn học Việt Nam hiện đại. Xét trên phương diện lịch sử, Theo dòng là một trong số những công trình lý luận đầu tiên của nền phê bình lý luận Việt Nam. Trước đó và đồng thời với Thạch Lam đã có ý kiến của Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hoàng Ngọc Phách, Hải Triều, Vũ Bằng…bàn về các vấn đề văn học. Riêng trong giới sáng tác trước 1945, chưa có ai viết tiểu luận tập trung, hệ thống như ở Thạch Lam. Tiểu luận Theo dòng xuất bản đồng thời với một số tập phê bình tiểu luận nổi tiếng khác của một số nhà chuyên khảo, nghiên cứu chuyên nghiệp và được dư luận đánh giá cao. Những luận điểm Thạch Lam nêu ra trong tập tiểu luận ngày càng thể hiện tính chất đúng đắn và một số đã được phát triển thành những nguyên tắc, nguyên lý lý luận văn học. Đó là những yêu cầu về sự chân thực của văn chương, về vai trò trách nhiệm nhà văn, về chức năng văn học, về sức sống bền vững của tác phẩm, về vai trò của người đọc đối với sự phát triển của văn học… Có thể nói "chính ở chỗ này Thạch Lam đã góp phần độc đáo của mình với tư cách là một người sáng tác có bản lĩnh nghệ thuật được thừa nhận làm phong phú tư duy lý luận về văn chương và tiểu thuyết hiện đại nước ta" [196,612]. Tóm lại, tiểu luận Theo dòng mặc dù mỏng mảnh về số trang nhưng chứa đựng nhiều quan niệm, tư tưởng nghệ thuật quan trọng có giá trị to lớn của Thạch Lam, góp phần hoàn thiện diện mạo văn chương Tự lực văn đoàn và đóng góp thiết thực cho nền lý luận phê bình văn học dân tộc thời kỳ hiện đại. Cần quan tâm chú ý hơn nữa những điều Thạch Lam đã trăn trở, mong muốn chân thành từ hơn 60 năm về trước nhằm xây dựng một nền văn chương ngang tầm thời đại, có khả năng hội nhập với nhân loại mà vẫn giữ vững bản sắc dân tộc đậm đà. Phần kết luận Từ những kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên, chúng tôi rút ra các kết luận sau: 1. Trong đời sống dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, trước diễn biến phức tạp, sôi động của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội... văn học đổi mới và phát triển hết sức mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu rực rỡ, đồng thời nảy sinh nhiều yêu cầu mới đòi hỏi cần được đáp ứng. Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, tập hợp được nhiều tài năng, thu được nhiều thành tựu, tạo lập được một ưu thế và uy thế lớn trên văn đàn. Trong tư cách một tổ chức văn học, Tự lực văn đoàn có một sứ mệnh lịch sử to lớn, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của thời đại, góp phần đưa văn học hiện đại Việt Nam gia nhập vào bối cảnh chung của văn học khu vực và thế giới. Đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên chói sáng mà là kết quả của một quá trình vận động của lịch sử dân tộc và văn học dân tộc trên con đường hiện đại hoá.Các thành viên Tự lực văn đoàn, bên cạnh những đóng góp và hạn chế, mỗi người đều có một vai trò, vị trí riêng. 2. Là một thành viên tích cực, quan trọng của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam vừa gắn bó chặt chẽ, tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc, tôn chỉ, mục đích của văn đoàn, vừa tiếp thu những phần tinh tuý trong sáng tác của các thành viên. Đồng thời bằng bản lĩnh nghệ thuật vững vàng, Thạch Lam đã vượt ra ngoài khuôn khổ những quan niệm và ảnh hưởng của những người chủ chốt để khẳng định mình bằng một phong cách nghệ thuật riêng. Điểm nổi bật là: nếu Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo hướng ngòi bút vào những vấn đề mang nặng tính chất luận đề về con người và xã hội với những đóng góp và hạn chế của nó, thì Thạch Lam - người trung thành với quan niệm "văn chương là văn chương" - lại tạo lập cho ngòi bút của mình một khoảng cách đủ để nhìn nhận, chọn hướng viết phù hợp với năng lực, sở trường sáng tạo là khai thác những giá trị đậm đà tính nhân văn, nhân bản trong đời sống dân tộc và văn hoá dân tộc. 3. Khuynh hướng nghệ thuật của Thạch Lam là vừa lãng mạn vừa hiện thực; là đi giữa đôi bờ lãng mạn và hiện thực. Các tác phẩm thuộc các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, tuỳ bút