Luận văn thạc sỹ khoa ngôn ngữ học
chương 1: những tiền đề lý luận của luận văn
I. nhân xét chung
II. nguyên lý cơ bản
III. các luận điểm cơ bản
3.1. luận điểm thứ nhất
3.2. luận điểm thứ 2
IV. phân loại ẩn dụ tri nhận 
4.1. ẩn dụ cấu trúc
4.2. ẩn dụ định hướng 
4.3. ẩn dụ bản thể
4 4 ẩn dụ vật chứa
V. ẩn dụ cấu trúc – đối tượng nghiên cứu của luận văn
5.1. những ý niệm thường gặp ở miền Nguồn
5.2. những ý niệm thường gặp ở miền ĐÍch
5.3. tính hệ thống của ẩn dụ cấu trúc
5.4. tính sáng tạo của ẩn dụ cấu trúc
VI. tiểu kết
Chương 2: ẩn dụ cấu trúc – bản chất và tính hệ thống
I. bản chất bộ phận của sự cấu trúc hóa ẩn dụ
1.1. ẩn dụ cấu trúc tham gia sắp xếp hoạt động thường nhật của con người
1.2. ẩn dụ tri nhận có đặc trưng tính bộ phận 
II. tính hệ thống của những ẩn dụ ý niệm
2.1. phương thức xác định những biểu thức ẩn dụ
2.2. ý niệm ẩn dụ được tổ chức một cách hệ thống
III. tiểu kết
Chương 3: ẩn dụ cấu trúc – khả năng kết hợp
I. khái niệm về khả năng kết hợp
II. một số những ẩn dụ kết hợp điển hình
2.1. ẩn dụ cấu trúc kết hợp với ẩn dụ cấu trúc
2.2. ẩn dụ cấu trúc kết hợp với ẩn dụ định hướng
2.3. ẩn dụ cấu trúc kết hợp với ẩn dụ vật chứa
III. tiểu kết
Kết luận
Tài liệu tham khảo
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
126 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2995 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ẩn dụ tri nhận: mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 giới: một thế giới mình đang sống mà mình ra đi. Sau 
khi ra đi mình đến là chết, nên có chuyện ĐI LÀ CHẾT. 
VỀ cũng phải có một mốc nhất định, từ đâu về (ví dụ: đi học về), có một 
quãng đường, có một nơi để về. 
 CÕI ĐI VỀ là một kết hợp biện chứng, đi không phải là đi mãi, cho dù đi có 
thể là chết đi nữa thì trở về là sự sống. Sống và chết cứ nối đuôi nhau như thế và 
tạo thành một cõi, và cõi là một không gian khép kín, ví dụ mở mang bờ cõi. 
Vậy cõi đi về cũng là một không gian khép kín. Nghĩa là cái sống và cái chết 
khép kín, nó cứ luân chuyển cho nhau, không ngừng. Muôn vật sẽ được tái sinh 
làm kiếp khác, tùy theo nghiệp của họ ở cõi này. Do vậy, chết không phải là 
hết mà là bắt đầu một cuộc sống mới giống như bông hoa khi tàn là đã gieo 
rắc mầm sống mới. 
Đi là về, về là đi. 
Nếu cái chết là kết tủa của tái sinh, thì khi một người ra đi, là lúc người đó 
đang trở về. Nhìn sự sống và cái chết từ khía cạnh này cũng giống như khi ta 
nhìn nước trong một dòng sông, và tự hỏi liệu ta nên nói nó đang trôi đi hay 
đang trôi về, một điều mà Trịnh Công Sơn đã cảm nhận được: 
Những ngàn xưa trôi đến bây giờ 
Sông ra đi hay mới bước về. (Gần như niềm tuyệt vọng) 
Chết là để nảy sinh một cái gì khác, do vậy chết cũng có thể là đi. Ca từ 
Trịnh Công Sơn đã thể hiện tư tưởng này. 
Sống từng ngày, chết từng ngày, 
Còn sống một ngày, 
Là hẹn chết mai đây.(Buồn từng phút giây) 
Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời bấp bênh phận người. (Ca dao Mẹ) 
Bao nhiêu năm làm kiếp con người 
Chợt một chiều tóc trắng như vôi 
Lá úa trên cao rụng đầy 
Cho trăm năm vào chết một ngày. (Cát bụi) 
Em đến nơi này bao điều chưa nói 
Lặng lẽ chia xa sao lòng quá vội 
Một cõi bao la ta về ngậm ngùi. (Hoa vàng mấy độ) 
Trời cao đất rộng 
Một mình tôi đi 
Đời như vô tận 
Một mình tôi về …với tôi. (Lặng lẽ nơi này) 
Một ngày hiu hắt con đường 
Một ngày bước nhỏ nhẹ nhàng ra đi 
Theo chân cơn gió ta về 
Rời xa con phố với giờ nguy nan. (Lời ở phố về) 
Nhiều đêm muốn đi về con phố xa 
Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà. (Lời thiên thu gọi) 
Đường về xa trời đất mông lung. (Vàng phai trước ngõ) 
Em về, hãy về đi, ta phiêu du một đời 
Hương trầm có còn đây, ta thắp nốt chiều nay 
Xin ngủ trong vòng nôi, ta ru ta ngậm ngùi 
Xin ngủ giữa vòm cây….(Ru ta ngậm ngùi) 
Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi… 
Ta vẫn mong ta chờ mãi trên từng ngày quạnh hiu 
 Ta vẫn mong em về đây cho đời đầy cuộc vui 
Mùa xuân đã đến em hãy quay về 
Rừng xưa đã khép em hãy ra đi. (Rừng xưa đã khép) 
Ngoài ra, trong văn hoá Việt Nam còn có kiến trúc lăng tẩm, mồ mả cũng 
tạo cho cuộc đời một ý nghĩa mới. Điển hình là lăng tẩm Huế. Muốn lí giải để 
biết tại sao có được những sáng tạo như vậy ở các lăng tẩm, thiết tưởng chúng ta 
phải tìm hiểu quan niệm của họ về sự sống và cái chết, nghĩa là triết lí về cuộc 
đời, ẩn sau những gì nhìn thấy nơi họ nằm xuống. Xuất phát từ nhân sinh quan 
của một thời kì lịch sử, chết không phải là hết. Cho nên lăng tẩm không phải là 
chốn mộ địa u buồn. Vua Tự Đức đã từng nói lên quan niệm “Sống gửi thác về” 
qua bài thơ: 
“Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê, 
Sống gửi rồi ra lại thác về. 
Khôn dại chung chung ba thước đất. 
Giàu sang chưa chín một nồi kê. 
Tranh giành trước mắt mây tan tác. 
Đày đoạ sau thân núi nặng nề. 
Muốn đến hỏi tiên, tiên chẳng bảo, 
Gượng làm chút nữa để mà nghe.” (Ngẫm sự đời) 
Với ý nghĩa trên ta có thêm một ẩn dụ mới SỐNG LÀ GỬI, THÁC LÀ VỀ. 
