MS: LVVH-VHVN037
SỐ TRANG: 162
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2009
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của luận văn
6. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: ĐỀ TÀI ẨM THỰC TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
1.1. Đề tài ẩm thực
1.1.1. Đối tượng, phạm vi phản ánh của đề tài ẩm thực
1.1.2. Những cảm hứng sáng tác gắn liền với đề tài ẩm thực
1.2. Đề tài ẩm thực trong các giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam
1.2.1. Đề tài ẩm thực trong văn học dân gian Việt Nam
1.2.2. Đề tài ẩm thực trong văn học trung đại
1.2.3. Đề tài ẩm thực trong văn học hiện đại và đương đại
Chương 2: ẨM THỰC TRONG TÙY BÚT VŨ BẰNG
2.1. Một số vấn đề về thể tùy bút và việc xác định thể loại các tác phẩm tùy bút về đề tài ẩm thực của Vũ Bằng
2.1.1. Sơ lược về thể tùy bút và một số thể loại khác thuộc loại hình ký
2.1.2. Việc xác định thể loại các tác phẩm ký mang cảm hứng ẩm thực của nhà văn Vũ Bằng
2.2. Ẩm thực, đề tài tâm huyết trong tùy bút Vũ Bằng
2.2.1. Những tác phẩm tùy bút về đề tài ẩm thực trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Bằng
2.2.2. Ẩm thực, đề tài tâm huyết trong tùy bút Vũ Bằng
2.3. Ẩm thực và hiện thực cuộc sống trong tùy bút Vũ Bằng
2.3.1. Ẩm thực, một mảng hiện thực sống động và giàu ý nghĩa trong tùy bút Vũ Bằng
2.3.2. Ẩm thực và hiện thực đất nước trong tùy bút Vũ Bằng
2.4. Ẩm thực và thế giới nội tâm của nhà văn trong tùy bút Vũ Bằng
2.4.1. Ẩm thực và tâm trạng giằng xé đầy bi kịch của một số phận nhiều ngang trái
2.4.2. Ẩm thực và tình yêu thiêng liêng với quê hương, đất nước
2.4.3. Ẩm thực và tình cảm sâu nặng với gia đình
2.4.4. Ẩm thực và những ân tình gặp gỡ trong một cuộc đời nhiều bôn ba
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN TỪ VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT VỀ ĐỀ TÀI ẨM THỰC CỦA VŨ BẰNG
3.1.Ngôn từ giàu cảm giác, cảm xúc
3.1.1. Tính từ xuất hiện với tần suất cao trong câu văn miêu tả về ẩm thực
3.1.2. Hình ảnh so sánh gợi cảm
3.2.Giọng điệu giàu tính trò chuyện, đối thoại
3.2.1. Những cuộc trò chuyện có thật trong quá khứ được tái hiện trong trong tác phẩm
3.2.2. Những cuộc trò chuyện được dựng lên trong tâm tưởng
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
162 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2515 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ẩm thực trong tùy bút Vũ Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i, nên nay nghĩ làm món này, mai kiếm trái cây nọ để
cho người anh lạc bước ngồi trông mây Tần uống rượu, họa có quên đi được chút
lòng sầu xứ nào chăng… Một món ăn như thế ngon một mà thành ra ngon ngàn, ý
nhị, đậm đà, bát ngát. Ăn như thế là ăn cả một tấm lòng thương yêu của người đẹp
viễn phương gửi về hoa bướm của xứ sở mình vào đó, gửi cả hồn trinh bạch của
mình vào đó… nghìn đời muôn thuở bao giờ mà quên đi cho được.” [74, tr.679].
130
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN TỪ VÀ GIỌNG ĐIỆU
NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT VỀ ĐỀ TÀI ẨM THỰC
CỦA VŨ BẰNG
3.1. Ngôn từ giàu cảm giác, cảm xúc
Tính giàu cảm giác, cảm xúc là đặc trưng của ngôn từ trong các tác phẩm tùy
bút nói chung. Với tùy bút về đề tài ẩm thực của Vũ Bằng, đặc trưng này càng được
thể hiện rõ nét hơn, khiến cho bạn đọc thật sự có cảm giác mỗi trang văn vừa là một
bàn tiệc hấp dẫn, vừa là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế và cảm động. Nhà văn Vũ
Bằng có nhiều cách để tạo nên sự gợi cảm cho ngôn từ trong những trang viết giới
thiệu về ẩm thực của mình, song trong phạm vi của luận văn, chúng tôi xin đi vào
tìm hiểu hai phương diện, đó là sự gợi cảm của từ ngữ và biện pháp tu từ nghệ
thuật. Qua đó, luận văn nhận thấy, về từ ngữ, nhà văn Vũ Bằng đã sử dụng một số
lượng tính từ rất phong phú, với tần suất xuất hiện cao trong câu văn; về biện pháp
tu từ, biện pháp so sánh được vận dụng rất hiệu quả với những hình ảnh đặc sắc,
trong đó, có hai kiểu hình ảnh so sánh lặp đi lặp lại như một sáng tạo độc đáo riêng
biệt trong tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng là hình ảnh người phụ nữ và hình ảnh
tình nhân, đôi lứa.
3.1.1.Tính từ xuất hiện với tần suất cao trong câu văn miêu tả về ẩm thực
Tùy bút về đề tài ẩm thực thường sử dụng một số lượng tính từ rất phong phú
nhằm khơi gợi sự hình dung của bạn đọc về hương vị của những món ngon. Ba tập
tùy bút của Vũ Bằng giới thiệu đến bạn đọc một số lượng khá lớn những thức quà
ẩm thực cùng với sự phân tích tỉ mỉ đến kỳ công, vì thế tần suất xuất hiện của các
tính từ trong tác phẩm là rất lớn. Nhưng cũng vì vậy mà có một điều hạn chế là nếu
đọc một lúc cả ba tập tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng, đôi khi người đọc sẽ có cảm
giác một số từ, tổ hợp từ bị lặp đi lặp lại khá nhiều. Có lẽ đó cũng là điều khó tránh
khỏi khi ba tác phẩm được viết trong một thời gian khá dài chỉ xoay quanh những vị
ngọt, hương thơm. Song điều quan trọng là từng bài viết của nhà văn đã thực sự
mang lại cho người đọc những ăm ắp cảm xúc, cảm giác đầy ấn tượng với một sự
hình dung chi tiết và đầy thú vị về những thức quà quen và cả chưa quen. Cảm giác,
131
cảm xúc đó được mang đến từ những câu văn có tần suất xuất hiện cao, đôi lúc gần
như là dày đặc của các tính từ giàu màu sắc biểu cảm.
3.1.1.1. Tính từ xuất hiện trong những câu văn có chủ ngữ là tổ hợp “cái +
tính từ” và các thành phần khác trong câu như vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ…
cũng là những tính từ
Vũ Bằng không chỉ chỉ ra hay liệt kê một cách chung chung mùi vị của
những thức quà mà còn phân tích tỉ mỉ từng mùi thơm, vị ngọt của chúng. Trong
những trang văn viết về ẩm thực của Vũ Bằng, ta bắt gặp nhiều câu văn sử dụng
hiện tượng danh từ hóa tính từ bằng cách dùng tổ hợp “cái + tính từ”, để rồi từ đó
nhà văn phân tích một cách tỉ mỉ đặc trưng, tính chất, hương vị của các món ngon.
Các tổ hợp tính từ được danh từ hóa đó sẽ đóng vai trò là chủ ngữ nòng cốt hay chủ
ngữ thành phần của câu (vì câu văn trong tùy bút Vũ Bằng thương dài và nhiều vế),
kết hợp với những vị ngữ nòng cốt hay vị ngữ thành phần, hoặc các thành phần phụ
khác như bổ ngữ, định ngữ… cũng là một hay nhiều tính từ khiến cho người đọc có
cảm giác câu văn tần suất xuất hiện của tính từ là rất cao, song không gây cảm giác
thừa thãi, vì nó phân tích một cách tinh tế và chính xác đến tận cùng những cảm
giác vi diệu mà những vị ngọt, hương thơm mang lại.
Ta có thể bắt gặp rất nhiều câu văn như thế trong ba tập tùy bút của Vũ
Bằng, một số ví dụ tiêu biểu như:
-… cái mát đó // quả thực là một cái mát Đông phương,/ thâm trầm và hiền
lành, chứ không rực rỡ hay kêu gào ầm ĩ. [74, tr.448]
-Nhưng đây // là một cái ngọt / chất phác của đồng ruộng, một cái ngọt /
thật thanh, một cái ngọt / khác hẳn với cái ngọt của bún bung hơi ngậy.
