Trong Dự thảo, tuổi nghỉ hưu được
đưa ra hai phương án (Điều 148 Dự thảo).
Phương án 1 là giữ nguyên quy định hiện
hành. Phương án 2 được thiết kế theo lộ
trình tăng dần tuổi nghỉ hưu như sau: tuổi
nghỉ hưu của NLĐ bình thường làm việc
trong điều kiện lao động bình thường là nam
đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Từ 01/01/2021,
cứ mỗi năm tăng thêm 06 tháng cho đến khi
nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi. Những lý do
được đưa ra để lý giải cho phương án này,
đó là tuổi thọ bình quân của người Việt Nam
đã tăng nhiều so với giai đoạn trước đây2 và
khoảng cách giữa tuổi thọ bình quân với tuổi
nghỉ hưu bình quân là rất dài3 nên thực tiễn
nhiều người nghỉ hưu vẫn tiếp tục tham gia
lao động; dân số nước ta đang chuyển từ thời
kỳ dân số vàng sang giai đoạn già hóa dân
số, trong tương lai lực lượng lao động trẻ sẽ
thiếu hụt; nếu cứ giữ tuổi nghỉ hưu như hiện
tại thì quỹ hưu trí, tử tuất không được đảm
bảo trong dài hạn; bảo đảm sự không phân
biệt đối xử về tuổi nghỉ hưu giữa lao động
nam và lao động nữ để phù hợp với các tiêu
chuẩn quốc tế như Công ước Cedaw, Công
ước của ILO ; tận dụng được nguồn nhân
lực động có trình độ, kỹ thuật cao và có kinh
nghiệm; kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới đã và đang điều chỉnh tăng tuổi hưu,
có nước lên tới 67 tuổi
Theo chúng tôi, việc tăng tuổi nghỉ
hưu như phương án 2 đưa ra chưa thật sự
hợp lý do vẫn chưa thoả mãn được lý do bảo
đảm sự không phân biệt đối xử về tuổi nghỉ
hưu giữa lao động nam và lao động nữ theo
các công ước quốc tế. Bởi lẽ nếu còn tồn
tại sự phân biệt đối xử về độ tuổi lao động
giữa nam và nữ thì gốc rễ của sự phân biệt
đối xử vẫn chưa được xoá bỏ, do môi trường
lao động là môi trường thể hiện rõ nhất sự
phân biệt đối xử này. Do vậy, để đảm bảo sự
không phân biệt đối xử này giữa nam và nữ
trên thị trường lao động, đồng thời vẫn đảm
bảo được việc bảo vệ sức khoẻ cho lao động
nữ (bị ảnh hưởng do nhiều lần sinh nở) thì
có thể nâng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ
lên bằng với tuổi nghỉ hưu của lao động nam
hiện tại là 60 tuổi (ở các quốc gia phát triển
khác như Anh, Úc, Pháp , tuổi nghỉ hưu
của nam và nữ đều giống nhau).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận bàn vài vấn đề trong dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật lao động năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích một số nội dung trong Dự thảo lần 2 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động năm 2012 (Dự thảo), luận
bàn về vấn đề cho thuê lại lao động, về chấm dứt hợp đồng lao động
với người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu và về tuổi nghỉ hưu.
LUẬN BÀN VÀI VẤN ĐỀ TRONG DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI,
BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2017
Nguyễn Thị Hồng Nhung*
Abstract:
This article provides discussions on the a number of provisions of
the second Bill on Labor Code, particularly on the provisions on
labour lease; on termination of labor contract, on termination of labor
contract with employees eligible for retirement, and on retirement age.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: cho thuê lại lao động, chấm
dứt hợp đồng lao động với người lao
động đủ điều kiện hưởng lương hưu,
tuổi nghỉ hưu.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 23/08/2017
Biên tập: 25/08/2017
Duyệt bài: 28/08/2017
Article Infomation:
Keywords: labour lease; termination
of labor contract with employees
eligible for retirement, retirement
age.