Cõi vũ trụ, cõi âm, cõi dương, bản thân con người cũng là một cõi. Trong 
văn hoá Việt Nam: cõi có sự luân hồi, nhân quả nên mới có chuyện phải tu nhân 
tích đức. Và với niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, tin rằng tuy ở 
chín suối nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom phù hộ con 
cháu là cơ sở hình thành tín ngưỡng THỜ CÚNG TỔ TIÊN. 
Ẩn dụ có thể hợp thời, bởi chúng cho phép những hành động này khác, 
xác định những kết luận và mục đích do ẩn dụ CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CÕI ĐI VỀ, 
Trịnh Công Sơn gọi là “đi loanh quanh” nhưng không phải không có mục đích, 
ẩn dụ SỐNG LÀ GỬI, THÁC LÀ VỀ. Bởi tin có cõi luân hồi nên con người sống có 
định hướng từ cõi sống cho đến cõi chết. 
 Mục đích của chuyến đi về: 
TÌM KIẾM CHÂN LÝ LÀ MỤC ĐÍCH CỦA CÕI ĐI VỀ. 
GẶP GỠ ĐÁNH DẤU MỘT CHẶNG ĐƯỜNG ĐÃ ĐI ĐƯỢC. 
MẤT MÁT LÀ NHỮNG VỰC THẲM CỦA CON ĐƯỜNG. 
IM LẶNG LÀ KHOẢNG DỪNG CỦA CUỘC HÀNH TRÌNH. 
Trong văn hoá Việt có một chuyến đi mãi mãi ghi dấu vào trang sử của 
đất nước Việt Nam và thế giới – đó là hành trình đi tìm đường cứu nước của Bác 
Hồ: 
Từ đó người đi những bước đầu 
Lênh đênh bốn biển một con tàu 
Cuộc đời sóng gió trong than bụi 
Tay đốt lò, lau chảo thái rau… 
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi 
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người 
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ 
Mà đến bây giờ mới tới nơi !... 
Hãy về thăm quê ta Pác Bó 
Nơi Bác về, nguồn nước mới sinh. (Tố Hữu – Theo chân Bác) 
 ĐỜI LÀ NHỮNG CUỘC TÌM KIẾM 
Tìm em tôi tìm 
Mình hạc xương mai 
Tìm trên non ngàn 
Một cành hoa khôi … 
Tìm em xa gần 
Đất trời rộn ràng 
 Tìm trong sương hồng 
Trong chiều bạc mệnh 
Trăng tàn nguyệt tận 
Chưa từng tuyệt vọng 
Đâu em (Đóa hoa vô thường) 
Tìm trong cõi chia lìa 
Niềm đau ta lạc bến bờ xưa 
Tìm khi gió mưa về 
Tìm trong nắng hững hờ 
Tìm em tôi tựa bé không nhà/ 
Tìm trong lá úa 
Tìm nhau ta hẹn với đời nhau 
Tìm xa vắng muôn trùng 
Tìm nhau giữa con đường 
Tìm nhau trong hạnh phúc vô thường/ 
Tìm trong gió vô tình 
Tìm trong cõi lặng im 
Em đi tìm tịch lặng 
Giữa ngày tháng mênh mông 
Tìm nhau giữa vô cùng 
Ta tìm trong nỗi nhớ 
Ta tìm trong ngọn gió hư vô. (Còn mãi tìm nhau) 
Bỗng tôi thấy em 
Dưới chân cội nguồn 
Tôi mời em về 
 Đêm gội mưa trong 
Em ngồi bốn bề 
Thơm ngát hương trầm… 
Từ nay tôi đã có người 
Có em đi đứng bên đời líu lo 
Từ nay tôi đã có tình 
Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa 
Từ em tôi đã đắp bồi 
Có tôi trong dáng em ngồi trước sân (Đoá hoa vô thường) 
Một ngày tình cờ biết em 
Là ngày lạ lùng nhất trần gian. 
Cuộc đời này đã có em 
Từng ngày từng ngày nhớ ơn đời. (Còn thấy mặt người) 
 ĐỜI LÀ NHỮNG CHỜ ĐỢI 
Chờ tin mừng sông chờ núi cũng chờ mong 
Chờ trên vừng trán mẹ thắp lên bình minh… 
Chờ tim người không còn nuôi những hờn căm 
Chờ lúa thơm lên dưới bàn tay dân mình 
Chờ lòng yêu thương đất nước quyết đi xây thanh bình 
Chờ trống dồn tin mừng khắp phố làng ta 
Chờ nghe từ đất dậy tiếng ca tự do 
Chờ cây thay lá, chờ kết bông hoa 
Chờ thấy ta đi trong phố phường không xa lạ 
Chờ nhìn quê hương sáng chói mắt mẹ ngày nay chưa mờ. 
(Chờ nhìn quê hương sáng chói) 
Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá 
Đợi xoá sân si dưới gốc bồ đề 
Đợi con kên kên bên bên cành nhỏ lệ 
Đợi có tiếng cười trong nỗi lo. 
Đợi làm đôi chân đi quanh thế giới 
Để thấy con tim thế giới hẹp hòi 
Đợi nghe lương tâm con người trở lại 
Đợi đã héo mòn những sớm mai 
Đợi từ đau thương quê hương sẽ lớn 
Đợi máu anh em chớm những nụ hồng 
Đợi cây xanh lên rừng hoạn nạn 
Đợi thấy những đường không cách ngăn. 
 ĐỜI LÀ NHỮNG MẤT MÁT 
Một ngày mùa đông, trên con đường mòn 
Một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm 
Người chết hai lần, thịt da nát tan. (Ngụ ngôn mùa đông) 
Nắng có còn hờn ghen môi em 
Mưa có còn buồn trong mắt trong 
Từ lúc đưa em về 
Là biết xa nghìn trùng. (Như cánh vạc bay) 
ĐỜI LÀ CUỘC NHẬN THỨC: LẮNG NGHE – THẤY – CẢM 
 (Nhớ – Quên) 
 ĐỜI LÀ NHỮNG CUỘC LẮNG NGHE: 
Lắng nghe tiếng gió tự tình, tiếng đất trở mình, tiếng khóc cười của bào thai, 
hay nghe tiếng gió than, nghe lá đưa lời hàm oan, nghe tiếng muôn trùng đẩy 
đưa.... 