[74, tr.512].
-Cái ngon của nó // dịu hiền, óng mướt, nhưng đối với một số người thì có
lẽ như thế có ý hơi thanh nhã quá…[74, tr.438]
-Ngô tẻ // ăn hơi bứ, ngọt một cái ngọt hơi sắt, nhưng ngô nếp // thì mềm,
nhai cứ lừ răng đi, mà cái ngọt của nó / thì trinh tiết quá. [74, tr.491]
132
3.1.1.2. Tính từ xuất hiện trong những câu văn là câu đơn có nhiều vị ngữ
mà các đồng vị ngữ trung tâm đều là tính từ
Nhà văn Vũ Bằng luôn nhìn những thức quà như những con người sống động
với sự tổng hòa của nhiều mặt, nhiều tính cách đôi khi tương hợp, đôi khi đầy mâu
thuẫn. Vì vậy, khi miêu tả một thức quà nào đó, nhà văn có xu hướng dung nhiều
tính từ để phác họa cho đầy đủ hương vị đặc trưng của nó. Khi đó, nhà văn sử dụng
những câu văn có nhiều đồng vị ngữ (vị ngữ nòng cốt hoặc vị ngữ thành phần câu)
mà tất cả chúng đều là những tính từ. Những câu văn như thế góp phần đem lại cho
bạn đọc những trang văn giàu cảm giác và cảm xúc hơn.
Như đã nói, những “tính cách” của thức quà trong tùy bút Vũ Bằng đôi khi
tương hợp, đôi khi đầy mâu thuẫn, vì vậy để miêu tả chúng những câu văn có nhiều
đồng vị ngữ mà các vị ngữ trung tâm là các tính từ lại phân thành hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất là những câu văn có nhiều vị ngữ mà các đồng vị ngữ
trung tâm là những tính từ chỉ tính chất tương hợp nhau. Ví dụ:
-Cái cùi nhãn / trắng như ngà, mà dày, mà thơm, mà lại ngọt như đường
phèn, // làm cho ta thoạt đầu chỉ muốn giữ nguyên ở lưỡi, vì sợ nuốt vội thì phí quá.
[74, tr.119]
-Cầm một miếng, dầm vào chén nước chấm rồi đưa lên miệng, ta // sẽ thấy
cả một sự tiết tấu nhịp nhàng của bánh thơm dịu hòa với nước chấm / dịu hiền,
không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá. [74, tr.437]
-Phải chờ cho bánh hơi nguội đi một chút, rưới mật lên trên, cái đẹp và ngon
của bánh // mới đi đến chỗ tuyệt đích và người ta //mới cảm thấy hết cả cái sướng ở
đời được ăn một thứ bánh / bùi, béo, ngọt, cứ lừ đi, mà trôi đến cuống họng lại
thơm phưng phức! [74, tr.457]
-Nhưng đến khi liều chết, húp thử vài miếng xem sao thì mình // cũng thấy nó
có một hương vị lạ, ngon ngọt, thơm thơm, man mác như thể thịt có ướp hoa
bưởi vậy. [74, tr.640]
-Hạt cơm // trong muốt, trắng tinh, ong óng như con ong, có khói bốc lên
thơm ngào ngạt. [74, tr.194]
133
Trường hợp thứ hai là những câu văn có nhiều vị ngữ mà các đồng vị ngữ
trung tâm là các tính từ chỉ tính chất trái ngược nhau. Ví dụ:
-Một thứ thì // mềm mà thanh, một thứ thì // nục nạc mà lại giòn,// tạo ra
một mâu thuẫn cũng hơi là lạ. [74, tr.438]
-Mỡ đó vào lửa bốc lên thành khói, khói đó quyện lấy chả,// tạo ra một mùi
vị / không tiền khoáng hậu, thơm phưng phức nhưng không thô, thanh thoát cao
sang mà vẫn gần nhân loại. [74, tr.526]
-Đó là // một món tựa như giò mà cũng tựa như ruốc viên, trng có bì, ăn sậm
sựt và điểm một chút nước / rất thanh, ngọt mà thơm thoang thoảng chớ không
sắt lại như nước thịt bò viên hay nước lèo bánh xếp. [74, tr.563]
3.1.1.3. Tính từ xuất hiện trong những câu văn là câu ghép đẳng lập gồm
nhiều vế mà các vế câu đều có vị ngữ là những tính từ
Nhà văn Vũ Bằng rất chuộng sử dụng những câu ghép đẳng lập nhiều vế mà
các vế câu đều có vị ngữ là những tính từ. Chủ ngữ của các câu văn như thế thường
là những thức quà trên cùng một bàn tiệc hay là những thời trân cùng một mùa, một
tháng trong năm, hoặc là những nguyên vật liệu, đôi khi là từng phần của một món
ngon nào đó. Mỗi thức quà, mỗi nguyên vật liệu, hay mỗi một phần của món ngon
đều có những mùi vị, tính chất riêng biệt được diễn tả bằng những tính từ khác
nhau. Những câu văn như thế cho người đọc cảm giác thế giới ẩm thực trong trang
sách Vũ Bằng thật đông đúc và phong phú hương vị, khơi gợi sự khám phá, tìm
hiểu không tận.
Một số câu văn tiêu biểu ta có thể liệt kê như:
-Đậu // mềm, tương// ngọt, bánh đúc // mỡ màng… [74, tr.451]
-Gan // thì ngòn ngọt mà lại đăng đắng, ăn vào với rau mùi lại thấy thơm
thơm; tim // nhai vào trong miệng mềm cứ lừ đi; cổ hũ // giòn tanh tách; lòng
tràng // sậm sựt; còn ruột non // thì quả là đáo để; mới cắn tưởng là dai nhưng kỳ
thực lại là mềm, ăn vào cứ lo nó đắng thành thử đến lúc thấy nó ngọt và bùi thì
cái bùi và cái ngọt đấy lại càng giá trị. [74, tr.538]
134
-Mùi bún chả // thơm, mùi nem nướng // ngậy, mùi chả cá // hơi tanh
nhưng bùi làm khoan khoái khứu giác ta. Trong khi thị giác ta // được thỏa thê
với những đĩa đậu rán / vàng óng ánh, những đĩa giò / trắng cứ mịn đi, những
ngọn rau muống chẻ nhỏ / xanh muôn muốt xen với tía tô / hung hung vàng,
những bát bung / rực rỡ như gấm dệt, những bát bún riêu / nghi ngút khói…
[74, tr.561]
3.1.2. Hình ảnh so sánh gợi cảm
Có thể nói rằng biện pháp so sánh là một biện pháp tu từ đem lại hiệu quả tối
ưu trong việc khơi gợi sự hình dung và cảm nhận về những món ăn ngon. Như các
nhà văn hóa đã nói, người Việt thưởng thức món ngon bằng ngũ quan, và vì vậy
chính những hình ảnh so sánh là cách để các nhà văn chuyển tải một cách cụ thể,
trực tiếp những cảm giác của ngũ quan với những món ngon đến bạn đọc. Bên cạnh
hệ thống các ngữ so sánh cố định khá phong phú của tiếng Việt (đỏ như son, thơm
như mít, ngọt như mật, giòn như pháo nổ… ), các nhà văn chuyên viết về đề tài ẩm
thực đã sáng tạo rất nhiều hình ảnh so sánh đặc sắc, vừa có khả năng cụ thể hóa,
liên tưởng hóa cảm giác, vừa tạo nên vẻ đẹp đặc sắc cho ngôn từ của tác phẩm.
Người đọc khó có thể quên những hình ảnh so sánh xác đáng mà đầy bất ngờ như
cái vị “thoảng nhẹ như một nghi ngờ” của cà cuống trong tác phẩm của Thạch Lam
hay cái tươi dẻo “như một lời mời dịu đậm thơm thảo” của cốm Vòng trong tùy bút
Nguyễn Tuân.
Nhà văn Vũ Bằng cũng đã sáng tạo rất nhiều hình ảnh so sánh đặc sắc, đem
lại một hiệu quả thẩm mỹ thuyết phục. Hầu như khi giới thiệu về hương vị một thức
quà nào đó, nhà văn đều có những liên tưởng so sánh, để lại một ấn tượng sâu sắc
với bạn đọc.