Article History:
Received: 23 Aug. 2017
Edited: 25 Aug. 2017
Appproved: 28 Aug. 2017
* TS, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
1. Cho thuê lại lao động
Theo chúng tôi, sau năm năm đi vào
thực tiễn đời sống, vấn đề cho thuê lại lao
động trong Bộ luật Lao động năm 2012
(BLLĐ 2012), còn nhiều vướng mắc cần
được thay đổi để phù hợp hơn với tình hình
mới của thị trường lao động và nền kinh
tế. Tuy nhiên, trong Dự thảo, quy định về
cho thuê lại lao động nhìn chung lại chưa
có mấy khác biệt nổi trội so với BLLĐ hiện
hành. Nói cách khác, hầu như các quy định
về cho thuê lại lao động trong BLLĐ 2012
đều được Dự thảo giữ lại mà không có sự
bổ sung, thay đổi quan trọng nào nhằm bảo
vệ chặt chẽ hơn nữa quyền lợi của người lao
động (NLĐ), cũng như phân định rõ hơn
quyền hạn và trách nhiệm của doanh nghiệp
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 17(345) T9/2017
cho thuê lại và doanh nghiệp thuê lại trong
việc xử lý trách nhiệm của NLĐ
Điểm khác biệt rõ nhất mà chúng ta có
thể thấy được là so với BLLĐ 2012 (Điều
53 BLLĐ 2012), Dự thảo đã bổ sung thêm
trường hợp về cho thuê lại lao động được
xem là bất hợp pháp nếu mọi hoạt động cung
ứng lao động có bản chất như cho thuê lại
lao động do những tổ chức, cá nhân không
có Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao
động thực hiện (Khoản 3 Điều 51 Dự thảo).
Và để thống nhất với bổ sung này, Dự thảo
cũng có thêm quy định tại Khoản 4 Điều 55
về doanh nghiệp không có Giấy phép hoạt
động cho thuê lại lao động, khi nói rằng bên
thuê lại lao động “không được chuyển NLĐ
đã thuê lại cho người sử dụng lao động
(NSDLĐ) khác; không được sử dụng NLĐ
thuê lại được cung cấp bởi doanh nghiệp
không có Giấy phép hoạt động cho thuê lại
lao động”. Nói tóm lại, ngoài hai bổ sung
trên, mọi vấn đề khác trong chế định về
cho thuê lại lao động đều được Dự thảo giữ
nguyên như trong BLLĐ 2012.
Theo chúng tôi, việc giữ nguyên các
quy định về cho thuê lại lao động như pháp
luật hiện hành là chưa phù hợp để giải quyết
dứt điểm các bất cập vẫn tồn tại trong luật,
cũng như chưa đáp ứng yêu cầu sửa đổi,
bổ sung BLLĐ nhằm bảo vệ tốt hơn quyền
và lợi ích của NLĐ, cũng như cân bằng lợi
ích giữa các bên liên quan trong hoạt động
cho thuê lại lao động. Những băn khoăn
của chúng tôi thể hiện cụ thể ở những vấn
đề sau:
Thứ nhất, khó có thể đảm bảo quyền
giao kết hợp đồng lao động (HĐLĐ) không
xác định thời hạn cho NLĐ
BLLĐ 2012 cũng như Dự thảo đều
có quy định về việc chuyển hoá HĐLĐ từ
hợp đồng có thời hạn sang hợp đồng không
xác định thời hạn cho NLĐ khi NLĐ đã
hai lần ký kết HĐLĐ có thời hạn với cùng
NSDLĐ và sau đó vẫn tiếp tục làm việc
cho NSDLĐ đó (Khoản 2 Điều 22 BLLĐ
2012 và Khoản 2 Điều 20 Dự thảo). Cụ
thể là, khi HĐLĐ có thời hạn lần thứ nhất
hết hạn thì hai bên tiến hành giao kết HĐLĐ
mới hoặc chấm dứt HĐLĐ cũ. Trường hợp
hai bên ký kết HĐLĐ mới là HĐLĐ xác
định thời hạn hoặc HĐLĐ theo mùa vụ thì
cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu
NLĐ vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết
HĐLĐ không xác định thời hạn. Nếu hai
bên không giao kết HĐLĐ mới và NLĐ vẫn
tiếp tục làm việc thì HĐLĐ cũ sẽ trở thành
HĐLĐ không xác định thời hạn. Quy định
nhân văn này đã tồn tại từ lâu trong pháp
luật lao động Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của NLĐ.