của ông đều rất lãng mạn những không hoàn toàn giống âm hưởng lãng mạn chủ đạo của Tự lực văn đoàn mà ông là một thành viên, cũng không giống khuynh hướng lãng mạn của các nhà văn khác; rất hiện thực nhưng không như khuynh hướng hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... Hiện thực và lãng mạn của Thạch Lam đều thống nhất trong đặc trưng một phong cách nghệ thuật đặc sắc: thiên về cảm xúc, cảm giác, đi vào chiều sâu tâm lý, miêu tả đời sống bên trong con người chủ yếu bằng bút pháp trữ tình. Trong đó, truyện ngắn là thể loại Thạch Lam gặt hái được nhiều thành công nhất. Bằng bút pháp trữ tình đặc sắc, Thạch Lam đã tiếp thu những thành tựu truyện ngắn lãng mạn của các tác giả chủ chốt trong Tự lực văn đoàn là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo để đi sâu vào khuynh hướng tình cảm; diễn tả quá trình phát triển của cái "tôi" cá nhân theo từng cung bậc khác nhau. Đó là một cái "tôi" đi từ những cảm xúc, rung động "khẽ như cánh bướm non" đến một cái "tôi" mạnh bạo quyết liệt, nhưng không cực đoan mà luôn hướng về những giá trị tốt đẹp giàu chất nhân văn. Còn ở những truyện ngắn thiên về khuynh hướng hiện thực lại là sự bổ sung làm cân đối bức tranh cuộc sống, được Thạch Lam phản ánh trên góc nhìn nhân bản. Đó là hiện thực về một cuộc sống gần gũi, diễn ra trong đời sống của nhiều tầng lớp người được nhà văn diễn tả một cách đầy ám ảnh, gợi cảm giác khắc khoải, sâu đậm trong lòng người đọc mọi thế hệ. So với truyện ngắn của các thành viên khác trong Tự lực văn đoàn, truyện ngắn Thạch Lam đã có sự vượt trội về một số mặt và được khẳng định bằng một phong cách riêng, độc đáo: phong cách trữ tình. Những thành công về truyện ngắn của Thạch Lam đã có ảnh hưởng sâu sắc, tạo sức hấp dẫn to lớn, có giá trị mở đầu cho một dòng truyện ngắn trữ tình bao gồm các cây bút tiêu biểu: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh, Đỗ Tốn... Từ văn đoàn Tự lực, Thạch Lam đã phát huy cao độ ảnh hưởng của mình trong truyện ngắn. So sánh cái "tôi" trong truyện ngắn Thạch Lam với cái "tôi" thể hiện trong truyện ngắn của một số tác giả ngoài văn đoàn, tuy có khác nhau về khuynh hướng nhưng vẫn có một số nét tương đồng, kể cả ở những tác giả có phong cách nghệ thuật tưởng rất xa với Thạch Lam như Nguyễn Tuân và Nam Cao. Bên cạnh những thành công về truyện ngắn, các thể loại tiểu thuyết , ký, tiểu luận cũng là những sáng tác nằm trong chỉnh thể hệ thống tư tưởng nghệ thuật của Thạch Lam và ở mức độ nhất định đều có ý nghĩa khai mở một hướng phát triển mới, chứa đựng kỳ vọng lớn của nhà văn. Đó là, tiểu thuyết Ngày mới, tuy chỉ mới là một thử nghiệm đầu tiên về loại tiểu thuyết trữ tình, nhưng có thể nói đó là sự khởi đầu tốt đẹp cho một xu hướng tiểu thuyết đi sâu vào đời sống bên trong của nhân vật. Sau 1940 nhiều nhà văn đã phát triển thiên hướng này thành khuynh hướng tiểu thuyết tâm lý, kết hợp hài hoà giữa tự sự và trữ tình giàu chất suy tư, triết lý. Bên cạnh Bướm trắng của Nhất Linh, Đẹp và Thanh Đức của Khái Hưng, thì Nam Cao là người đạt tới đỉnh cao cho khuynh hướng đó với tiểu thuyết Sống mòn . Với Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam đã có đóng góp quan trọng cho Tự lực văn đoàn ở thể tuỳ bút và là người khơi dòng tuỳ bút về đề tài văn hoá Hà Nội, khởi động cho một hướng sáng tác mới: tìm về vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc mà Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài... là những người kế thừa, phát triển. Đồng thời qua tập tuỳ bút này, Thạch Lam bộc lộ một số quan niệm mới mẻ và sâu sắc về các vấn đề văn hoá, nghệ thuật. Tiểu luận Theo dòng là sự bổ sung cho Tự lực văn đoàn về mảng lý luận. Đó là một hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận văn học được Thạch Lam rút ra từ vốn kiến văn sâu rộng và những chiêm nghiệm của bản thân qua thực tế sáng tác cho đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự. Nó được trình bày dưới một hình thức mới mẻ, hiện đại. Đây cũng có thể xem như một thử nghiệm mới về cách viết tiểu luận cần ghi nhận. 4. Bao trùm trong văn phẩm