Song điều đặc biệt là trong số rất nhiều những hình ảnh so sánh đầy sáng tạo
ở ba tập tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng, chúng ta nhận thấy nhà văn có riêng cho
mình ba kiểu hình ảnh so sánh rất gợi cảm, lặp đi lặp lại như một dạng “môtíp” của
văn học dân gian . Đó là một loạt những hình ảnh so sánh đặc tả hương vị, sự hấp
dẫn của món ngon với hình dáng, vẻ đẹp của người phụ nữ; một loạt những hình
135
ảnh so sánh sự tương hợp hương vị của các món ngon hay các nguyên vật liệu làm
nên món ngon với sự quấn quít, hòa quyện của tình nhân, trai gái; và một loạt các
hình ảnh so sánh cảm giác thưởng thức ẩm thực với cảm giác rung động của tình
yêu đôi lứa. Các hình ảnh so sánh này lặp đi lặp lại nhiều lần trong ba tập tùy bút,
mỗi lần đều có sự biến tấu sáng tạo song rõ ràng đã quy thành ba “môtíp” nêu trên,
làm thành một nét thú vị đặc biệt trong sự gợi cảm ngôn từ của tùy bút ẩm thực Vũ
Bằng cũng như tạo nên sự sinh động đầy nhân bản của thế giới những món ngon
trong trang sách của nhà văn.
3.1.2.1. Hình ảnh so sánh hương vị, sự hấp dẫn của ẩm thực và hình
dáng, vẻ đẹp của người phụ nữ
Với hầu hết những ai yêu chuộng cái Đẹp thì vẻ đẹp của người phụ nữ vẫn
được hướng đến như là một trong những biểu hiện hoàn hảo nhất, một trong những
thước đo, chuẩn mực cho cái Đẹp trong đời sống. Nhà văn của “Thương nhớ mười
hai” cũng là người say mê cái Đẹp nói chung và vẻ đẹp của người phụ nữ nói riêng.
Nhưng với ông, bên cạnh vẻ đẹp, sự quyến rũ của người phụ nữ, cuộc sống còn ban
tặng cho con người vẻ đẹp và sự hấp dẫn của những của những thức quà ngọt ngon,
thơm thảo. Song cũng bởi vẻ đẹp của người phụ nữ vẫn luôn là một khát khao, một
chuẩn mực để hướng đến nên nhà văn có khuynh hướng dùng hình ảnh người phụ
nữ làm một hình ảnh quen thuộc trong các phép so sánh nhằm nhấn mạnh sự hấp
dẫn của hương vị ẩm thực.
Điều đặc biệt là hình ảnh so sánh này mặc dù trở đi trở lại nhiều lần trong ba
tập tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng song không gây cho người đọc cảm giác nhàm
chán, mà ngược lại đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự gợi cảm
thú vị, gần như là một ấn tượng riêng cho những trang văn ẩm thực của Vũ Bằng.
Bởi lẽ cùng một công thức so sánh vế so sánh là những thức quà ẩm thực, vế được
so sánh là vẻ đẹp người phụ nữ song mỗi một lần lại có một sự biến tấu sáng tạo
khi những thức quà là khác nhau được cảm nhận ở những sắc màu, mùi vị khác
nhau và vẻ đẹp của người phụ nữ mỗi lần cũng được khai thác ở một phương diện
khác nhau. Đôi khi biện pháp so sánh không được nhà văn sử dụng nhằm mục đích
136
ca ngợi, mà ngược lại là hàm ý chê bai, bởi lẽ không phải vẻ đẹp của người phụ nữ
nào cũng vừa mắt mọi người, cũng phù hợp với quan niệm thẩm mỹ của tác giả,
cũng như không phải hương vị thức quà nào cũng vừa miệng người thưởng thức.
Trong những trang viết của mình, một đôi lần nhà văn Vũ Bằng đã sử dụng biện
pháp so sánh theo cách nói trên với hàm ý chê bai, song hầu hết đều dành để nói đến
những thức quà lai căng, ngoại nhập như một sự bảo thủ đáng được thông cảm của
một người Việt Nam yêu chuộng những hương vị đậm đà của dân tộc đang sống
những ngày đất nước gánh chịu nỗi đau đớn xâm lăng. Đôi khi, hình ảnh những
người phụ nữ đẹp song vô duyên cũng được dù ng để so sánh với những món ngon
song vì sơ sẩy mà chế biến không đúng cách, không đủ hương, đủ vị.
Dưới đây, luận văn thống kê một số trường hợp Vũ Bằng sử dụng biện pháp
so sánh hình dáng, vẻ đẹp của người phụ nữ và hương vị, sự hấp dẫn của món ngon
nhằm thấy sự sáng tạo phong phú của nhà văn khi sử dụng “môtíp” so sánh đặc biệt
này.
Vế so sánh Vế được so sánh
những sợi lông tơ óng ánh trên khắp
mình đào ưng ửng hồng
lông tơ trên mặt cô gái dậy thì [74, tr.42]
phong vị bát phở gà phong vị của một nàng con gái thanh tân
[74, tr.433]
ở trong thúng, bánh được xếp thành lớp
như kiểu bực thang, trên những lá chuối
xanh trong màu ngọc thạch, sắc trắng
của bánh nổi lên nhưng nổi lên một cách
hiền lành
những người con gái bé nhỏ đứng ở dưới
tầu tiêu, đẹp một cách kín đáo và lành
mạnh [74, tr.436]
cái ngon thoang thoảng của dư vị bánh
cuốn cụ Còng
da thịt của một người đàn bà đẹp vừa gội
đầu bằng nước lá mùi [74, tr.444]
bánh đúc chấm tương, trông mịn mặt,
chung quanh mỏng, giữa phồng
da thịt của một người đàn bà đẹp vừa
mới tắm [74, tr.450]
137
cái ngon “ra rít” của bánh Xuân Cầu da thịt cô gái quê đẹp mê mệt, đẹp lành
mạnh, lâm ly [74, tr.457]
cái ngon của bánh bìa Tầu, bánh đậu đen
Nhật, bánh bằng bơ, pho mát, hạnh nhân
và săng-ti-y của Tây
cô gái tỉnh thành xanh xao và bịnh hoạn
chỉ được cái tô môi son đẹp và bộ áo
may vừa khít với một giá đắt tiền
[74, tr.457]
mắm rươi ăn với tôm he bông không có
rau cần và cải cúc
người đàn bà đẹp mà vô duyên, tẻ lắm
[74, tr.485]
những cái bắp căng nhựa sống trắng
ngần nổi lên trên những ruộng ngô bát
ngát
da thịt những cô gái dậy thì, trắng, nõn
nà [74, tr.490]
vị ngọt thoang thoảng của bắp ngô nếp
nướng vừa chín tới
sữa của một cô thôn nữ lành mạnh
[74, tr.490]
ngô rang người đẹp ác liệt duyên bong cả ra ngoài
[74, tr.491]
ngô luộc cô gái nhu mì duyên thầm lẩn bên trong
[74, tr.491]
cái thơm ngon của tiết canh khi vào đến
cổ họng
một thiếu nữ chỉ phát triển hoàn toàn sau
khi đã sinh nở một lần rồi [74, tr.539]
tiết canh đẹp một cách lộng lẫy, rực rỡ,
não nùng
người con gái dậy thì [74, tr.540]
màu đỏ tươi hơn hớn của tiết bật lên
trong bên trên, với lạc giã nhỏ
làn da thơm mát ngạt ngào của một thiếu
nữ đầy tràn nhựa sống [74, tr.541]
cháo lòng
người con gái mà duyên lẩn vào bên
trong chứ không bong ra bên ngoài
[74, tr.544]
mùi hương của các loại rau thơm mùi hương của người con gái đương tơ
[74, tr.155]
138
da thịt mịn màng của thịt chuột đồng thân thể ngọc ngà “dầy dầy sẵn đúc” của
cô Năm Trứng Gà – người đẹp Long
Xuyên một thuở [74, tr.595]
miếng cá trắng cứ nõn ra, trông vừa nục
nạc mà lại vừa khô ráo
một người đẹp vừa tắm nước thang lan
đi thơ thẩn trong một huê viên đầy
mộng. [74. tr.499]
mùi vị có tính duy vật của tả pí lù ăn thô
và béo quá, nước lại ngọt một cách giả
tạo; đồ lâm vố thì lai căng, lổn nhổn, còn
sà bần thì nhạt nhẽo
cô gái Việt học trường đầm, thân thể cứ
căng ra mà lại mặc một cái quần cooc se,
rất chật, đi núng na núng nính như biểu
diễn rum ba ngoài phố [74, tr.548]
hương vị thơm ngon nhè nhẹ của nồi hẩu
lốn đầy đủ nguyên liệu, thêm một ít thì
là
người đàn bà đẹp ngày Tết gội đầu với
nước lá mùi, ngồi xõa tóc trước ngọn gió
xuân dìu dịu [74, tr. 551]
thịt chuột đỏ dần lên, sau dần dần xuống
màu, trắng phau phau và láng bóng
da người trinh nữ [74, tr.595]
Nhìn vào bảng thống kê nói trên, chúng ta nhận thấy rằng, hệ thống hình ảnh
so sánh hương vị ẩm thực với hình dáng, vẻ đẹp của người phụ nữ là khá phong
phú. Song sự thành công của nhà văn không nằm ở số lượng lần vận dụng công thức
so sánh này mà chính là ở sự gợi cảm tinh tế mà hệ thống hình ảnh so sánh này
mang lại cho những trang văn, bởi lẽ được nhà văn không hề gán ghép hai vế so
sánh một cách khiên cưỡng. Trong từng cặp vế so sánh và vế được so sánh rõ ràng
có một sự tương hợp khá xác đáng. Điều đó góp phần khơi gợi một sự hình dung
nhất định của bạn đọc về những hương vị mà nhà văn muốn miêu tả, đồng thời
người đọc có cảm giác thế giới ẩm thực quả thật không hề là một thế giới vô tri vô
giác và chỉ đem lại những cảm giác cho khẩu vị hay ngũ quan thuần túy mà còn
mang lại những rung động với cái Đẹp đích thực, hay rộng hơn là cả cái Chân,
Thiện, Mỹ trong cuộc sống.