Tuy nhiên, nếu xét trong bối cảnh
cho thuê lại lao động, quyền lợi này của
NLĐ lại khó được đảm bảo. Trên thực tế,
khi một doanh nghiệp A cần thuê lại lao
động, họ thông qua một doanh nghiệp cho
thuê lại (doanh nghiệp B) để doanh nghiệp
B ký HĐLĐ với NLĐ. Nói cách khác, sau
khi doanh nghiệp B ký HĐLĐ với NLĐ thì
doanh nghiệp B sẽ cho doanh nghiệp A thuê
lại lao động đó. Theo quy định tại Điều 26
Nghị định số 55/2013/NĐ-CP về quy định
chi tiết Khoản 3 Điều 54 của BLLĐ về việc
cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động,
việc ký quỹ và danh mục công việc được cho
thuê lại lao động (Nghị định 55), thời hạn cho
thuê lại lao động tối đa không quá 12 tháng.
Và khi hết thời hạn này, doanh nghiệp cho
thuê không được tiếp tục cho thuê lại NLĐ
với bên thuê lại nữa. Như vậy, để tiết kiệm
chi phí thuê lao động, doanh nghiệp cho
thuê lại lao động (doanh nghiệp B) chỉ cần
ký HĐLĐ có xác định thời hạn, tối đa không
quá 12 tháng với NLĐ, để sau đó cho doanh
nghiệp A thuê lại. Khi kết thúc HĐLĐ, nếu
muốn tiếp tục sử dụng cùng lao động đó (do
nhu cầu sử dụng ổn định lao động mặc dù
là thuê lại, cũng như để tiết kiệm chi phí và
thời gian đào tạo lại lao động), doanh nghiệp
A sẽ thông qua một doanh nghiệp cho thuê
lại lao động khác (doanh nghiệp C) để doanh
nghiệp C tiếp tục ký kết HĐLĐ có thời hạn
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 17(345) T9/2017
với NLĐ. Với cách thức này, doanh nghiệp
A lẫn các doanh nghiệp B và C đều có thể né
tránh trách nhiệm ký HĐLĐ không xác định
thời hạn với NLĐ, một loại hợp đồng mang
tính ràng buộc trách nhiệm cao hơn đối với
doanh nghiệp.
Như vậy, mặc dù luật lao động đã đưa
ra những giải pháp để mang đến quyền lợi
tốt nhất cho NLĐ thông qua quy định về
chuyển hoá HĐLĐ, nhưng NLĐ trong quan
hệ cho thuê lại lao động lại bị bỏ quên. Do
đó, để giải quyết được vấn đề này, giải pháp
mà chúng tôi đưa ra đó là Dự thảo cần đi
theo hướng nếu sau khi đã hết 2 lần HĐLĐ
có xác định thời hạn (ký giữa NLĐ và doanh
nghiệp cho thuê lại lao động bất kỳ) mà
NSDLĐ trực tiếp (doanh nghiệp thuê lại lao
động) vẫn tiếp tục sử dụng lại lao động này
thì NSDLĐ trực tiếp (doanh nghiệp thuê lại
lao động) phải ký hợp đồng trực tiếp với
NLĐ (hợp đồng này có xác định thời hạn
hoặc không xác định thời hạn).
Về mặt lý luận, đề xuất này đáp ứng
được hai vấn đề sau: Thứ nhất, việc vẫn
muốn tiếp tục sử dụng lại cùng NLĐ cho
cùng công việc đó cho thấy công việc mà
doanh nghiệp thuê lại lao động cần không
còn mang tính chất tạm thời (do không còn
thoả mãn tiêu chí của doanh nghiệp thuê lại
lao động tại Khoản 2 Điều 3 và mục đích
của việc cho thuê lại lao động tại Điều 23
Nghị định 55), và cũng cho thấy NLĐ đó
đã đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh
nghiệp thuê lại. Thứ hai, khi trực tiếp ký
HĐLĐ với NLĐ, doanh nghiệp thuê lại lao
động vẫn có thể sử dụng quyền của mình
trong việc xác định thời hạn hợp đồng đối
với NLĐ, đó là hợp đồng có thời hạn từ 1
năm đến 3 năm hay không xác định thời hạn,
tuỳ theo nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.
Trong trường hợp doanh nghiệp ký HĐLĐ
có xác định thời hạn với NLĐ thì cũng chỉ
được ký không quá 2 lần, và sau đó phải ký
HĐLĐ không xác định thời hạn nếu vẫn
muốn tiếp tục sử dụng cùng lao động đó.