Thạch Lam là cái Đẹp bình dị, gắn bó với cuộc sống hàng ngày trong đời sống của những con người bình thường. Đó là cái Đẹp luôn hướng về các giá trị nhân văn, đậm đà tính dân tộc, không sa vào các luận đề, có tính thời thượng, không đi sâu vào các xung đột gay cấn, và thống nhất trong cái "Tôi" nhạy cảm, tinh tế của nhà văn. Cái Đẹp là nơi gặp gỡ của những cái "Tôi" nghệ sĩ cùng có chung quan niệm "văn chương là văn chương"; qua cái Đẹp mà cái "Tôi" của các nhà văn tìm được tiếng nói đồng điệu, tri âm, tri kỷ; được thể hiện thành công trong các tác phẩm, nhất là ở truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn của các nhà văn trong và ngoài văn đoàn. Mặt khác, cũng phải thấy: Sở dĩ tác phẩm Thạch Lam có sức sống vững bền hơn tác phẩm của nhiều nhà văn trong văn đoàn, chính vì Thạch Lam biết giữ vững bản lĩnh nghệ thuật, chỉ quan tâm đến loại văn chương nghệ thuật, toàn tâm, toàn ý vì mục đích sáng tạo nghệ thuật, nhưng không cầu kỳ, xa lạ, mà luôn gắn với các giá trị của cái Đẹp trong đời sống bình dị của dân tộc. 5. Tự lực văn đoàn là "mảnh đất ươm" tài năng Thạch Lam, nhưng Thạch Lam cũng góp phần quan trọng làm phì nhiêu mảnh đất đó. Bằng các thành tựu sáng tác đặc sắc, các tác phẩm chứa đựng và kết đọng nhiều giá trị cả về nội dung và nghệ thuật, Thạch Lam đã làm rạng rỡ cho văn đoàn và góp phần hoàn thiện diện mạo văn học Việt Nam hiện đại. 6. Văn chương Thạch Lam, ngày càng phát lộ những giá trị to lớn, mãi mãi sẽ là những di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Việc giữ gìn và phát huy những thành quả đó trong các sáng tác của Thạch Lam nói riêng, của văn học trước 1945 nói chung là hết sức cần thiết và phải luôn đặt trong tính liên tục của lịch sử để nghiên cứu; mọi giá trị đều được chắt lọc, thử thách và khẳng định từ đó. Thư mục tài liệu tham khảo 1. Đào Văn A (1981), Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây, TCVH, số 5. 2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 3. Huỳnh Phan Anh (1972), "Thạch Lam tiểu thuyết gia", TC Giao điểm, số 1, Sài Gòn. 4. Vũ Tuấn Anh (1992), Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, TCVH, số 6 5. Vũ Tuấn Anh (1994), Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 6. Vũ Tuấn Anh (2000), 30 năm đầu thế kỷ: Sự định hình tính chất mới, hệ thống thể loại mới của văn học Việt Nam hiện đại, TCVH, số 12. 7. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2001- chủ biên), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam NXB Giáo dục, Hà Nội. 8. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (2001- chủ biên), Thạch Lam, Về tác giả và tác phẩm NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. Lại Nguyên Ân (1994), "Giải pháp điều hoà xã hội trong văn Thạch Lam". Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 10. Lại Nguyên Ân (1994), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội. 11. Nguyễn Hoa Bằng (1999), Thời gian nghệ thuật truyện ngắn Nam Cao, TCVH, số 11. 12. Nguyễn Hoa Bằng (2000), Thi pháp truyện ngắn Nam cao. Luận án tiến sĩ ngữ văn. 13. Vũ Bằng (1993), 40 năm nói láo, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội - Viện Văn học. 14. Vũ Bằng (2000), Miếng ngon Hà Nội, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 15. Vũ Bằng (2000), Thương nhớ mười hai, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 16. Lưu Văn Bổng (2001), Văn học so sánh thể loại, hình thức, phong cách, TCVH, số 4. 17. Nam Cao (1999), Sống mòn (tái bản), NXB Văn học, Hà Nội. 18. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương Chi (1983), "Gió đầu mùa" - Từ điển văn học. Tập 1, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Nguyễn Huệ Chi (2000), Nhận diện văn học Thăng Long mười thế kỷ, TCVH, số 11. 20. Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội (in lần thứ hai) 21. Trương Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB Thuỵ Ký, Hà Nội. 22. Trương Chính (1988), Vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn - TCVH số 3, số 4. 23. Trương Chính (1989), Hồ DZếnh và tác phẩm chọn lọc - TCVH số 1. 