139
3.1.2.2. Hình ảnh so sánh sự tương hợp hương vị của ẩm thực với sự
quấn quít, giao hòa của tình nhân, trai gái
Hẳn ít có ai yêu cái Đẹp, yêu vẻ đẹp của người phụ nữ mà lại thờ ơ với tình
yêu. Vũ Bằng là một nhà văn chung tình song cũng rất đa tình. Với ông, lực hút
giữa “hai nửa của thế giới” luôn luôn là một lực hút kỳ diệu khó cưỡng lại. Và cũng
kỳ diệu thay, trong thế giới của ngọn rau, con cá, của những thức quà ẩm thực cũng
có những lực hút tương tự, khiến cho có những nguyên vật liệu, những thức quà khi
kết hợp với nhau tạo nên một sự đồng điệu đến bất ngờ, và để lại một dấu ấn khó
phai cho người thưởng thức, để rồi khi nghĩ đến thức quà này thì không thể không
nghĩ đến thức quà song đôi kia. Có lẽ vì cảm thấy thú vị với sự tương hợp khó lý
giải đó trong thế giới ẩm thực mà nhà văn của “Thương nhớ mười hai” đã sáng tạo
nên một hệ thống hình ảnh so sánh về sự tương hợp hương vị của ẩm thực và sự
quấn quít, giao hòa của tình nhân, trai gái.
Khác với hệ thống hình ảnh so sánh hương vị, sự hấp dẫn của những thức
quà ẩm thực và hình dáng, vẻ đẹp của người phụ nữ, mỗi một lần vận dụng là nhà
văn lại có những sáng tạo, biến tấu ở cả hai vế, vế so sánh và vế được so sánh, ở
những lần so sánh sự tương hợp hương vị ẩm thực với sự quấn quít, giao hòa của
tình nhân trai gái, ta dường như chỉ thấy sự biến đổi chủ yếu ở vế so sánh còn vế
được so sánh hầu như ít có sự biến tấu sáng tạo khác biệt. Không phải vì nhà văn
của chúng ta cạn nguồn sáng tạo, mà đơn giản vì cái lực hút tự nhiên ấy muôn đời
vẫn thế. Giữ nguyên vế được so sánh, nhà văn dường như càng khẳng định sự bất
biến của lực hút giữa hai nửa của thế giới, để thấy rằng sự tương hợp hương vị của
những thức quà cũng trở thành một sự bất biến hiển nhiên dẫu cho người ta không
thể lý giải vì sao.
Vế so sánh Vế được so sánh
rươi thiếu vỏ quit gái thiếu trai, nhất định không có cách gì
tạo nên bài thơ ý nhị [74, tr. 188]
lòng vịt xào với dứa ăn ý nhau lạ lùng,
âm dương hòa hợp
trai với gái [74, tr.121]
140
cốm Vòng và hồng trứng đôi lứa tốt đôi [74, tr.460]
vị ngọt lừ của hồng nâng mùi thơm của
cốm lên
một sự ân ái nhịp nhàng như trai gái
xứng đôi, trai gái vừa đôi [74, tr.464]
những miếng phổi và sụn, những miếng
gan, những hạt lạc rang thơm phức
quyện vào với tiết và tạo ra một mâu
thuẫn vừa nên thơ vừa mềm lừ, vừa sậm
sựt, tưởng là chống đối nhau, nhưng trái
lại, lại ăn ý với nhau
trai với gái [74, tr.540]
phần cái và nước của lẩu lốn là hai mâu
thuẫn, nhưng tài tình thay, lại hòa hợp
với nhau
trai hòa với gái, tình nhân trong một phút
yêu thương diễm ảo hòa trộn linh hồn
vào với tình nhân [74, tr.551]
Như vậy, mặc dù không có nhiều sự diễn giải biến ảo ở hình ảnh vế được so
sánh nhưng người đọc vẫn cảm thấy thích thú mỗi làn nhà văn vận dụng biện pháp
so sánh theo cách như trên, nó khiến cho người ta thú vị với phát hiện so sánh của
nhà văn, và chợt nhận ra thế giới của những thức quà, hương vị hóa ra cũng thật
sống động, có hồn và có tình đến thế. Để rồi, nhiều lúc ăn một miếng ngon, ta cảm
thấy thích thú và trân trọng hơn, bởi lẽ dường như ta đang thưởng thức một mối
nhân duyên của đất trời.
3.1.2.2. Hình ảnh so sánh cảm giác thưởng thức ẩm thực và cảm giác
rung động của tình yêu đôi lứa
Lực hút giữa hai nửa của thế giới thì muôn đời vẫn thế, như một quy luật bất
biến song mỗi một lần nó xảy ra thì lại đem đến những xúc cảm, những rung động
rất khác nhau, ở những khoảnh khắc khác nhau của một cuộc tình duyên. Cũng như
ẩm thực luôn mang đến cho con người ta khoái khẩu, song mỗi thức quà khác nhau,
trong những hoàn cảnh thưởng thức khác nhau lại đem đến cho con người ta những
cảm nhận khác biệt. Tinh tế và nhạy cảm, nhà văn Vũ Bằng không chỉ cảm nhận ẩm
thực bằng những giác quan trực tiếp thuần túy mà còn bằng tâm hồn, trái tim mình
141
cùng những nỗi niềm riêng, vì vậy, ông tìm thấy có một sự tương đồng của cảm
giác thăng hoa khi ân ái yêu đương và khi thưởng thức những thức quà ngon ngọt.
Và một lần nữa, Vũ Bằng lại sáng tạo cho riêng mình một hệ thống hình ảnh so
sánh độc đáo, góp phần chuyển tải đến bạn đọc những cảm nhận đặc biệt về thế giới
ẩm thực, đồng thời, làm giàu hơn sự gợi cảm cho những trang tùy bút của mình.
Vế so sánh Vế được so sánh
ăn một bát phở nghe thấy một câu nói hữu tình của
người yêu [74, tr.428]
ăn một bát phở sau một thời gian xa cách, được ngả vào
trong tay một người vợ đẹp mà lại đa
tình [74. tr.432]
lấy ngón tay nhón từng chiếc bánh cuốn
óng ả, mềm mại đưa lên, cho khẽ chạm
lấy môi ta
một cái hôn yêu trong buổi trao duyên
thứ nhất [74, tr.436]
cái ngon ngọt có ý triền miên của chiếc
bánh Xuân Cầu rưới mật
cái buồn lả lướt, phảng phất đâu đây của
đức vua Đường thương nhớ người đẹp
họ Dương [74, tr.48]
cái thơm dìu dịu của ngô luộc lời hò hẹn của hoa bưởi nở bên những
ngôi miếu thần linh [74, tr.491]
cốm và hồng ăn vào miệng, nhuyễn với
nhau, vừa thơm, vừa ngọt, vừa bùi
thịt ướp lấy thịt, da ướp lấy da để hòa
làm một [74, tr.187]
gắp một miếng đuông đưa lên môi một cuộc mạo hiểm diễm kỳ và mới lạ
với một người thương mới quen biết
trong hương ngát của hoa đồng cỏ nội
[74, tr.638]
ăn một bữa rươi trái mùa được đặc hưởng ân tình với một người
đẹp ở một nơi u tịch, không ai hay biết
[74, tr.483]
142
Hệ thống hình ảnh so sánh này trong ba tập tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng
có số lượng không thật nhiều song dường như đây lại là những hình ảnh gợi cảm
nhất, gây một ấn tượng thẩm mỹ độc đáo hơn cả với bạn đọc, đồng thời dường như
nó có thể khiến cho những ai còn chưa thật sự lưu tâm đến câu chuyện của ngọn
rau, con cá nói chung và những trang văn về ẩm thực nói riêng phải bớt đi sự thờ ơ
của mình, bởi lẽ, ẩm thực đâu chỉ đơn thuần là vị giác và văn chương về đề tài ẩm
thực, đâu phải chỉ là chuyện con cá, ngọn rau, đâu thiếu sự nên thơ, tình tứ và gợi
cảm.