Giải pháp này, theo chúng tôi, sẽ có thể giúp
giải quyết triệt để hiện tượng chuyển việc
nhiều (do thay đổi doanh nghiệp cho thuê lại
lao động) nhưng thực chất chỉ làm việc cho
cùng một NSDLĐ mà quyền lợi lao động
của NLĐ không được đảm bảo.
Thứ hai, về mặt lý luận, khó xử lý kỷ
luật đối với NLĐ vi phạm kỷ luật lao động
Như chúng ta đã biết, trong quan
hệ cho thuê lại lao động, NLĐ mặc dù ký
HĐLĐ với bên cho thuê lại lao động nhưng
lại trực tiếp làm việc cho bên thuê lại lao
động. Do vậy, tại Khoản 2 Điều 58 BLLĐ
2012 cũng như Khoản 2 Điều 56 Dự thảo
có quy định rằng, NLĐ thuê lại phải chấp
hành nội quy lao động, kỷ luật lao động, sự
điều hành hợp pháp và tuân thủ thoả ước lao
động tập thể của bên thuê lại lao động. Nói
cách khác, trong quá trình làm việc, NLĐ có
nghĩa vụ phải tuân thủ nội quy lao động của
doanh nghiệp trực tiếp sử dụng lao động.
Tuy nhiên, khi NLĐ vi phạm kỷ luật lao
động, thì bên thuê lại lao động lại không có
quyền trực tiếp xử lý kỷ luật lao động mà chỉ
có thể trả lại doanh nghiệp cho thuê lại lao
động NLĐ vi phạm kỷ luật và cung cấp cho
doanh nghiệp cho thuê lại lao động chứng cứ
về hành vi vi phạm kỷ luật lao động của NLĐ
để doanh nghiệp cho thuê lại xem xét xử lý
kỷ luật lao động (Khoản 6, 7 Điều 57 BLLĐ
2012 và Khoản 6, 7 Điều 55 Dự thảo). Như
vậy, BLLĐ 2012 cũng như Dự thảo đều giao
quyền xử lý kỷ luật lao động người vi phạm
về cho doanh nghiệp cho thuê lại lao động.
Điều này hoàn toàn phù hợp do HĐLĐ được
ký kết giữa NLĐ với bên cho thuê lại lao
động, thể hiện sự ràng buộc về quyền và
nghĩa vụ lẫn nhau giữa hai bên.
Tuy nhiên, nếu xét về mặt lý luận,
NLĐ chỉ vi phạm nội quy lao động của nơi
trực tiếp làm việc (doanh nghiệp thuê lại lao
động), chứ không vi phạm nội quy lao động
của doanh nghiệp cho thuê lại (rất nhiều khả
năng nội quy lao động của hai doanh nghiệp
khác nhau), nên thiếu cơ sở pháp lý cho việc
xử lý kỷ luật mặc dù có đầy đủ chứng cứ.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 17(345) T9/2017
Do vậy, nếu trong HĐLĐ giữa NLĐ với bên
cho thuê lại lao động hay trong nội quy lao
động của doanh nghiệp cho thuê lại lao động
không ràng buộc cụ thể nghĩa vụ của NLĐ
về tuân thủ nội quy lao động ở nơi làm việc
trực tiếp (doanh nghiệp thuê lại), mà chỉ căn
cứ vào những quy định hiện có của BLLĐ
2012 hay của Dự thảo thì việc xử lý kỷ luật
NLĐ bởi doanh nghiệp cho thuê lại là điều
chưa hợp lý.
2. Chấm dứt hợp đồng lao động với người
lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu
BLLĐ 2012 cũng như Dự thảo đều
quy định HĐLĐ chấm dứt khi NLĐ đủ
điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội
(BHXH) và tuổi hưởng lương hưu (Khoản
4 Điều 36 BLLĐ 2012 và Khoản 4 Điều
34 Dự thảo). Điều này có nghĩa là chỉ khi
nào NLĐ thoả mãn cả hai điều kiện trên về
BHXH và tuổi hưu thì HĐLĐ mới chấm
dứt. Quy định này rõ ràng đang hướng đến
việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, tạo điều
kiện cho NLĐ có thể hưởng đầy đủ chế độ
BHXH khi không còn điều kiện lao động.