24. Trương Chính (1989), "Tự lực văn đoàn", đặc san báo Giáo viên nhân dân từ 27 đến 31/7/1989, sách Tự lực văn đoàn tiến trình văn học dân tộc, NXB văn hoá thông tin, Hà Nội - 2000. 25. Trương Chính (1990), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, TCVH, số 5. 26. Trương Chính (1997), "Thạch Lam với Gió lạnh đầu mùa", Dưới mắt tôi - Tổng tập Văn học, tập 24B, NXB KHXH, Hà Nội. 27. Trương chính (2000), Dưới mắt tôi - Sách Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB văn hoá thông tin, Hà Nội. 28. Nguyễn Nhật Duật (1972), "Thạch Lam hương thơm và nỗi u hoài", TC Giao điểm, Sài Gòn, số 1, sách Thạch Lam, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội-2001. 29. Đỗ Đức Dục (1963), Sự kế thừa của chủ nghĩa hiện thực phê phán đối với chủ nghĩa lãng mạn trong văn học, TC Nghiên cứu văn học, số 4. 30. Trần Ngọc Dung (1994), Phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Thạch Lam, Luận án phó tiến sĩ - ĐHSP Hà Nội I. 31. Trần Ngọc Dung (2000), Phong cách truyện ngắn Thạch Lam - Sách Thạch Lam và văn chương, NXB Hải Phòng - 2000. 32. Phan Huy Dũng (1994), "Tính nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ". Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 33. Lê Tiến Dũng (1994), "Tiếng trống thu không và tiếng còi tầu nơi phố huyện của Thạch Lam", Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 34. Tầm Dương (1992), Thơ Việt Nam, 1930-1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 35. Hồ DZếnh (1998), "Với Thạch Lam", TC Sông Hương, số 31, tháng 5,6. 36. Hồ DZếnh (2001), Những trang văn xuôi chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội. 37. Đặng Anh Đào (2001), Gió đông gió tây ảnh hưởng và giao thoa trong văn học Việt Nam hiện đại - TCVH, số 1. 38. Hoàng Đạo (2000), Tiếng đàn, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh. 39. Phan Cự Đệ (1961), Văn học Việt Nam 1930 - 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 40. Phan Cự Đệ (1966), Phong trào thơ mới, NXB KHXH, Hà Nội. 41. Phan Cự Đệ (1988), Lời giới thiệu "Đoạn tuyệt", NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 42. Phan Cự Đệ (1991), Lời giới thiệu "Đôi bạn", NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 43. Phan Cự Đệ (1992), Lời giới thiệu "Băn khoăn", NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 44. Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác, Hà Văn Đức (1992), Văn học Việt Nam 1930 - 1945, Tập 2 NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 45. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (1997), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB Giáo dục, Hà Nội. 46. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục (tái bản), Hà Nội. 47. Phan Cự Đệ (2001), Những bước tổng hợp mới trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, TCVH, số 10. 48. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 (sửa chữa, bổ sung), NXB Văn học, Hà Nội. 49. Trịnh Bá Đĩnh (2000), Tuyển chọn và giới thiệu, Nhất Linh truyện ngắn, NXB Văn học Hà Nội. 50. Hà Minh Đức (1991), Lời giới thiệu "Nửa chừng xuân" NXB ĐH và GDCN, Hà Nội. 51. Hà Minh Đức (1998), Đi tìm chân lý nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội. 52. Hà Minh Đức (1999- biên soạn), Tuyển tập Nam Cao - 2 tập, NXB Văn học, Hà Nội. 53. Hà Minh Đức (200), Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, TCVH, số 12. 54. Hà Minh Đức (2002), Một thế kỷ không ngừng phát triển và đổi mới của văn nghệ, TCVH, số 1. 55. Hà Văn Đức (1997), Thạch Lam - Sách Văn học Việt Nam 1900-1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 56. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam - tập 3, NXB Xây dựng Hà Nội. 57. Vu Gia (1994), Thạch Lam thân thế và sự nghiệp, NXB Văn hoá, Hà Nội. 58. Vu Gia (1994), Một ít tư liệu xung quanh Thạch Lam, TCVH số 8. 59. Vu Gia, Thế Lữ , Vũ Ngọc Phan (2000), Thạch Lam của cái đẹp, NXB Giáo dục, Hà Nội. 60. Văn Giá (1994), "Theo dòng - một ghi chú nghệ thuật, những tín niệm văn chương" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 61. Văn Giá (1994), Khái Hưng - Nhà tiểu thuyết của Vu Gia, TCVH,số 4. 