Nghe trăm tiếng ngậm ngùi 
Nghe lăng miếu trùng vây 
Nghe xa cách cuộc đời 
Nghe hoang phế cạnh đây. (Nghe tiếng muôn trùng) 
Từng ngày thấy mặt trời 
Thấy mọi người lòng đã thấy vui 
Từng đêm tối ngồi chờ đợi 
Chờ từng sớm mai thấy lại mặt người.... (Còn thấy mặt người) 
Đôi khi thấy trong gió bay lời em nói 
Đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi 
Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối 
Đôi khi nhớ trong mắt em một bóng tối nhỏ nhoi 
Đôi khi thấy trong cánh chim từng đêm tối 
Đôi khi nhớ trong mắt em mùi cây trái thơm tho. (Rồi như đá ngây ngô) 
Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố 
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ 
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa 
Làm lời lá bay trên đường đi 
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia 
Làm hồng chút môi cho em nhờ. (Cho đời chút ơn) 
 ĐỜI LÀ SỰ LỰA CHỌN 
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui 
Chọn những bông hoa và những nụ cười 
 Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy 
Để mắt em cười tựa lá bay 
Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi 
Đường đến anh em đường đến bạn bè 
Tôi đợi em về bàn chân quen quá 
Thảm lá me vàng lại bước qua 
Và như thế tôi sống vui từng ngày 
Và như thế tôi đến trong cuộc đời 
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi. (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui) 
 ĐỜI LÀ NHỮNG KHOẢNG LẶNG 
 Im lặng là những khoảng dừng giữa hành trình đi về. Vạn vật trong vũ 
trụ có những khoảng im lặng để lắng nghe. 
Im lặng của đêm tôi đang lắng nghe 
Im lặng của ngày tôi đang lắng nghe 
Im lặng của đời tôi đang lắng nghe 
Tôi đã lắng nghe trái tim lạc loài 
Bao đêm đã qua im lặng của người 
Tôi đang lắng nghe im lặng của tôi. 
Im lặng dòng sông tôi đã lắng nghe 
Im lặng ngọn đồi tôi đã lắng nghe 
Im lặng thở dài tôi đã lắng nghe... 
Sau cơn bão qua im lặng mặt người 
Nghe bao nỗi đau trên một bàn tay 
Sau một cuộc tình tôi đang lắng nghe 
Tôi đang lắng nghe im lặng đời mình. (Im lặng thở dài) 
Trong tập Bút ký, Trịnh Công Sơn cũng đã bày tỏ quan điểm của mình về 
quan niệm sống chết. 
 “...Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không chỉ là sự tồn tại của 
thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết. Nhiều người chết mà 
vẫn còn sống trong trí nhớ của mọi người. 
...Trong câu chuyện đời chung, kẻ này quên thì người kia phải nhớ. Một ý 
tưởng chợt tắt để làm mầm chuyển hoá cho một ý tưởng mới nảy sinh. Cái mất không 
bao giờ mất hẳn. Cái còn không hẳn mãi còn....” (Bút ký Trịnh Công Sơn,1990) 
Nghe tin chị Nhất Chi Mai – sinh viên khoa Sử Đại học Văn Khoa Sài gòn 
– vì kính phục Morrison12, đã tự thiêu tại Chùa Từ Nghiêm sáng ngày 16-5-1967 
với bài thơ: 
...Sống mình không thể nói 
Chết mới được ra lời... (Chắp tay tôi quì xuống – Nhất Chi Mai). 
 Trịnh Công Sơn đã xúc động, sửng sốt, chết lặng và ông sáng tác bài 
hát: “Hãy sống dùm tôi”: 
Hãy sống dùm tôi 
Hãy nói dùm tôi 
Hãy thở dùm tôi.... 
Nhà thơ Tố Hữu cũng diễn tả hình ảnh người nữ chiến sĩ kiên cường sống 
mãi với lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc Việt Nam: 
Từ cõi chết, em trở về, chói lọi 
Như buổi em đi ngọn cờ đỏ gọi 
Em trở về, người con gái quang vinh... 
Em đã sống, bởi vì em đã thắng. (Người con gái Việt Nam) 
12
 Morrison là một giáo sư Đại học Mỹ, bế đứa con gái thân yêu Emily một tuổi ra trước toà 
nhà Ngũ Giác Đài Bộ Quốc Phòng Mỹ tự thiêu để thức tỉnh lương tri con người, mong chấm 
dứt chiến tranh Việt Nam. 
 CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CÕI ĐI VỀ là ý niệm xưa như trái đất. Hẳn nhiên là 
con người, ai cũng đã nghĩ đến và hơn một lần trăn trở về điều này: Tôi là ai, tôi 
từ đâu đến, tôi sẽ đi về đâu...? 
Có không biết bao những triết gia, nhà văn, nhà thơ, những nhà khoa 
học... đã tìm hiểu, nghiên cứu và viết về nơi mình xuất phát và kết thúc của đời 
người. 
Tuy nhiên, một người đã từng sinh ra trong khói lửa của chiến tranh, luôn 
phải cận kề giữa cái sống và cái chết – và lớn lên trong một đất nước “có một 
ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến 
từng ngày” sẽ có những thao thức hơn người là lẽ đương nhiên. 
“Người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn 
vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại.” [7] 
Quả vậy, mỗi ý niệm trong ẩn dụ đang thảo luận – CUỘC ĐỜI, MỘT 
CÕI ĐI VỀ có thể thay đổi rất nhiều từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác. 
Mỗi người có một quan điểm về cuộc đời khác nhau, nên ẩn dụ đang 
thảo luận sẽ có ý nghĩa khác đối với họ. Nếu kinh nghiệm của họ khác với của 
chúng ta không đáng kể, thì ẩn dụ đơn giản là không tương ứng với kinh 
nghiệm. Thực tế nó sẽ hoàn toàn không được chấp nhận. Từ đó suy ra rằng cái 
ẩn dụ tạo nghĩa mới cho những trải nghiệm của chúng ta sẽ không chứa đựng cái 
gì mới đối với kinh nghiệm của họ. 
Tất cả những gì liên quan đến sự chết, đều cùng với sự chết, chứa đựng ý 
nghĩa tượng trưng về sự hồi qui vĩnh cửu. 
CUỘC SỐNG LÀ ĐI ĐẾN CÁI CHẾT. 
Vậy là chết, hay để đi đến một hình thức sống khác, phi vật thể và vĩnh 
hằng. 
Đối với Thiên Chúa Giáo quan niệm: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vũ 
trụ, con người được tạo nên từ tro bụi sẽ trở về bụi tro – về lại cõi Thiên Đàng. 
 Đối với Phật giáo: trở về cõi Niết Bàn. 
Dù quan niệm sống chết thế nào, người sống vẫn xử lý thân thể người 
chết một cách nhất định. Người Êđê ở Tây Nguyên quan niệm sống chết là một 
vòng khép kín trong vũ trụ, chết-sống-chết. 
Đối với dân tộc Việt, sống chết được coi là qui luật tuần hoàn dĩ nhiên. 
Trong nền văn hoá nông nghiệp và coi trọng gia đình, người ta còn thấy mặt hay 
của cái chết: chết là về với đất mẹ, tổ tiên. Sinh ký tử quy: sống gửi thác về, ở 
mãi, về với đất, là trong lòng mẹ. 