3.2. Giọng điệu giàu tính trò chuyện, đối thoại
Văn xuôi Vũ Bằng nói chung có giọng điệu thủ thỉ, tâm tình. Ở các tác phẩm
tùy bút, đặc biệt là ba tập tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng, điều này càng được thể
hiện rõ nét. Không khí đối thoại trong tùy bút ẩm thực của Vũ Bằng được tạo nên
bởi rất nhiều khía cạnh, như tần suất xuất hiện rất cao của những câu hỏi tu từ,
những câu văn cảm thán, lời gọi đáp… song rõ nét nhất vẫn là ở những cuộc trò
chuyện, đối thoại được lồng ghép trong tác phẩm. Nhà văn không giới thiệu những
thức quà, hương vị một cách khách quan như trình bày một sự hiểu biết chung
chung mà mang đến cho bạn đọc những bữa cơm, bữa gặp mặt ấm cúng, thân mật
với những cuộc trò chuyện tâm tình quanh những món ngon đậm đà hương vị. Đó là
những cuộc trò chuyện hướng đến bạn đọc hay những cuộc trò chuyện được tường
thuật lại và cả những cuộc trò chuyện trong tâm tưởng vọng về những người thân
thương đã xa vắng của tác giả.
3.2.1. Những cuộc trò chuyện có thật trong quá khứ được tái hiện trong
trong tác phẩm
Hầu hết các tùy bút, bút ký về đề tài ẩm thực thường được trình bày như một
bài giới thiệu, cảm nhận của nhà văn mà ở đó ít hay thậm chí hoàn toàn không có sự
xuất hiện của những đoạn hội thoại, trò chuyện trực tiếp. Song trong ba tập tùy bút
về ẩm thực của Vũ Bằng, chúng ta bắt gặp rất nhiều đoạn đối thoại trực tiếp giữa
nhà văn với vợ con, người thân, bè bạn… Bởi lẽ, những thức quà ẩm thực được giới
thiệu đến với bạn đọc không phải chỉ là những món ngon một cách chung chung,
143
mà đó là những miếng ngon cụ thể, gắn liền với những kỷ niệm, những mâm cơm
ấm áp. Hoàn cảnh sống nhiều trái ngang và bi kịch khiến cho tâm trí nhà văn
thường ngoái nhìn về quá khứ hơn là sống với hiện tại. Và trong miền hoài niệm vời
vợi của nhà văn, có một không gian không nhỏ dành cho những bữa cơm sum vầy,
họp mặt. Ở đó, hương vị của những miếng ngon khiến cho những lời tâm tình, sẻ
chia, thủ thỉ trong những bữa ăn, những buổi gặp gỡ dường như ngọt ngào, thiết tha
hay sôi nổi hơn. Ngược lại, chính những lời tâm tình, thủ thỉ, sẻ chia dường như
cũng lại khiến cho hương vị những thức quà thêm ngon ngọt, đậm đà đến khó quên.
Và cứ thế, hương vị những món ngon và những lời tâm tình thủ thỉ, cứ song hành
hiện lên trong tâm trí nhà văn mỗi khi lần tìm về kỷ niệm.
Qua ba tập tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng, ta lắng nghe được những cuộc
trò chuyện trong quá khứ được hồi tưởng lại là những cuộc trò chuyện của tác giả
với vợ con ở miền Bắc, người vợ miền Nam, những bạn bè thân quen, trong đó có
những bằng hữu ở cả hai miền Nam Bắc và những người em gái nhỏ mà nhà văn
vướng víu ân tình. Điểm qua ba tập tùy bút về ẩm thực của nhà văn, ta thấy số
lượng những cuộc trò chuyện đối thoại trong quá khứ được tái hiện trong tác phẩm
như sau:
-Những cuộc trò chuyện với người vợ và các con ở miền Bắc: 23
-Những cuộc trò chuyện với người vợ miền Nam: 3
-Những cuộc trò chuyện với bằng hữu và những “người em gái nhỏ” ở hai
miền Nam Bắc:10
Hầu hết những cuộc trò chuyện này không phải được gợi lại một cách ngẫu
nhiên mà ít nhiều nó đều có những liên hệ với việc chuyển tải cảm giác về những
thức quà ngon ngọt. Những món ngon Hà thành vốn lịch lãm, chuẩn mực với hương
vị thường đậm đà song thanh nhã dường như lại càng thêm thắm đượm cái đặc
trưng ấy của mình bởi những cuộc trò chuyện tha thiết ân tình của nhà văn và người
vợ tấm mẳn hiền lành, đã có với nhau mấy mặt con mà vẫn “tương kính như tân”.
Ta có thể thấy rõ điều ấy qua những cuộc trò chuyện của nhà văn với người vợ tên
Quỳ quanh chén trà mạn sen, bữa chả cá anh vũ, nồi cơm gạo mới thơm nồng thổi
144
vừa khéo, những thức quà cố hữu không thể thiếu trong ba ngày Tết… Những lời
nói được thuật lại trực tiếp nghe thật hạnh phúc, vui tươi nhưng đặt trong hoàn cảnh
hiện thực của tác giả, người đọc cứ thấy sao ngậm ngùi, thương cảm, để rồi thấy
thương hơn, quý hơn những món ngon miền Bắc dẫu có thể đến cái tên món ăn
nghe cũng còn lạ lẫm.
Những đoạn đối thoại của nhà văn với người vợ miền Nam không nhiều,
song ba cuộc trò chuyện được tái hiện là ba cuộc trò chuyện xuyên suốt các bài viết
giới thiệu những món lạ miền Nam, những món ăn đơn sơ song làm người ta
thương nhớ như người vợ miền Nam ngây thơ, thành thật với những lời nói mộc
mạc, đôi lúc tựa như trẻ con song ấm áp nghĩa tình. Những món khô sặc, khô cá,
khô nai… nghe cái tên đã thấy khô khan khó nuốt, vậy mà câu chuyện về chúng lại
thấm đẫm ân tình bởi những lời thổ lộ mộc mạc của người vợ miền Nam, thương
cảm những con người ngày đêm hiểm nguy nơi đầu con sóng và một tuổi thơ đầy
thiếu thốn, khổ cực của chính mình.
Những đoạn đối thoại của nhà văn với bằng hữu được tái hiện trong ba tập
tùy bút chủ yếu là những đoạn đối thoại với những người đàn ông Nam bộ chất
phác, hào sảng. Lời nói của họ nổi sôi, có chút gì đó ngang tàng, dường như làm bật
lên hơn hương vị hấp dẫn lạ lùng của những món ngon thấm đẫm tính khai hoang
của miền sông nước phương Nam như đuông, như bò kiến…
Tất cả những cuộc trò chuyện ấy dường như cũng trở thành một thứ gia vị
tương hợp của những món ngon, những mâm cơm sum họp. Nó làm cho những bài
viết về ẩm thực trở nên sinh động hơn, không còn là sự trình bày, giới thiệu chung
chung mà có một sự lôi cuốn thú vị đối với bạn đọc.
Song bên cạnh những cuộc trò chuyện hiện thực, tính đối thoại trong tùy bút
về ẩm thực của Vũ Bằng còn bật lên từ những cuộc trò chuyện trong tâm tưởng
vọng về những người thân thương đã xa cách hay hướng về bạn đọc.
3.2.2. Những cuộc trò chuyện được dựng lên trong tâm tưởng
Nếu như những cuộc trò chuyện trong hiện thực được dựng lại trong tác
phẩm thường là những đoạn hội thoại dài nhiều lượt lời trao đổi thì những cuộc trò
145
chuyện trong tâm tưởng thường chỉ là lời độc thoại của tác giả. Song hiệu quả thẩm
mỹ của chúng thì dường như lại tỉ lệ nghịch với độ ngắn dài của chúng. Chỉ một
tiếng gọi vọng về người thương đã cách xa, một lời thủ thỉ tâm tình tưởng tượng với
những bằng hữu đã lâu không gặp cũng đủ khiến người đọc ngậm ngùi. Và đặc biệt,
người đọc có cảm giác mình được nhà văn trực tiếp cầm tay đi vào thế giới của tác
phẩm, của những món ngon hương lạ qua những lời nói thân mật, sẻ chia mà nhà
văn tực tiếp hướng về độc giả.