62. Văn Giá (2000), Yêu mến Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội, TC Văn hoá, văn nghệ Công an số 10. 63. Văn Giá (2002), Vũ Bằng bên trời thương nhớ, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 64. Nguyễn Tường Giang (1972), Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng, TC Giao điểm, Sài Gòn, số 1 - Đăng lại trên Văn nghệ số 30 (28/7/1990). 65. Hồ Thế Hà (1994), "Truyện ngắn Thạch Lam, đặc điểm không gian nghệ thuật". Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 66. Thái Hà (2001 - biên soạn), Những áng văn ẩm thực, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 67. Hoàng Quốc Hải (1994), "Tản mạn Thạch Lam", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 68. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học lịch sử yếu, NXB Đồng Tháp (tái bản). 69. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử , Nguyễn Khắc Phi (1992 - chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 70. Lê Thị Đức Hạnh (1965), Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, TCVH số 4. 71. Lê Thị Đức Hạnh (1983), Gió đầu nhà, TCVH, số 5. 72. Lê Thị Đức Hạnh (1990), Trần Tiêu có phải là thành viên trong tổ chức Tự lực văn đoàn không? TCVH, số 5. 73. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn, TCVH số 3. 74. Lê Thị Đức Hạnh (1993), Tự lực văn đoàn với phong trào Thơ mới, TCVH, số 3. 75. Lê Thị Đức Hạnh (1993), Mấy nét về màu sắc dân tộc trong sáng tác Thạch Lam, TC Sông Hương, số 8. 76. Lê Thị Đức Hạnh (1996), Con người và cuộc đời Thạch Lam, báo Giáo dục và thời đại chủ nhật 1.12.1996. 77. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội. 78. Bùi Hiển (1992), Một nhãn quan, một tâm hồn nghệ sĩ, Văn nghệ, số 29. 79. Đỗ Đức Hiểu (1994), Phố huyện của Thạch Lam - sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 80. Đỗ Đức Hiểu (1996), Đọc "Bướm trắng" của Nhất Linh, TCVH, số 10. 81. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 82. Nguyễn Thanh Hồng (1990), Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, TCVH, số 3. 83. Đinh Hùng (1961), Tìm về những mùa xuân dĩ vãng; men xuân quê nhà Thạch Lam, Tạp chí Sóng dội miền Nam, số 21. 84. Đinh Hùng (1965), Tìm hiểu Thạch Lam thêm một vài khía cạnh, Tạp chí Văn Sài Gòn, số 36-15/6/1965. 85. Đinh Hùng (1965), "Những kỷ niệm chia bùi, sẻ ngọt cùng Thạch Lam", Tạp chí Văn, Sài Gòn số 36, sách Tự lực văn đoàn tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội. 86. Khái Hưng (1937), "Một quan niệm về văn chương (tựa gió đầu mùa)", Ngày nay số 89,12.12.1937, in lại Tựa gió đầu mùa, NXB Minh Đức, Hà Nội 1957. 87. Khái Hưng, Nhất Linh (2002), Anh phải sống (tập truyện ngắn), (tái bản), NXB Văn học, Hà Nội. 88. Phạm Thị Thu Hương (1993), Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam, TCVH, số 3. 89. Phạm Thị Thu Hương (1994), "Sự tìm kiếm cái đẹp bị đánh mất", sách Thạch Lam Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 90. Phạm Thị Thu Hương (1995), Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh, luận án Phó tiến sĩ, Viện Văn học. 91. Phạm Thu Hương (1995), Hồ DZếnh với nhiều khắc khoải giữa hai bờ xứ sở, TCVH, số 4. 92. Mai Hương (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 93. Trần Đình Hượu (1995), "Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hoá trong lịch sử văn học phương Đông" - trích Nho giáo và văn học Việt Nam trong cận đại - in lại trong Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000. 94. Trình Hồ Khoa (1996), Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây dựng một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, luận án Phó tiến sĩ ngữ văn , ĐHQG Hà Nội . 95. Nguyễn Hoành Khung (1984), "Thạch Lam", Từ điển văn học, tập II, NXB KHXH, Hà Nội. 96. Nguyễn Hoành Khung (1989), Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội. 97. Nguyễn Hoành Khung (1990), Lời giới thiệu truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội. 98. Huyền Kiêu (1965), Thạch Lam một người Việt Nam thành thực, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36. 