Khác với người phương Tây coi trọng ngày sinh, trong tục thờ cúng tổ 
tiên, người Việt Nam coi trọng hơn cả là việc cúng giỗ vào ngày mất, bởi lẽ 
người ta tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. [29] 
Và gần đây, người chết không chôn xuống đất mà thiêu xác (hoá thân 
hoàn vũ), đây là biện pháp “tiếp biến văn hoá phương Đông-Tây” cần thiết cho 
hiện đại hoá (dân số tăng, ruộng ít, bình tro giữ ở nhà hay gửi ở chùa thay cho 
mộ, hay lấy tro rắc xuống những nơi khi sống mình lưu luyến, nhất là bể khơi và 
núi non). Hoá thân hoàn vũ thể hiện quan điểm phiếm thần của phương Đông: 
vạn vật nhất thể, con người, con vật, cỏ cây, khoáng vật đều cùng một thể chất 
trong vũ trụ. Chết đi người lại trở về với vũ trụ. [11] 
Tư tưởng cho rằng ẩn dụ đơn thuần chỉ thuộc về ngôn ngữ và trong 
trường hợp tốt nhất chỉ có thể miêu tả được hiện thực – tư tưởng đó nảy sinh từ 
trong cách nhìn hiện thực như là một cái hoàn toàn bên ngoài và độc lập đối với 
việc con người ý niệm hóa thế giới như thế nào, theo cách nhìn đó thì việc 
nghiên cứu hiện thực đơn thuần chỉ là việc nghiên cứu thế giới vật lí. Quan điểm 
đó đối với hiện thực – cái gọi là hiện thực khách quan – không tính đến các mặt 
con người của hiện thực, đặc biệt là những cảm giác, ý niệm hóa, giải thích và 
hành động hiện thực là những yếu tố quyết định phần lớn hơn của những cái mà 
chúng ta biết được từ kinh nghiệm. Song những yếu tố con người của hiện thực 
– đó đồng thời là một bộ phận lớn của cái có quan hệ đến chúng ta, và những 
yếu tố này thay đổi từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác, bởi vì các nền văn 
hóa khác nhau vốn có những hệ thống ý niệm khác nhau.. Trong mỗi trường hợp 
đều có môi trường vật lí mà chúng ta đang tương tác với ít nhiều kết quả. Các hệ 
 thống ý niệm của những nền văn hóa khác nhau một phần chịu ảnh hưởng của 
những điều kiện vật lí trong đó chúng phát triển. [34] 
Một cõi về dưới góc nhìn của Trịnh Công Sơn, với văn hoá Việt Nam: 
Lời nào của cây lời nào cỏ lạ 
Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ ngày qua 
Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ 
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa. (Một cõi đi về) 
Đá lăn vết lăn trầm 
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn 
Ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm 
Bài ca dao trên cồn cát, trên ngai vàng quê nhà 
Một thời ngủ yên tuổi xanh 
Rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình. (Vết lăn trầm) 
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa 
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ 
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ 
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà. (Một cõi đi về) 
Bước đầu ông cũng trăn trở, suy tư một nơi mình sẽ đến mặc dù chưa 
từng hội ngộ. Phải chăng, nơi mình sẽ về ấy là quê nhà, ở nơi cuối trời, hay là 
cõi thiên thu...? 
Một thời yêu dấu đã qua 
Gót hồng em muốn quay về 
Dù trần gian có xót xa 
Cũng đành về với quê nhà. 
 Có những ai xa đời quay về lại 
Về lại nơi cuối trời 
Làm mây trôi (Phôi pha) 
Về cõi thiên thu, ngày sẽ thiên thu 
Còn bao lâu cho thân thôi lưu đầy chốn đây?? 
Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này?? (Phúc âm buồn) 
Một ngày như mọi ngày, từng mạch đời trăn trối 
Một ngày như mọi ngày, đi về một mình tôi 
Sóng đong đưa linh hồn 
Có mưa quanh chỗ nằm 
Mãi một đời về không 
Trong chập chùng thác nguồn. (Một ngày như mọi ngày) 
Từng ngày qua thấy mưa về miền phù du 
Từng ngày qua thấy nắng tan vào trong lời ru 
Đời nửa đêm có khi nghe lời trăn trối 
Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô 
Đời trần gian có tim người có tay chờ 
Một ngày kia ôi thân thế vu vơ. (Từng ngày qua) 
Một ngày sẽ không còn thấy lại 
Từng ngày đi dần tới 
Hẹn hò với trời mây (Chỉ có ta trong cuộc đời) 
Người nhìn dấu xe lăn đi dấu lăn trên đời 
Ngựa xa rồi người vẫn ngồi bụi về với mây. (Phúc Âm buồn) 
 Mỗi nền văn hóa cần phải tạo ra phương thức hữu hiệu để tương tác với 
môi trường sống vừa thích nghi với nó, vừa biến đổi nó. Hơn nữa mỗi nền văn 
hóa cần phải xác định khuôn khổ của hiện thực xã hội, trong đó con người nhận 
lấy những vai trò có ý nghĩa đối với nó và cho phép nó hành chức như một hiện 
tượng xã hội. 
Khi chúng ta sống bằng những ẩn dụ rất điển hình đối với nền văn hoá 
của chúng ta: ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG, CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CÕI ĐI 
VỀ, chúng ta có khuynh hướng nói chung không nhận ra chúng là ẩn dụ. Nhưng 
như chúng ta đã thấy qua việc nghiên cứu những cơ sở của chúng nằm trong 
kinh nghiệm của con người, các khái niệm này đều là những ẩn dụ cấu trúc cơ sở 
đối với văn hoá phương Đông – và thế giới. 
CUỘC ĐỜI LÀ NHỮNG CHUYẾN ĐI. 
Ý niệm chuyến đi tiền giả định điểm xuất phát (khởi đầu), diễn tiến của 
chuyến đi, ĐÍCH đến, nghĩa là theo luật sinh, lão, bệnh, tử. Nhưng Trịnh Công 
Sơn đã phá bỏ cái luật sinh học đó. Ông đưa ra qui luật thường hằng: 
Không có đâu em này 
Không có cái chết đầu tiên 
Và có đâu bao giờ 
Đâu có cái chết sau cùng... 
Mệt quá thân ta này 
Nằm xuống với đất muôn đời 
Kìa còn biết bao người 
Dìu dặt tới quanh đây. (Ngẫu nhiên) 
Chuyến đi không có điểm xuất phát và ĐÍCH đến. Nghĩa là không có 
sinh, không có diệt, cái chết là khởi NGUỒN của sự sống. Ông đã thể hiện lòng 
tin sâu sắc vào sự bất tử của con người. 
 Đây chính là hình ảnh của Trịnh Công Sơn-nghệ sĩ-sáng tạo của ông 
không có chữ bắt đầu, nó được thai nghén trong cuộc đời VÔ THƯỜNG, và 
không có chỗ kết thúc, nghĩa là nó đi vào chốn thường hằng – sáng tạo nghệ 
thuật của Trịnh Công Sơn là bất tử. 
CUỘC ĐỜI LÀ NHỮNG CHUYẾN ĐI là một trong những trải nghiệm hiện 
thân giúp ta hiểu được khái niệm trừu tượng như trạng thái, cảm xúc, cuộc đời. 