3.2.2.1. Những cuộc trò chuyện trong tâm tưởng của nhà văn với những
người thân đã xa cách
Trong ba tập tùy bút của mình, đã có đến hơn 20 lần nhà văn Vũ Bằng bật
lên những lời tâm tình trong tâm trí hướng về những người thân, bè bạn dù họ
không hiện diện trước mắt. Đó là những lời trò chuyện trong tâm tưởng với vợ con
ở miền Bắc (10 lần), bạn bè bằng hữu và những người em gái nhỏ (14 lần).
Và cũng như những đoạn đối thoại trực tiếp, những lời thủ thỉ, tâm tình trong
tâm tưởng ấy cũng là một thứ gia vị đặc biệt cho những thức quà mà nhà văn giới
thiệu đến với bạn đọc. Nó gia vào những miếng ngon miền Bắc hương nhớ vị
thương:
“Em ơi, cứ niệm nam vô như thế, ở bên em quả thực anh không thấy mệt…
Em khấn trời khấn Phật cho vợ chồng ta được sống với nhau đến bạc đầu, dù đói
khổ thế nào cũng cam. Anh tin rằng niệm nam vô đi hết hang này động nọ không
thấm mệt thì khấn Trời khấn Phật cho vợ chồng được sống bên nhau cũng được trời
phật chứng giám…Ngờ đâu, ngờ đâu chiến tranh lại làm cho bao nhiêu gia đình tan
nát, bao nhiêu lứa đôi chia lìa, bao nhiêu lệ rơi máu chảy, làm cho người xa nhà
thui mất cả hy vọng được trở về nơi cố lý, uống lại chén trà thủy tiên, nhìn những
người thân mến cũ và ngâm với người thương khúc mạc ai.” [74, tr.51].
Nó bắc một nhịp cầu giữa hai nền văn hóa ẩm thực Bắc Nam. Nhịp cầu ấy có
phần chênh vênh vì sự bất công của kẻ sầu thiên lý. Có lẽ vì vậy mà nhà văn đã làm
mềm hóa sự bất công đó đi bằng lời thủ thỉ tâm tình tưởng tượng với “người em gái
nhỏ” miền Nam:
146
“Bánh đây là bánh tôm - nhưng kỳ lạ lắm cô Năm à – nói cô đừng buồn chứ
quả thực là tôi thấy cái bánh tôm chiên bán ở tiệm, ở quán, ở chợ trong mười một
quận đô thành nó vẫn cứ thế nào chứ không như cái bánh tôm ở đường Cổ Ngư Hà
Nội.” [74, tr.98].
Những bàn tiệc kỷ niệm dọn lên trong tâm tưởng, cùng với những lời nói
trong tâm tưởng vọng về kỷ niệm như thế cứ đan cài với nhau đem đến nhiều cảm
động cho bạn đọc. Đồng thời, người đọc có cảm giác mình và nhà văn thật gần gũi
khi được nghe từ ông những lời nói thầm kín riêng tư, thế nên làm sao không mến,
không thương những thức quà mà nhà văn thưởng đãi?
3.2.2.2. Những lời đối thoại, trò chuyện hướng đến bạn đọc
Có thể nói rằng Vũ Bằng là nhà văn tạo ra không khí đối thoại với bạn đọc rõ
nét nhất trong những nhà văn viết ký nói chung và những nhà văn sáng tác về ẩm
thực nói riêng. Nhà văn nhớ đến bạn đọc và đưa bạn đọc trực tiếp bước vào tác
phẩm của mình qua những lời đối thoại, trò chuyện giao lưu thật tự nhiên và có
phần duyên dáng. Đọc khoảng 15 lời đối thoại hướng đến độc giả trong những trang
văn viết về ẩm thực, ta có cảm giác nhà văn như một gia chủ hiếu khách trong
những bữa tiệc ngon lành mà thực khách ở đây chính là người đọc.
Nhà văn có rất nhiều cách để gọi độc giả vào trong tác phẩm của mình. Có
khi đó là dùng đại từ “ai” phiếm chỉ vu vơ như bạn đọc đang ngồi trực tiếp chung
quanh, có khi hướng đến một lớp độc giả nào đó, hoặc những người đồng cảnh ngộ
phiêu dạt nơi đất khách quê người, hoặc những chị em phụ nữ có bàn tay khéo léo
bày sắp những bữa cơm ngon canh ngọt, đôi khi lại hóm hỉnh gọi bạn đọc là “người
bạn háu ăn” hay gọi một loạt những cái tên cô Năm, cô Sáu, cô Bảy, cô Tám, cô
Chín, cô Mười song ai cũng hiểu đó là cách gọi không chỉ đích chung chung và cái
đích hướng đến chính là bạn đọc...:
“Có ai ở Bắc Việt vào đây cho hỏi thăm tháng một mấy năm nay ở Bắc Việt
trời có rét lắm không…” [74, tr.222]
“Ấy thế mà tôi đố ai thuyết phục nổi nhà quê cũng như thành thị đến ngày
mùng năm cứ cắm đầu làm việc, không ăn tết Đoan Ngọ đấy.” [74, tr.101]
147
“Nhưng coi chừng đó, hỡi người bạn háu ăn! Cà mềm môi chén tì tì vào,
khát lắm, mà phàm đã khát mà theo tác phong ở trong này, cứ nã hết ly đá lạnh này
đến ly trà đá khác, hết chai lave nọ đến chai nước ngọt kia thì bụng dễ trướng lên
như cái trống.” [74, tr.89]
“Ới ơi những người thiên lý tương tư! Nếu bất ngờ những dòng sau đây có
lọt vào tay bạn, mà thấy nói được lên mối hoài cảm của bạn vẫn chất chứa ở bên
lòng, thế là kẻ viết bài này thấy làm mãn nguyện lắm rồi.” [74, tr.17]
“Nếu tôi có lầm, xin cô Năm, cô Sáu, cô Bảy, cô Tám, cô Chín, cô Mười cứ
chỉ dạy cho tôi: rượu nếp bắc làm bằng gạo lứt, loại nếp cái chưa dã, còn cơm rượu
thì làm bằng nếp trắng; riêng hai cái nếp đã khác nhau rồi, và cái ngon cái bùi của
hai thứ đó cố nhiên là đã khác biệt hẳn nhau.”[74, tr.104]
“Ới ơi những người lỡ hội chồng con, có phải đến tháng này, ở Bắc Việt, cái
gió lạnh mới về ấy thấm vào da thịt, len lỏi tới sâu thẳm của tâm hồn, nó làm cho
người buồn dằng dặc, tự nhiên cảm thấy thèm khát yêu đương hơn cả bao giờ hết
phải không!” [74, tr.183]
“Hỡi các bà nội trợ lưu tâm đến miếng ăn ngon cho chồng cho con! Hãy gọi
hàng cốm lại mà mua ngay lúc cốm hãy còn tươi, kẻo cuối buổi thì kém dẻo kém
ngọt, phí của trời đi đấy.” [74, tr.467]
“Hỡi các bà nội trợ, đừng có lần chần lắm mà lỡ việc, vì rươi không phải là
món ăn ngày nào cũng có đâu.” [74, tr.474]
“Gắp một miếng thịt đó, đừng ăn vội hỡi người háu ăn ơi! Cứ từ từ chầm
chậm để làm khổ ông thần khẩu đã! Anh đưa miếng chả lên trước mắt mà xem:
miếng thịt cứ săn lại như thịt một người lực sỹ, mà bóng nhễ bóng nhại một cách
mới lành mạnh làm sao! Nó thơm quá đi mất thôi, anh ạ”. [74, tr.526]
“Nhưng hỡi người sành ăn, hãy coi chừng! đừng có thấy lòng tràng, cổ hữu,
ruột non, lá lách ngon miệng mà cứ xơi tì tì mãi.” [74, tr.539].
“Hỡi cô con gái đỡ tay bếp núc cho mẹ trong ba ngày tết! Cái chảo mỡ đun
mà chưa thật nóng bỏng lên thì cô chớ có thả bánh Xuân Cầu vào vội mà hỏng
đấy…Gắp từng chiếc ra, vỗ vào thành chảo cho ráo mỡ rồi để vào đĩa, hỡi người
148
em yêu ạ!” [74, tr.456].