99. Song Kim (1992), Thạch Lam, những điều còn nhớ, Văn nghệ, số 29. 100. Thạch Lam (1937), Mở màn, Cẩm nang ông Nghị hoàn toàn, báo Ngày nay, số 85, tr 955. 101. Thạch Lam (1940), "Vang bóng một thời" của Nguyễn Tuân, báo Ngày nay 15.6.1940 in lại Sách Giảng văn - Văn học Việt Nam 1930-1945, tập I NXB Giáo dục 1991. 102. Thạch Lam (1957), Gió đầu mùa, NXB Minh Đức, Hà Nội (tái bản). 103. Tôn Phương Lan (1999), Thi sĩ Hồ DZếnh - tài năng và tấm lòng, TCVH số 12. 104. Hoài Diệp Thứ Lang (1965), Giai thoại một chầu hát không tiền khoáng hậu. Thạch Lam thẩm âm, TC Văn, Sài Gòn, số 36. 105. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn hoá, Sài Gòn. 106. Mã Giang Lân (2002), Nhìn lại một thế kỷ văn học (1900-2000): Một công trình nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị khoa học, TCVH, số 5. 107. Phong Lê (1988- sưu tầm, tuyển chọn), Tuyển tập Thạch Lam, NXB văn học, Hà Nội. 108. Phong Lê (1988), Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, TCVH, số 2. 109. Phong Lê (1988), Lời giới thiệu tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, Hà Nội. 110. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 111. Phong Lê (1999), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, NXB ĐHQG, Hà Nội. 112. Phong Lê (1999), Vẫn chuyện văn và người, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 113. Phong Lê (2000), Năm 2000, nhìn lại một thế kỷ, TCVH, số 2. 114. Phong Lê (2001), Trên quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX, TCVH, số 1. 115. Phong Lê (2001), Phác thảo buổi đầu văn xuôi quốc ngữ, TCVH, số 11. 116. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại (những chân dung tiêu biểu), NXB ĐHQG, Hà Nội. 117. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương, học thuật Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội 118. Phong Lê (2002), Văn xuôi những năm 20 (thế kỷ XX) phòng chờ cho bước chuyển giai đoạn 1932, TCVH, số 5. 119. Phong Lê (2002), Thời kỳ 1900-1932 và cuộc chuyển giao từ văn học trung đại sang văn học hiện đại, TCVH, số 8. 120. Phong Lê (2002), Thời kỳ 1932-1935 và diện mạo hiện đại của văn học dân tộc, TCVH, số 9. 121. Thế Lữ (1943), Tính cách tạo tác của Thạch Lam, báo Thanh nghị, số 39 16/6/1943; đăng lại tên TC Văn, Sài Gòn số 36 (15/6/1965). 122. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập V, NXB Giáo dục, Hà Nội. 123. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB tác phẩm mới, Hà Nội. 124. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Khái luận Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, NXB KHXH, Hà Nội. 125. Nguyễn Đăng Mạnh (2000) (sưu tầm và giới thiệu), Nguyễn Tuân, Yêu ngôn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 126. Dương Nghiễm Mậu (1972), Thời của Thạch Lam , TC Giao điểm, Sài gòn, số 1. 127. Tôn Thảo Miên (2002 - tuyển chọn), Truyện ngắn Thạch Lam, tác phẩm và dư luận, NXB văn học, Hà Nội. 128. Tú Mỡ (1988), Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn, TCVH, số 5,6 và số 1/1989 in lại: Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000. 129. Nguyễn Xuân Nam (1984), "Truyện ngắn", Từ điển văn học, tập II, NXB KHXH, Hà Nội. 130. Phương Ngân (2000), Khái Hưng nhà tiểu thuyết, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 131. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 132. Phạm Thế Ngũ (1988), "Thạch Lam", trích từ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3- in lại: Thạch Lam, Về tác giả và tác phẩm NXB Giáo dục, Hà Nội 2002. 133. Lãng Nguyên (1965), Thạch Lam - ký giả và hoạ sĩ, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36. 134. Nguyễn Hữu Ngư (1962), Giải thưởng Tự lực văn đoàn, Bách khoa, số 10. 135. Vương Trí Nhàn (1988), Hà Nội với đời văn Thạch Lam, báo Người Hà Nội, số 73. 136. Vương Trí Nhàn (1990), Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam, TCVH, số 5. 137. Vương Trí Nhàn (1992), Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, TCVH, số 5. 