Mô hình tri nhận không hoàn toàn phổ quát, nó tuỳ thuộc vào nền văn hoá. Văn 
hoá là nền tảng có các tình huống chúng ta trải nghiệm để tạo thành mô hình tri 
nhận. 
III. Tiểu kết 
Ẩn dụ cấu trúc không tồn tại độc lập với các loại ẩn dụ khác. Khả năng 
kết hợp của nó mở rộng tầm quan sát của chúng ta đối với những quan niệm của 
Trịnh Công sơn về vũ trụ và nhân sinh. Cách ông nhìn và hiểu thế giới một mặt 
xuất phát từ đặc thù văn hoá Việt, mặt khác cũng có những điểm gần với văn hoá 
thế giới, chẳng hạn, triết lí về TRO BỤI (CÁT BỤI), về SỐNG CHẾT, về luân hồi 
nhân quả. 
Những yếu tố qui định khả năng kết hợp của ẩn dụ cấu trúc là những 
thuộc tính tương hoà, tương thích gắn với kinh nghiệm từ văn hoá Việt Nam. Ca 
từ của Trịnh Công Sơn thoả mãn những điều kiện đó. 
 KẾT LUẬN 
Việc nghiên cứu đề tài của chúng tôi đến đây tạm khép lại. Có thể nêu 
lên một số kết luận sau đây liên quan đến nội dung và nhiệm vụ của luận văn: 
1. Luận văn đã quán triệt và hiện thực hoá tư tưởng chủ đạo của học 
thuyết về ẩn dụ tri nhận của G. Lakoff và M. Johnson, theo đó ẩn dụ không chỉ 
thuộc về ngôn ngữ, mà chủ yếu là cơ chế của tư duy, hành động và cảm xúc của 
con người. Đơn vị cơ sở của ẩn dụ tri nhận là Ý NIỆM được hiểu như kết quả 
của quá trình tri nhận gắn liền với ngôn ngữ và văn hoá dân tộc. Nguyên lí chi 
phối luận văn là sự ý niệm hoá thế giới và hiểu ý niệm này trong thuật ngữ của ý 
niệm khác. 
2. Trong luận văn đã nêu lên chín đặc điểm làm cho ẩn dụ tri nhận 
khác với các loại ẩn dụ ngôn ngữ. Đó là: (1) ngôn ngữ tự nhiên, (2) giao tiếp 
thường nhật, (3) phương thức tư duy, (4) vô thức, (5) không đáp ứng điều kiện 
chân/nguỵ, (6) cấu trúc hai không gian NGUỒN và ĐÍCH, (7) tính hệ thống, (8) 
tính sáng tạo, (9) cơ sở kinh nghiệm (vật lí, văn hoá). 
3. Ẩn dụ cấu trúc – đối tượng chính của luận văn – được soi sáng về 
bản chất, tính hệ thống và khả năng kết hợp của nó. Giúp miêu tả bình diện này 
là ca từ của Trịnh Công Sơn, được hiểu như một hệ thống ý niệm (từ vựng tinh 
thần) làm đầy lĩnh vực NGUỒN, để từ đó ánh xạ lên miền ĐÍCH những thuộc 
tính cần thiết. 
Về bản chất – ẩn dụ cấu trúc là cấu trúc hai không gian: NGUỒN và 
ĐÍCH, trong đó miền NGUỒN có chức năng ý niệm hoá miền ĐÍCH. Tính hệ 
thống của ẩn dụ cấu trúc được qui định bởi những yếu tố (ý niệm) cấu tạo miền 
NGUỒN và quan hệ ánh xạ theo hướng từ miền NGUỒN lên miền ĐÍCH, và quan 
hệ suy ra giữa các ẩn dụ ý niệm. Những yếu tố qui định khả năng kết hợp của ẩn 
dụ cấu trúc với các ẩn dụ khác là những thuộc tính tương hoà, tương thích gắn 
với kinh nghiệm từ văn hoá Việt Nam. Ca từ của Trịnh Công Sơn thoả mãn 
những điều kiện đó. 
 4. Trong luận văn, đã trừu suất từ trong ca từ của Trịnh Công Sơn và 
phân tích hai ẩn dụ cấu trúc điển hình: ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG 
và CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CÕI ĐI VỀ phản ảnh cách ông nhìn thế giới (thế giới quan) 
và nhìn cuộc đời (nhân sinh quan) của ông qua lăng kính Tiếng Việt và Văn hoá 
Việt. 
Với ẩn dụ cấu trúc ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG, Trịnh Công 
Sơn đã ý niệm hoá một phạm trù triết học phương Đông “VÔ THƯỜNG” thành 
ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG và tạo sinh ẩn dụ ý niệm ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐOÁ HOA VÔ 
THƯỜNG. 
Đằng sau ẩn dụ ý niệm đó là con người. Đằng sau ẩn dụ ý niệm ĐỜI 
NGƯỜI LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG là Trịnh Công Sơn–nghệ sỹ và Trịnh Công 
Sơn-con người. Trịnh Công Sơn chấp nhận “VÔ THƯỜNG” như một qui luật của 
Trời Đất và lòng người, do đó “VÔ THƯỜNG” đã biến thành “THƯỜNG HẰNG” 
là cái lẽ không thay đổi. Tư duy nghệ thuật của Trịnh Công Sơn là kiểu tư duy 
biện chứng: biện chứng giữa cái biến thiên và cái bất biến (Dịch Học), biện 
chứng của “A là A đồng thời không phải là A” (của F. Engels), biện chứng của 
“sắc sắc không không” của đạo Phật. 
Nếu trên đời này có cái gì là bất biến thì cái đó chính là cái VÔ THƯỜNG. 
Trịnh Công Sơn đã cấu trúc hoá sự biến động, lẽ VÔ THƯỜNG của vũ trụ, 
của cuộc đời thành ý niệm ĐOÁ HOA, một sự ý niệm hoá thế giới rất độc đáo. 
Trong Văn học và Triết học Việt Nam chưa có sự ý niệm hoá thế giới tương tự, 
ngoại trừ Đạo Phật đã ý niệm hoá thế giới thành cõi NIẾT BÀN với ĐOÁ HOA 
SEN nơi Phật toạ lạc. Nhưng ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG của Trịnh Công Sơn không 
mang màu sắc tôn giáo cao siêu, bí ẩn. ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG của Trịnh Công 
Sơn rất đời thường, rất người, chính vì thế nó là ẩn dụ ý niệm với nghĩa 
đích thực của nó. 
 Với ẩn dụ cấu trúc CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CÕI ĐI VỀ, Trịnh Công Sơn ý 
niệm hoá nhân sinh thành một “CÕI ĐI VỀ”: kiếp người diễn tiến theo luật luân 
hồi – nhân quả (con người sinh ra từ cát bụi rồi trở về với cát bụi), kêu gọi mọi 
người tu thân tích đức, sống tử tế với nhau, yêu thương nhau, bởi chỉ có tình yêu 
(yêu con người, yêu quê hương, yêu thiên nhiên) là bất diệt. 