Những lời trò chuyện tưởng tượng của nhà văn với bạn đọc lại đem đến một
hiệu quả rất thực. Đó là cảm giác háo hức, hứng khởi của bạn đọc khi được chính
tác giả cầm tay một cách thân mật và vui vẻ bước vào thế giới muôn màu, muôn vị
của những thức quà ẩm thực.
Như vậy, có thể thấy rằng, hai đặc điểm nghệ thuật nổi bật nhất trong tùy bút
về ẩm thực của nhà văn Vũ Bằng chính là sự gợi cảm của ngôn từ và giọng điệu
giàu tính đối thoại, chuyện trò. Điều đó làm cho những trang văn về chuyện bếp núc
của nhà văn có một sức thu hút đặc biệt với bạn đọc, đó là tính trữ tình, nên thơ,
giàu cảm xúc, cảm giác và không khí thân mật giao lưu. Cùng với sự tìm hiểu tỉ mỉ,
sự say mê đặc biệt với ẩm thực và những nỗi niềm tâm sự đầy xúc động, những đặc
điểm nghệ thuật nói trên chính là điều khiến cho những trang tùy bút về ẩm thực
của Vũ Bằng để nhớ để thương trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
149
KẾT LUẬN
1. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu về mảng sáng tác về đề tài ẩm thực
của Vũ Bằng. Tuy nhiên, nhằm làm rõ hơn cho vấn đề đang nghiên cứu, chúng tôi
đã đặt mảng sác tác này của nhà văn Vũ Bằng trong tổng thế mảng sáng tác về đề
tài ẩm thực của văn học Việt Nam nói chung. Có thể nói rằng, đây là một mảng
sáng tác khá thú vị và mặc dù số lượng tác phẩm không được nhiều song lại có
không ít trong số đó để nhớ để thương trong lòng bạn đọc mà ba tập tùy bút của Vũ
Bằng có thể nói là những tác phẩm tiêu biểu nhất.
Thông qua việc miêu tả một cách hấp dẫn và lôi cuốn những mòn ngon, món
lạ, nhà văn đã phản ánh một cách chân thực và sinh động nhiều phương diện của
hiện thực cuộc sống đồng thời mở ra một thế giới nội tâm đầy xúc động. Với một đề
tài đặc biệt như đề tài ẩm thực, số lượng sáng tác và thời gian mà Vũ Bằng dành cho
nó là khá dày dặn, thể hiện một sự tâm huyết theo đuổi thật sự. Thành công lớn nhất
của nhà văn Vũ Bằng ở mảng sáng tác này, theo chúng tôi chính là việc biến những
thức quà bình dị, vô tri, vô giác hàng ngày thành những “nhân vật” đầy sức thu hút
trong một tác phẩm văn học, với nhiều thông tin, chi tiết lôi cuốn đồng thời nhà văn
đã cài đặt khéo léo câu chuyện về ẩm thực với những câu chuyện về cuộc sống,
những tâm sự chân thành của trái tim thông qua một phong cách ngôn ngữ sinh
động và gợi cảm.
2. Khai thác đề tài ẩm thực, nhà văn Vũ Bằng không chỉ dựng lên một thế giới
sống động của những hương vị mà còn phác họa bức tranh hiện thực cuộc sống ở
nhiều phương diện lịch sử, văn hóa, xã hội… Đặc biệt, nhà văn Vũ Bằng đã cho
chúng ta nhận thấy rằng những món ăn ngon không chỉ làm thỏa mãn khẩu vị mà
còn có khả năng kết nối, lưu giữ và sẻ chia tình cảm một cách sâu sắc qua những
câu chuyện về những thức quà thấm đẫm ân tình với quê hương, đất nước, gia đình,
bằng hữu và những tâm sự không dễ tỏ bày của chính tác giả. Qua những trang văn
về ẩm thực của Vũ Bằng, người ta cảm nhận rõ nét hơn giá trị tinh thần, giá trị văn
150
hóa của ẩm thực và sự hấp dẫn riêng biệt của mảng sáng tác văn chương của mảng
sáng tác văn chương về đề tài thú vị này.
3. Trọng tâm của luận văn đi vào tìm hiểu việc tác giả khai thác ẩm thực như
một để tài văn học trong việc phản ánh thế giới hiện thực và thế giới nội tâm. Song
nhận thấy trong mảng sáng tác về ẩm thực nói chúng, những trang văn của Vũ Bằng
có sự hấp dẫn riêng về ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật nên luận văn đi vào tìm
hiểu một số thủ pháp nghệ thuật mà chúng tôi cho rằng đã đặc biệt phát huy hiệu
quả đối với việc sáng tác về đề tài ẩm thực. Chúng tôi nhận thấy, tùy bút về ẩm thực
của Vũ Bằng đặc biệt lôi cuốn người đọc một phần lớn là nhờ tính giàu cảm giác,
cảm xúc do việc khai thác hiệu quả thẩm mỹ của một số lượng phong phú các tính
từ và biện pháp tu từ so sánh với những hình ảnh so sánh gợi cảm đầy sáng tạo của
cá nhân tác giả. Bên cạnh đó, việc tác giả tạo ra một không khí đối thoại thân mật
qua những cuộc trò chuyện được tái hiện, hư cấu tưởng tượng, và đặc biệt là những
cuộc trò chuyện chủ yếu hướng tới bạn đọc. Những thủ pháp nghệ thuật nói trên
khiến cho tùy bút về ẩm thực của Vũ Bằng vừa như những bức tranh đẹp trữ tình,
gợi cảm, đồng thời là những lời tâm sự chân tình, tha thiết, để nhớ để thương trong
lòng bạn đọc.
4. Thực hiện luận văn này, chúng tôi mong muốn chỉ ra những thành công
của nhà văn Vũ Bằng ở mảng sáng tác về đề tài ẩm thực, từ đó góp phần làm cho
mảng sáng tác này của Vũ Bằng nói riêng và đề tài ẩm thực trong văn học Việt Nam
nói chung nhận được sự quan tâm hơn của giới nghiên cứu - phê bình văn học cũng
như các nhà cầm bút. Tuy nhiên, do năng lực có hạn của người viết, mặc dù đã nhận
được sự quan tâm, hỗ trợ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn, gia đình, bạn bè, luận
văn vẫn không thể tránh khỏi đôi chỗ thiếu sót. Vì vậy, người viết mong được sự
nhận xét, sửa chữa và bổ sung của quý thấy cô cũng như các anh chị học viên để
luận văn được hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, còn nhiều vấn đề liên quan đến luận
văn mà người viết mong muốn được nghiên cứu nhưng chưa đủ khả năng như tìm
hiểu một cách kỹ lưỡng hơn về đặc điểm nghệ thuật trong tùy bút về ẩm thực của
Vũ Bằng, nghiên cứu một cách toàn diện hơn mảng sáng tác về đề tài ẩm thực trong
151
văn học Việt Nam,… Song trên hết, chúng tôi tin chắc rằng những trang tùy bút về
ẩm thực của Vũ Bằng sẽ còn gieo nhớ gieo thương trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ
và ẩm thực với tư cách là một thành tố văn hóa, đã và đang là một trong những thế
mạnh của dân tộc nói chung và nền văn hóa dân tộc nói riêng trên con đường hội
nhập và giao lưu. Hơn nữa, văn chương đặc biệt là tùy bút về ẩm thực, với đặc
trưng vừa hấp dẫn đời thường, vừa trữ tình và giàu giá trị nhân văn hứa hẹn sẽ là
một trong những chiêc chìa khóa để khơi gợi lại niềm yêu thích văn chương và thói
quen đọc sách dường như đang ngày càng mai một đối với bạn đọc nói chung và
giới trẻ nói riêng. Đồng thời, chúng tôi cũng tin rằng từ những “Thương nhớ mười
hai”, “Miếng ngon Hà Nội”, “Món lạ Miền Nam” sẽ còn có nhiều trang viết về
những thức quà hàng ngày ra đời giới thiệu vẻ đẹp của văn hóa ẩm thực dân tộc
đồng thời nhắc nhở chúng ta biết trân trọng hơn những điều tưởng chừng nhỏ bé,
bình thường song giàu giá trị nhân văn trong cuộc sống.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Băng Sơn (2002), Dòng sông Hà Nội, NXB Thanh Niên.