138. Vương Trí Nhàn (2000) (sưu tầm, biên soạn), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 139. Vũ Ngọc Phan (1945), Thạch Lam, nhà văn hiện đại, quyển IV, tập hạ NXB Tân Dân, NXB Văn hoá Thông tin - 2000. 140. Phạm Phú Phong (1992), Mấy vấn đề về thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí Sông Hương, số 5. 141. Phạm Phú Phong (1994), "Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 142. Thế Phong (1971), "Các nhà văn trong Tự lực văn đoàn", Lược sử văn nghệ Việt Nam nhà văn tiền chiến 1930-1945, NXB Vàng son, Sài Gòn. 143. Đào Trường phúc (1972), Thạch Lam, những lời thủ thỉ của truyện ngắn, TC Giao điểm, Sài Gòn số 1. 144. Phạm Văn Phúc (1989), Nghĩ về Thạch Lam, báo Người giáo viên nhân dân số tháng 7/1989. 145. Nguyễn Phúc (1994), "Quan niệm văn chương của Thạch Lam: vị nghệ thuật hay vị nhân sinh?" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 146. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964 - chủ biên), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, NXB Văn học, Hà Nội. 147. Nguyễn Vinh Phúc (1994), "Thạch Lam với Hà Nội ba mươi sáu phố phường", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 148. Phan Diễm Phương (1994), "Biểu hiện tâm lý, quan niệm và cách thức" sách: Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 149. Nguyễn Xuân Sanh (1994), "Thạch Lam, những đức tính sáng tạo"; Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 150. Băng Sơn (2000), Thú ăn chơi người Hà Nội, NXB Văn hoá - Thông tin Hà Nội. 151. Trần Đình Sử (1992), Văn học, tập 2 sách đào tạo giáo viên tiểu học, Vụ giáo viên. 152. Trần Đình Sử (1997), Văn 11, tập 2, ban KHXH, NXB Giáo dục, Hà Nội. 153. Văn Tâm (1991), Giảng văn, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội. 154. Mai Thảo (1965), Phượng hoàng gẫy cánh, TC Văn, Sài Gòn số 36. 155. Nguyễn Công Thắng (1992), Thạch Lam trong Gió lạnh đầu mùa, Kiến thức Ngày nay, số 9. 156. Bùi Việt Thắng (1994), "Người chắt chiu cái đẹp", Sách Thạch Lam - văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 157. Hoài Thanh (1982), "Một vài ý kiến về phong trào Thơ mới và quyển Thi nhân Việt Nam ", Tuyển tập Hoài Thanh - tập 2, NXB Văn học, Hà Nội. 158. Nguyễn Thành (1994), "Nhìn lại những quan niệm văn học của Thạch Lam" , Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 159. Nguyễn Thị Thế (1965), Người con thứ sáu, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36. 160. Nguyễn Thị Thế (1974), Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, NXB Sóng. Sài Gòn. 161. Bạch Năng Thi (1961), "ưu thế của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn", Văn học Việt Nam 1930-1945, tập I, NXB Giáo dục - in lại ở Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc - NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000. 162. Nguyễn Thành Thi (1994), "Bóng thức kinh kỳ trong "Hai đứa trẻ", Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ. 163. Nguyễn Thành Thi (1994), Tối ba mươi và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài, báo Lao động và xã hội, Xuân 1994. 164. Nguyễn Thành Thi (1994), Khi gió lạnh đầu mùa trong văn Thạch Lam vẫn thổi, Sinh viên và thời đại, TP HCM. 165. Nguyễn Thành Thi (1998), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 166. Nguyễn Thành Thi (2000), Thạch Lam, từ quan niệm về cái đẹp đến những trang văn Hà Nội ba mươi sáu phố phường, TCVH, số 10. 167. Nguyễn Ngọc Thiện (1994), "Thạch Lam: nghĩ và viết tiểu thuyết", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 168. Nguyễn Ngọc Thiện (1999), "Về một quan niệm viết truyện của Thạch Lam", VNQĐ, số 5 in lại Thạch Lam, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001. 169. Lưu Khánh Thơ, Bích Thu (2003 - tuyển chọn), Tuyển tập truyện ngắn lãng mạn, NXB Văn học, Hà Nội. 170. Bích Thu (1992), Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam, Khoa học và phụ nữ, số 3. 171. Bích Thu (1992), Sự thức tỉnh của con người trong sáng tác Thạch Lam, Tạp chí Khoa học và tổ quốc, số 11. 