Tuy nhiên, theo Tờ trình của Chính phủ về
dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLLĐ, thực tế trong thời gian vừa qua, quy
định này lại gây không ít khó khăn cho các
doanh nghiệp vì doanh nghiệp không được
quyền chấm dứt HĐLĐ với NLĐ đủ hoặc
quá tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian
tham gia BHXH, làm cho doanh nghiệp khó
bố trí sản xuất (vì NLĐ cao tuổi được rút
ngắn thời giờ làm việc theo luật) hoặc có thể
dẫn tới vi phạm pháp luật (vì luật lao động
cấm sử dụng lao động cao tuổi trong những
ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm).
Do vậy, để giải quyết vấn đề trên, các nhà
soạn thảo đã đi theo hướng giữ nguyên quy
định này tại Khoản 4 Điều 34 của Dự thảo,
đồng thời bổ sung thêm trường hợp NSDLĐ
được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
nếu NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu tại điểm đ Khoản
1 Điều 36 Dự thảo.
Theo chúng tôi, việc tồn tại song song
các quy định trên như trong Dự thảo có thể
tạo ra sự mâu thuẫn nội tại trong bản thân
quy định pháp luật, gây khó khăn trong việc
thi hành và áp dụng. Cụ thể, khi NLĐ đến
tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đủ điều kiện về
thời gian tham gia BHXH thì NSDLĐ có thể
viện dẫn điểm đ Khoản 1 Điều 36 Dự thảo
để thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ. Tuy nhiên, nếu NLĐ không đồng ý
với quyết định này thì liệu họ có được quyền
viện dẫn Khoản 4 Điều 34 Dự thảo để yêu
cầu NSDLĐ không được chấm dứt HĐLĐ
với mình hay không (do phải thoả mãn cả
hai điều kiện về tuổi hưu và thời gian tham
gia BHXH)?
Trên cơ sở đó, chúng tôi cho rằng, nếu
đã cho NSDLĐ được quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ khi NLĐ đủ tuổi hưu thì
nên bỏ hẳn quy định tại Khoản 4 Điều 34
Dự thảo. Việc NSDLĐ căn cứ hoàn toàn vào
tuổi nghỉ hưu để quyết định đơn phương
chấm dứt HĐLĐ là điều hoàn toàn hợp lý
mà không cần xét đến điều kiện về tham gia
BHXH, bởi lẽ nó phù hợp với pháp luật về
lao động nói chung (tuổi nghỉ hưu được pháp
luật lao động xác định để kết thúc quan hệ
lao động, tạo thời gian nghỉ ngơi cho NLĐ,
tạo cơ hội cho doanh nghiệp tìm kiếm lao
động khác thay thế phù hợp hơn); và sự công
bằng (khi NLĐ tham gia quan hệ lao động
trễ thì thời gian tham gia BHXH cũng sẽ bị
ảnh hưởng theo). Hơn thế nữa, quy định chỉ
dựa vào tuổi hưu để chấm dứt quan hệ lao
động có thể giúp tạo nhiều cơ hội việc làm
hơn cho lao động trẻ, thúc đẩy lao động trẻ
tham gia kịp thời vào các quan hệ lao động,
phục vụ phát triển nền kinh tế. Trong trường
hợp nếu NLĐ đủ tuổi hưu vẫn còn khả năng
để tiếp tục tham gia vào thị trường lao động
thì vẫn có thể ký kết HĐLĐ với NSDLĐ
khác để tiếp tục tham gia BHXH. Nói tóm
lại, việc bỏ hẳn quy định tại Khoản 4 Điều
34 sẽ giúp cho quy định pháp luật không bị
chồng lấn và mâu thuẫn về mặt nội dung,
giúp cho việc thi hành và áp dụng pháp luật
có hiệu quả hơn trên thực tế.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 17(345) T9/2017
3. Tuổi nghỉ hưu
Điều 187 BLLĐ 2012 quy định tuổi
nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện bình
thường là 60 đối với nam và 55 đối với nữ.
Được biết, việc tăng tuổi nghỉ hưu là một
nội dung lớn đã từng được đặt ra nhiều lần
trong quá trình soạn thảo các luật nhưng
chưa được Quốc hội thông qua như Luật
Bình đẳng giới năm 2007, BLLĐ năm 2012
và Luật BHXH năm 20141.
Trong Dự thảo, tuổi nghỉ hưu được
đưa ra hai phương án (Điều 148 Dự thảo).