Luận văn tạm thời khép lại ở đây, nhưng sẽ không dừng lại ở đây. Những 
kết quả đạt được chỉ mới là bước đầu của một con đường dài nghiên cứu ngôn 
ngữ học tri nhận đang mở ra trước mắt tác giả, hứa hẹn những chân trời xán lạn 
trong việc nghiên cứu con người Việt Nam qua lăng kính của Tiếng Việt và Văn 
hoá Việt. 
Sinh thời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng ca rằng: 
“Bỏ mặc căn nhà, bỏ mặc tôi 
Bỏ mặc nơi đây, bỏ mặc người 
Bỏ trăm năm sau, ngàn năm nữa 
Bỏ mặc tôi là, tôi là ai...” 
Chúng tôi – hậu thế của nhạc sĩ họ Trịnh quyết không bỏ mặc ông. Một 
con người gánh trên hai vai mình “đôi vầng nhật nguyệt”, con người đó không 
thể “hoang vu và nhỏ bé”. Ông thực sự lớn lao, ông là VẬT CHỨA vũ trụ luôn toả 
hào quang “rọi xuống trăm năm một cõi đi về.” 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Bùi Thị Minh Thuỳ (Người hướng dẫn: TS Lê Khắc Cường) 2007. Phong 
cách ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn. Luận Văn Thạc sỹ. Trường ĐH 
KHXH & NV Tp HCM. 
2. Bùi Vĩnh Phúc 2008. Trịnh Công Sơn – ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ 
thuật. Nxb Văn Hóa Sài Gòn. 
3. Cao Xuân Hạo 2004. Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb. Giáo 
Dục. 
4. Cao Xuân Hạo – Hoàng Dũng 2005. Từ điển đối chiếu thuật ngữ ngôn ngữ 
đối chiếu Anh – Việt, Việt – Anh. Nxb. Khoa học xã hội, TP. Hồ Chí Minh. 
5. John Lyons 2006. Ngữ nghĩa học dẫn luận. Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
6. Cù Đình Tú 2001. Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt. NXB Giáo 
dục. 
7. Đặng Tiến 2008. Vũ Trụ Thơ II. Thư Ấn Quán. 
8. Đỗ Hữu Châu 2000. Tìm hiểu văn hoá qua ngôn ngữ. Tạp chí Ngôn ngữ số 
10. 
9. F. de Saussure 2005. Giáo trình ngôn ngữ học đại cuơng (Cao Xuân Hạo 
dịch). Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 
10. Hà Vũ Trọng – 
11. Hữu Ngọc 2008. Lãng du trong văn hóa Việt Nam. NXB Thanh Niên. 
12. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant 2002. Từ điển biểu tượng văn hoá thế 
giới. NXB. Đà Nẵng – Trường Viết văn Nguyễn Du. 
13. Nhóm phiên dịch 2002. Kinh Thánh – Cựu Ước và Tân Ước. NXB Tp Hồ 
Chí Minh. 
14. Lê Quang Thiêm 2006. Về khuynh hướng ngữ nghĩa học tri nhận. Tạp chí 
Ngôn ngữ số 11. 
15. Lý Toàn Thắng 2005. Ngôn ngữ học tri nhận – Từ lí thuyết đại cương đến 
thực tiễn tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội . 
16. Lý Toàn Thắng 2001. Bản sắc văn hóa: Thử nhìn từ góc độ tâm lí – 
 ngôn ngữ. Tạp chí Ngôn ngữ số 15. 
17. Nguyễn Công Đức – Nguyễn Hữu Chương 2004. Từ vựng Tiếng Việt. NXB 
Đại Học Quốc Gia Tp HCM – Trường ĐH KHXH&NV. 
18. Nguyễn Đức Dân (và một số tác giả khác) 1986. Ngôn ngữ học: lĩnh vực – 
khuynh hướng – khái niệm. NXB Khoa Học Xã Hội. 
19. Nguyễn Đức Dân 2001. Ngữ dụng học tập I. NXB Giáo dục. 
20. Nguyễn Nguyên Trứ. Đề cương bài giảng về Phong cách học. NXB Đại học 
Sư Phạm. 
21. Nguyễn Văn Hiệp 2008. Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp. NXB Giáo 
Dục. 
22. Nguyễn Thế Truyền 1998. Nghĩa ẩn dụ khẩu ngữ dưới góc nhìn phong cách 
học. Hội Thảo Ngữ học Trẻ – Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. 
23. Nguyễn Đức Tồn 2008. Đặc trưng văn hoá-dân tộc của ngôn ngữ và tư duy. 
NXB Khoa Học Xã Hội. 
24. Nguyễn Hiến Lê 2005. Kinh Dịch. NXB Văn Học. 
25. Nguyễn Thị Ngân Hoa 2001. Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần 
người Việt qua thơ ca. Tạp chí Ngôn ngữ số 8. 
26. Nguyễn Thị Ngân Hoa 2001. Biểu tượng đôi giày trong văn hoá và ngôn 
ngữ thơ ca Việt Nam. Tạp chí Ngôn ngữ số 15. 
27. Nguyễn Thái Hoà 2006. Từ điển tu từ – phong cách – thi pháp học. NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
28. Phạm Văn Tình 2003. Ca từ trong ca khúc hiện nay, đôi điều suy nghĩ. 
Tạp chí Ngôn ngữ số 1,2 . 
29. Trần Ngọc Thêm 2006. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Nxb. Tổng Hợp 
Tp Hồ Chí Minh. 
30. Trần Trương Mỹ Dung 2005. Tìm hiểu ý niệm “buồn” trong tiếng Nga và 
tiếng Anh. Tạp chí Ngôn ngữ số 8. 
31. Trần Văn Cơ 2006. Ngôn ngữ học tri nhận là gì? Tạp chí Ngôn ngữ số 7 . 
32. Trần Văn Cơ 2007. Nhận thức, tri nhận – hai hay một. Tạp chí Ngôn ngữ số 7. 
33. Trần Văn Cơ 2007. Ngôn ngữ học tri nhận. NXB Khoa Học Xã Hội. 
34. Trần Văn Cơ 2009. Khảo luận Ẩn dụ tri nhận. NXB Lao Động Xã Hội. 
35. Trần Thái Đỉnh 2008. Triết học hiện sinh. NXB Văn Học. 
 36. Trần Thị Hồng Hạnh 2007. Sự trùng hợp và khác biệt trong việc chọn lựa 
các ẩn dụ trong các nền văn hoá (trên cứ liệu thành ngữ Tiếng Việt). Tạp chí 
Ngôn ngữ số 11. 
37. Nhiều tác giả 2005. Trịnh Công Sơn Cuộc đời âm nhạc, thơ, hội hoạ & suy 
tưởng. NXB Văn Hoá Sài Gòn. 