172. Bích Thu (1994), "Thạch Lam và kiểu nhân vật tự thức tỉnh" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 173. Bích Thu (2001), Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ, TCVH, số 4. 174. Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Thuỷ Liên (sưu tầm - 2001), Tác phẩm được giải thưởng Tự lực văn đoàn, NXB Văn học, Hà Nội. 175. Đỗ Đức Thu (1965), Thạch Lam, Tạp chí Văn, Sài gòn, số 36 (15/6/1965) 176. Lộc Phương Thuỷ (1994), "Thạch Lam trong sự giao tiếp với văn học Pháp", Sách Thạch Lam văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 177. Lộc Phương Thuỷ (2001), Bước đầu nhận xét về ảnh hưởng của Anđre Gide ở Việt Nam, TCVH, số 5. 178. Ngô Văn Thư (2001), Nửa chừng xuân, bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết, TCVH, số 7 180. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (1999 - tuyển chọn), Văn chương Tự lực văn đoàn, (3 tập), NXB Giáo dục, Hà Nội). 181. Phan Trọng Thưởng (1999), "Vài nét về Tự lực văn đoàn", Lời giới thiệu bộ tuyển văn chương Tự lực văn đoàn - NXB Giáo dục, Hà Nội. 182. Phan Trọng Thưởng (2000), Cuối thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn chương Tự lực văn đoàn, TCVH số 2. 183. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ , Nguyễn Hữu Sơn (2000 - tuyển chọn), Phóng sự Việt Nam (1932 - 1945) (3 tập), NXB Văn học, Hà Nội. 184. Phan Trọng Thưởng (2000), Phóng sự (1932 - 1945), Một thành tựu đặc biệt của tiến trình văn học Việt Nam, TCVH, số 5. 185. Thanh Tịnh (1998), Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc, (Anh Thư biên soạn), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 186. Hoàng Tiến (1994), "Những điều tôi học được ở Thạch Lam", Sách Thạch Lam văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 187. Ngô Tất Tố (1998 - tái bản), Tắt đèn , NXB Văn học, Hà Nội. 188. Đỗ Tốn (1945), Hoa vông vang, NXB Đời nay, Hà Nội; in lại ở Tuyển tập truyện ngắn lãng mạn, NXB Văn học, 2003. 189. Đinh Quang Tốn (1994), "Thạch Lam và quê hương sáng tác", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 190. Nguyễn Tuân (1957), Lời giới thiệu Thạch Lam tuyển tập, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; in lại trong Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1982 và Thạch Lam về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục Hà Nội, 2001. 191. Nguyễn Tuân (1969), Quê hương, NXB Trường sơn 192. Lê Dục Tú (1993), Quan niệm về con người sáng tác của Thạch Lam, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4. 193. Lê Dục Tú (1994), Miêu tả nội tâm trong Tự lực văn đoàn, TCVH, số 8. 194. Lê Dục Tú (1995), Vấn đề định giá văn học lãng mạn Việt Nam và sự đổi mới tư duy nghiên cứu văn học, TCVH, số 12. 195. Lê Dục Tú (1997), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, NXB, KHXH, Hà Nội. 196. Xuân Tùng (2000 - Sưu tầm, biên soạn), Thạch Lam và văn chương, NXB Hải Phòng. 197. Hà Xuân Trường (1998), Không có một thời …. như thế, NXBVH và Trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà nội. 198. Hà Xuân Trường (2001), Vài ý kiến nhân "Nhìn lại một thế kỷ văn học Việt Nam", TCVH số 9. 199. Thế Uyên (1965), "Tìm kiếm Thạch Lam", Tạp chí Văn, Sài gòn, số 36; in lại ở Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dần tộc, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội; 2000. 200. Nguyễn Vỹ (1994), Văn thi sỹ tiền chiến, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 201. Tổng mục lục Tạp chí Văn học 1960 - 1999, Viện Văn học, 1999. 202. Trần Đăng Xuyền (1998), Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, TCVH, số 6. 203. Trần Đăng Xuyền (2001), Cảm hứng chủ đạo và những xung đột nghệ thuật có bên trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, TCVHHHHHHHHHHH, số 2. mụC LụC Bộ giáo dục và đào tạo viện khoa học xã hội việt nam Viện văn học Lê minh truyên Thạch lam với tự lực văn đoàn Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 5.04.33 Luận án tiến sĩ ngữ văn Người hướng dẫn khoa học: giáo sư phong lê Hà Nội - 2004 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án Lê Minh Truyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32874.doc
Tài liệu liên quan