2. Băng Sơn (2004), Nhịp sống Hà Nội, Nxb Văn hóa.
3. Băng Sơn (2003), Niềm vui trần thế, NXB Thanh Niên.
4. Băng Sơn (1997), Thú ăn chơi người Hà Nội(1), Tuỳ bút, NXB Văn hoá.
5. Băng Sơn (1997), Thú ăn chơi người Hà Nội (2), Tuỳ bút, NXB Văn hoá
6. Băng Sơn (1999), Thú ăn chơi người Hà Nội (3), Tuỳ bút, NXB Thanh
Niên.
7. Băng Sơn (2000), Thú ăn chơi người Hà Nội(4), Tuỳ bút, NXB Văn hoá.
8. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (2000), Văn học dân gian – những tác phẩm
chọn lọc, NXB Giáo dục.
9. Bùi Quang Huy (1993), Vũ Bằng một đời mê mải, Báo Phụ nữ thứ bảy
TP Hồ Chí Minh, số 34.
10. Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh (2001), Từ điển Tiếng Việt, NXB
Văn hóa thông tin.
11. Bùi Việt Mỹ, Trương Sĩ Hùng (sưu tầm và biên soạn) (1999), Văn hóa
ẩm thực Hà Nội, NXB Lao động, Hà Nội.
12. Bùi Việt Thắng (2001), Văn học Việt Nam 1945-1954 (văn tuyển), NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, ĐHQG TP.HCM.
14. Đinh Gia Khánh (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, tập I,
NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
15. Đường vào Hà Nội (1997), Tuỳ bút, NXB Thanh Niên.
16. G.N.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập I, II,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
153
17. Hà Minh Châu (2000), “Vũ Bằng và thể loại ký”, Tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 6.
18. “Hà Nội trong thương nhớ mười hai”, Tạp chí Sài Gòn Giải Phóng, số
ngày 1/10/2000.
19. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB Hội nhà văn.
20. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1995), Hoa trái quanh tôi, NXB Trẻ TP.HCM.
21. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2007), Miền cỏ thơm (bút ký), NXB Văn nghệ,
TP.HCM.
22. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập Bút ký, Trần Thức tuyển
chọn, tập I, NXB Trẻ TP.HCM.
23. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập Bút ký, Trần Thức tuyển
chọn, tập II, Nxb Trẻ TP.HCM.
24. Hoàng Trung Thông (chủ biên) (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu
nước, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Khả Xuân (1997), “Văn hóa ẩm thực dưới mắt các nhà văn”, Tạp chí
Văn hóa xưa và nay, số 2b.
26. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
27. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục
Hà Nội.
28. Lê Ngọc Canh (2000), Văn hóa dân gian – những thành tố, NXB Văn
hóa thông tin – trường Cao đẳng Văn hóa TP.HCM.
29. Lê Ngọc Trà (1994), Lý luận văn học, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 1994
30. M.B. Kharapchencô (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Nẻo đường Hà Nội (1998), Tuỳ bút, NXB GTVT.
154
32. Nguyễn Chí Bền (2003), Văn hóa dân gian Việt Nam – những phác thảo,
NXB Văn hóa thông tin.
33. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn An (1993), Tác giả văn
học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác, Trần Hữu Tá (1988), Giáo trình Văn
học Việt Nam 1945-1975, tập I, NXB Giáo dục.
35. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách,
NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
36. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
37. Nguyễn Du, Nguyễn Du niên phổ và tác phẩm.
38. Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu) (1999), Nguyễn Trãi về tác
gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
39. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập I, NXB Văn học,
Hà Nội.
40. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập II, Nxb Văn học,
Hà Nội.
41. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập III, NXB Văn học,
Hà Nội.
42. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập IV, NXB Văn học,
Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1996), Lí luận văn học - Vấn
đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Hạnh (1979), Suy nghĩ về văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
45. Nguyễn Xuân Hoàng (2004), Cỏ hoa xứ Huế - dạo chơi cùng Huế, NXB
Trẻ TP.HCM.
46. Những nẻo đường Hà Nội (tuyển chọn) (2001), NXB Kim Đồng.
155
47. Phan Cự Đệ (chủ biên), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 29A, Nxb
KHXH, Hà Nội.
48. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX – những vấn
đề lịch sử và lý luận, NXB Giáo dục.
49. Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, NXB Văn học.
50. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, NXB ĐH
Quốc gia, Hà Nội.
51. Phùng Quý Nhâm, Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Trường ĐH Sư
Phạm TPHCM.
52. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ TP.HCM.
53. Phương Trung, Vũ Tam Huề (2002), Hoài cảm, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
54. Phương Trung, Vũ Tam Huề (2004), Miếng nhớ miếng thương, NXB
Thanh niên, TP.HCM.
55. Sơn Nam (1997), Đồng bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa, Nxb
Trẻ TP.HCM.
56. Sơn Nam (1990), Người Sài Gòn, NXB Trẻ, TP.HCM.
57. Sơn Nam (1996), Phong vị thời khẩn hoang trong món ăn miền Nam, Sài
Gòn tiếp thị, Xuân 1996.
58. Sơn Nam (2002), Văn Minh miệt vườn, Nxb Văn hóa.
59. Thạch Lam (2002), Những tác phẩm tiêu biểu, NXB Giáo dục, TP.HCM.
60. Tiểu Kiều (2004), Huế - Ăn hương mặc hoa, NXB Trẻ TP.HCM.
61. Tô Hoài (2004), Chuyện cũ Hà Nội, tập II, Nxb Trẻ, TP.HCM.
62. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường ĐH Sư phạm
TP.HCM.
63. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
156
64. Trần Hữu Tá (2000), (nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn), Nhìn lại một
chặng đường văn học, NXB TP. Hồ Chí Minh.
65. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
66. Trần Thu Hương, Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng, Luận văn
Thạc sĩ.
67. Triệu Xuân (1999), Nhà văn Vũ Bằng, tài hoa và cô đơn…, Báo Văn
nghệ, số 28.
68. Văn Giá (1998), Đâu là sự thật về chỗ đứt gãy trong lý lịch nhà văn Vũ
Bằng, Báo Tiền Phong, chủ nhật số 47.
69. Văn Giá (1998), Đi tìm chỗ đứt gãy trong lý lịch nhà văn Vũ Bằng, Báo
Tiền Phong, chủ nhật số 47.
70. Văn Giá, Mối tình giữa nhà văn Vũ Bằng với người phụ nữ Kinh Bắc
Nguyễn Thị Quỳ.
71. Văn Giá (2000), Vũ Bằng bên trời thương nhớ, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
72. Viện KHXHNV, Viện nghiên cứu văn hóa (2004), Văn hóa dân gian –
một chặng đường nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Vũ Bằng, Băng Sơn, Mai Khôi, Thượng Hồng (biên soạn) (2000), Văn
hóa ẩm thực Việt Nam (3 tập), NXB Thanh Niên.
74. Vũ Bằng (2003), Thương nhớ mười hai, Mê chữ, Miếng ngon Hà Nội,
Món lạ miền Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
75. Vũ Bằng (2000), Tuyển tập I, NXB Văn học, Hà Nội.
76. Vũ Bằng (2000), Tuyển tập II, NXB Văn học, Hà Nội.
77. Vũ Bằng (2000), Tuyển tập III, NXB Văn học, Hà Nội.
78. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ (2002), Từ điển văn hóa
dân gian, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
157
79. Vũ Ngọc Phan (1943), Chuyện Hà Nội (bút ký), NXB Bách Việt.
80. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, tập I, II, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
81. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ - ca dao – dân ca Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội.
82. Vương Trí Nhàn (1999), Cánh bướm và đóa hướng dương, NXB
Hải Phòng.
Những trang web tham khảo:
83. tusach.vietnhim.com/showthread.php?t=28 - 55k –(chuyện cơm hến)
84. metinfo.blogspot.com/2008/01/m-thc-nam-b-au-u-hng-v-ci-ngun.html -
83k –(ẩm thực Nam bộ, đau đáu hương vị cội nguồn
85. www.hanoimoi.com.vn/vn/53/146691/ - 133k – (Văn hóa ẩm thực –văn
và đời- băng sơn)
86. evan.com.vn/News/doi-song-van-nghe/chuyen-lang-
van/2006/01/3B9ACCDB/ - 44k –(các nhà văn bàn chuyện ăn chơi
– hạnh đỗ)
87. www.vantuyen.net/index.php?view=author&id=670 - 40k –(ẩm thực
Huế-nguyễn xuân hoàng)
88. beta.baomoi.com/Home/AmThuc/netlife.vietnamnet.vn/Am_thuc_Quan
g_Tri/1024766.epi(ẩm thực quảng trị, cháo vạt giường, hoàng phủ
ngọc tường
89. vnthuquan.net
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN037.pdf