38. Trịnh Công Sơn 2006. Tuyển tập những bài ca không năm tháng. NXB Âm 
Nhạc. 
39. Trịnh Xuân Thuận . Văn hóa Phật giáo số Phật đản 2551. 
40. Viện ngôn ngữ học 2005. Từ Điển Tiếng Việt . NXB Tp Hồ Chí Minh. 
41. Thiện Phúc –  
42. Võ Thị Dung 2003. Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri 
nhận. Luận văn Thạc sỹ . Đại học sư Phạm Tp Hồ Chí Minh. 
43. Vũ Thị Thanh Hương, Hoàng Tử Quân 2006. Ngôn ngữ – văn hoá & xã hội 
– Một cách tiếp cận liên ngành, (Tuyển tập dịch). Nxb. Thế giới, Hà Nội. 
44. Vũ Tuấn Anh 2007. Tuyển chọn và giới thiệu – Chế Lan Viên - Về tác gia và 
tác phẩm. NXB Giáo Dục. 
45. Yoshii Michiko (1991), Những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn. 
LVTN tại ĐH Pari 7. 
46. Website của Hội Văn Hóa Trịnh Công Sơn:  
 Tiếng Anh 
47. David Lee 2001. Cognitive Linguistics: An Introduction. Oxford University 
Press. 
48. Gilles Fauconnier & Mark Turner 2002. Rethinking Metaphor, Cambridge 
University Press. 
49. G. Lakoff 1987. Women, Fire and Dangerous Things. Chicago – 
University of Chicago Press. 
50. G. Lakoff & M. Johnson 1999. Philosophy in the Flesh : The Embodied 
Mind and Its Challenge to Western Thought. New York: Basic Books. 
51. G. Lakoff & M. Johnson 2003. Metaphors We Live By. The University of 
Chicago Press. 
52. G. Lakoff 1992. The Contemporary Theory of Metaphor, 
www.wam.umd.edu/~israel/lakoff-ConTheorMetaphor.pdf 
53. G. Lakoff & M.Turner 1989. More Than Cool Reason. A Field Guide to 
Poetic Metaphor. Chicago and London: The University of Chicago Press. 
54. Paul Ricoeur 2007. The Rule of Metaphor. Routledge Classics by 
Routledge. 
55.  
 DANH SÁCH NHỮNG ẨN DỤ Ý NIỆM 
ĐƯỢC NÊU LÊN TRONG LUẬN VĂN 
1. BẤT HẠNH ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI. 
2. BỆNH TẬT ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI. 
3. BIỂU THỨC NGÔN NGỮ LÀ VẬT CHỨA ĐỐI VỚI Ý NGHĨA. 
4. CÁC CỤ LÀ NHỮNG CÂY ĐA, CÂY ĐỀ CỦA LÀNG. 
5. CÁC QUAN THAM LÀ LŨ ĐỈA ĐÓI. 
6. CÁI THIÊNG LIÊNG, SÁNG SỦA ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN. 
7. CÁI TỐT ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN. 
8. CÁI TRẦN TỤC, HẮC ÁM ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI. 
9. CÁI XẤU ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI. 
10. CĂM GIẬN LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
11. CẬU BÉ NÀY LÀ MỘT PELÉ CỦA CHÚNG TA. 
12. CHẾT LÀ CON ĐƯỜNG. 
13. CHẾT LÀ VỀ. 
14. CHIẾN TRANH LÀ SỰ TIẾP TỤC CỦA CHÍNH TRỊ. 
15. CHÚNG EM LÀ MẶT ĐẤT LUÔN NỞ HOA. 
16. CON NGƯỜI LÀ CÂY. 
17. CON TRÂU LÀ ĐẦU CƠ NGHIỆP. 
18. CUỘC ĐỜI LÀ CHO ĐI. 
19. CUỘC ĐỜI LÀ CÕI ĐI VỀ. 
20. CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM. 
21. CUỘC ĐỜI LÀ CON NƯỚC TRÔI. 
22. CUỘC ĐỜI LÀ ĐỐM LỬA. 
23. CUỘC ĐỜI LÀ NHỮNG CHUYẾN XE. 
24. CUỘC ĐỜI LÀ NHỮNG CHUYẾN ĐI. 
25. CUỘC ĐỜI LÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG. 
26. CUỘC ĐỜI LÀ QUÁN KHÔNG. 
27. CUỘC ĐỜI LÀ THÁC ĐỔ. 
28. CUỘC ĐỜI LÀ TRĂM NĂM. 
29. CUỘC SỐNG LÀ ĐI ĐẾN CÁI CHẾT. 
30. ĐẤT NƯỚC LÀ CON ĐƯỜNG. 
31. ĐAU KHỔ LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
 32. ĐÊM THẤY TA LÀ THÁC ĐỔ. 
33. ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
34. EM LÀ ĐÓA QUỲNH. 
35. GẶP GỠ ĐÁNH DẤU MỘT CHẶNG ĐƯỜNG ĐÃ ĐI ĐƯỢC. 
36. HÀ NỘI LÀ TRÁI TIM CỦA TỔ QUỐC. 
37. HẠNH PHÚC ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN. 
38. HẠNH PHÚC LÀ ĐẤU TRANH. 
39. HẠNH PHÚC LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
40. IM LẶNG LÀ KHOẢNG DỪNG CỦA CUỘC HÀNH TRÌNH. 
41. KIẾP NGƯỜI LÀ HẠT BỤI. 
42. LÃO TA LÀ CON DÊ GIÀ. 
43. LÒNG CĂM THÙ LÀ CON DAO HAI LƯỠI. 
44. LÝ TƯỞNG LÀ CON ĐƯỜNG. 
45. MẤT MÁT LÀ NHỮNG VỰC THẲM CỦA CON ĐƯỜNG. 
46. NAM LÀ CÂY KỂ CHUYỆN CỔ TÍCH. 
47. NAM LÀ CON CHÓ. 
48. NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN LÀ CUỘC CÁCH MẠNG. 
49. ÔNG A LÀ MỘT HẢI THƯỢNG LÃNG ÔNG CỦA THẾ KỈ HĂM MỐT. 