Phương án 1 là giữ nguyên quy định hiện
hành. Phương án 2 được thiết kế theo lộ
trình tăng dần tuổi nghỉ hưu như sau: tuổi
nghỉ hưu của NLĐ bình thường làm việc
trong điều kiện lao động bình thường là nam
đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Từ 01/01/2021,
cứ mỗi năm tăng thêm 06 tháng cho đến khi
nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi. Những lý do
được đưa ra để lý giải cho phương án này,
đó là tuổi thọ bình quân của người Việt Nam
đã tăng nhiều so với giai đoạn trước đây2 và
khoảng cách giữa tuổi thọ bình quân với tuổi
nghỉ hưu bình quân là rất dài3 nên thực tiễn
nhiều người nghỉ hưu vẫn tiếp tục tham gia
lao động; dân số nước ta đang chuyển từ thời
kỳ dân số vàng sang giai đoạn già hóa dân
số, trong tương lai lực lượng lao động trẻ sẽ
thiếu hụt; nếu cứ giữ tuổi nghỉ hưu như hiện
tại thì quỹ hưu trí, tử tuất không được đảm
bảo trong dài hạn; bảo đảm sự không phân
biệt đối xử về tuổi nghỉ hưu giữa lao động
nam và lao động nữ để phù hợp với các tiêu
chuẩn quốc tế như Công ước Cedaw, Công
ước của ILO; tận dụng được nguồn nhân
lực động có trình độ, kỹ thuật cao và có kinh
nghiệm; kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới đã và đang điều chỉnh tăng tuổi hưu,
có nước lên tới 67 tuổi
Theo chúng tôi, việc tăng tuổi nghỉ
1 Theo Tờ trình của Chính phủ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ, tr. 8.
2 Những năm 1960 là: nam 60, nữ 55. Đến nay là: nam 73, nữ 75.
3 Tuổi nghỉ hưu bình quân năm 2012 là 54,17.
hưu như phương án 2 đưa ra chưa thật sự
hợp lý do vẫn chưa thoả mãn được lý do bảo
đảm sự không phân biệt đối xử về tuổi nghỉ
hưu giữa lao động nam và lao động nữ theo
các công ước quốc tế. Bởi lẽ nếu còn tồn
tại sự phân biệt đối xử về độ tuổi lao động
giữa nam và nữ thì gốc rễ của sự phân biệt
đối xử vẫn chưa được xoá bỏ, do môi trường
lao động là môi trường thể hiện rõ nhất sự
phân biệt đối xử này. Do vậy, để đảm bảo sự
không phân biệt đối xử này giữa nam và nữ
trên thị trường lao động, đồng thời vẫn đảm
bảo được việc bảo vệ sức khoẻ cho lao động
nữ (bị ảnh hưởng do nhiều lần sinh nở) thì
có thể nâng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ
lên bằng với tuổi nghỉ hưu của lao động nam
hiện tại là 60 tuổi (ở các quốc gia phát triển
khác như Anh, Úc, Pháp, tuổi nghỉ hưu
của nam và nữ đều giống nhau).
Bên cạnh đó, để khuyến khích lao
động sau tuổi nghỉ hưu vẫn tiếp tục làm
việc, chúng ta có thể áp dụng cùng lúc nhiều
chính sách khác nhau như giảm thuế thu
nhập cá nhân cho NLĐ sau tuổi nghỉ hưu,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho những
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động sau
tuổi nghỉ hưu Việc sử dụng nhiều biện
pháp khuyến khích lao động sau tuổi nghỉ
hưu vẫn tiếp tục làm việc thay cho việc luật
hoá nâng cao tuổi nghỉ hưu (trên 60 tuổi) có
tác dụng không tạo áp lực quá lớn lên NLĐ
(khi vẫn có một bộ phận không nhỏ NLĐ
muốn về hưu sớm), giúp giảm gánh nặng về
y tế (việc duy trì lao động sau tuổi nghỉ hưu
giúp NLĐ giảm stress, bớt bệnh tật), giúp
duy trì được lực lượng lao động có tay nghề
cao và nhiều kinh nghiệm, đồng thời giúp
đáp ứng được yêu cầu ban đầu, chủ yếu và
quan trọng nhất của Chính phủ trong việc
đề xuất nâng tuổi hưu là giảm áp lực về quỹ
lương hưu
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 17(345) T9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_ban_vai_van_de_trong_du_thao_luat_sua_doi_bo_sung_mot_s.pdf