50. QUYỀN LỰC (SỨC MẠNH) ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN. 
51. SÀI GÒN LÀ HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG. 
52. SỐ PHẬN LÀ CON ĐƯỜNG. 
53. SỐNG LÀ ĐẤU TRANH. 
54. SỐNG LÀ GỬI (CÕI TẠM). 
55. SỰ CHẾT LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
56. SỰ SỐNG LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
57. SỨC KHỎE ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN. 
58. THÁC LÀ VỀ (CÕI VĨNH HẰNG). 
59. THÂN PHẬN TÔI CHỈ LÀ LOÀI CỎ THẢO. 
60. THIÊN THU LÀ CON ĐƯỜNG KHÔNG BẾN BỜ. 
61. THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC. 
62. THUỘC QUYỀN (YẾU) ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI. 
63. TÌM KIẾM CHÂN LÝ LÀ MỤC ĐÍCH CỦA CÕI ĐI VỀ. 
64. TÌNH YÊU ANH EM LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
65. TÌNH YÊU LÀ CHIẾN TRANH. 
 66. TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH. 
67. TÌNH YÊU LÀ ĐÁ CUỘI. 
68. TÌNH YÊU LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
69. TÌNH YÊU LÀ QUÁN TRỌ. 
70. TÌNH YÊU LÀ SỨC MẠNH VẬT LÍ. 
71. TÌNH YÊU LÀ THUYỀN VÀ BIỂN. 
72. TÌNH YÊU LÀ VẬT HIẾN. 
73. TÌNH YÊU NAM NỮ LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
74. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
75. TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN LÀ ĐOÁ HOA VÔ THƯỜNG. 
76. TRẦU CAU LÀ XÃ GIAO. 
77. TRÍ THỨC LÀ SỨC MẠNH. 
78. VỢ (CHỒNG) LÀ NHÀ. 
 BẢNG TỪ VỰNG TINH THẦN 
(NHỮNG Ý NIỆM TẠO NÊN MIỀN NGUỒN) 
Ý NIỆM MIỀN NGUỒN DẪN CHỨNG 
a/ Con người: 
Các bộ phận cơ thể 
Mắt Mỗi vết thương lành, một nỗi vui 
Mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay 
Dù em khẽ bước không thành tiếng 
Cõi đời bao la vẫn ngân dài. (Vẫn có em bên đời) 
Đôi mắt nào mở ra trên vai 
Nhìn bàn tay tìm hướng tương lai. (Đôi mắt nào mở ra ) 
Tay Sống có đôi tay đôi tay thật dài ôm quanh tình người 
Sống có đôi chân đôi chân mệt nhoài một đời tới lui. 
(Giọt lệ thiên thu) 
Người ngồi xuống xin mưa đầy 
Trên hai tay cơn đau dài 
Người nằm xuống nghe tiếng ru 
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ. (Mưa hồng) 
Chân Khi tay xa rồi 
Hồn mây tím trời 
Khi chân bước rời 
Hồn lên từng cõi. (Gọi đời lên mau) 
Tim Tim mỗi người là quê nhà nhỏ 
Tình nồng thắm như mặt trời xa. 
(Em là hoa hồng nhỏ) 
Nước mắt Ngồi một mình nghe hơi mưa 
Mắt lệ tràn câu thiên thu. (Chủ nhật buồn) 
Tóc – Môi – Vai – Tay 
Vui – Buồn – Hờn 
Nắng – Mưa – Lá cây 
Nắng có hồng bằng đôi môi em 
Mưa có buồn bằng đôi mắt em 
Tóc em từng sợi nhỏ 
Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh 
Gió sẽ mừng vì tóc em bay 
Cho mây hờn ngủ quên trên vai 
Vai em gầy guộc nhỏ 
Như cánh vạc về chốn xa xôi 
Nắng có còn hờn ghen môi em 
Mưa có còn buồn trong mắt trong 
Từ lúc đưa em về 
Là biết xa nghìn trùng 
Suối đón từng bàn chân em qua 
Lá hát từ bàn tay thơm tho 
Lá khô vì đợi chờ 
Cũng như đời người mãi âm u 
Nơi em về ngày vui không em 
Nơi em về trời xanh không em 
 Ta nghe nghìn giọt lệ 
Rớt xuống thành hồ nước long lanh. (Như cánh vạc bay) 
Những biểu hiện cảm xúc 
Vui Hôm nay tôi nghe có con chim về gọi Về giữa trời về hót giữa đời tôi. 
Hôm nay tôi nghe 
Tôi cười như đứa bé 
Mới lớn lên giữa đời sống kia 
Tôi thấy màu xanh hát trong lời gió 
Và thấy bình minh thắp trên ngọn lá 
Tôi thấy ngày thật lạ 
Xao xuyến từng nỗi nhớ. (Hôm nay tôi nghe ) 
Buồn 
Rồi một lần kia khăn gói đi xa 
Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà 
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế 
Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ 
(Bên đời hiu quạnh) 
Một hôm buồn ra ngắm giòng sông 
Một hôm buồn lên núi nằm xuống. (Tư tình khúc) 
Yêu 
Có vui buồn, đợi chờ, 
xa cách... 
Tôi đã yêu em bao ngày nắng 
Tôi đã yêu em bao ngày mưa 
Yêu em bên đời lặng lẽ 
Tôi đã đưa em qua nhiều phố 
Những sáng mênh mông tôi ngồi nhớ 
Yêu em trái tim thật thà 
Yêu đầy mùa nắng mùa mưa 
Yêu trong nỗi vui đợi chờ 
Đâu ngờ tình như lá úa 
Khiến tôi chia lìa từng giấc mơ 
Tôi đã yêu em trong mùa gió 
Khi lá cây khô bay đầy ngõ 
Yêu em không cần vội vã 
Tôi đã yêu em như trẻ thơ 
Đâu biết đôi khi có lìa xa 
Yêu trong nỗi đau tình cờ. (Trong nỗi đau tình cờ) 
Chờ đợi Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá Đợi xóa sân si dưới bóng bồ đề 
Đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ 
Đợi có tiếng cười trong nỗi lo 
Đợi làm đôi chân đi quanh thế giới 
Để thấy con tim thế giới hẹp hòi 
Đợi nghe lương tâm con người trở lại 
Đợi đã héo mòn những sớm mai (Đợi có một ngày) 
Nhớ Chiều một mình qua phố Âm thầm nhớ nhớ tên em 
 Gió ơi gió ơi bay lên 
Để bụi đường cay lòng mắt (Chiều một mình qua phố ) 
Em đi bỏ lại con đường 
Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em 
Ra đi em đi bỏ lại dậm trường 
Ngàn dâu cố quận muôn trùng nhớ thêm. 
(Em đi bỏ lại con đường) 
Tình Hãy, khóc đi em cuối cuộc tình Còn đâu những mặn nồng 
Hãy khóc ,hãy khóc đi em có còn gì 
Tình đã mất... đường về. (Hãy khóc đi em ) 
Những hoạt động của con người 
Đi - Về Về thu xếp lại Ngày trong nếp ngày 
Vội vàng thêm những lúc yêu người 
Cuồng phong cánh mỏi 
Về bên núi đợi 
Ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay 
(Chiếc lá thu phai ) 
Mình tôi đi, triền núi đến, 
Tôi xe cát nghe thân lưu đày, 
Tình tôi đi, làn sóng đến, 
Nghe công vỡ cho thân ru mềm. (Dã tràng ca) 
Sống - Chết Sống từng ngày Chết từng ngày 
Còn sống một ngày 
Là hẹn chết mai đây. (Buồn từng phút giây) 
Tìm kiếm Tìm tình tìm tình trong nắng em gặp cơn mưa Ô hay, tìm tình giữa ngọ buồn lưa thưa về 
Tìm tình tìm tình trên núi em gặp mây bay 
Ô hay, tìm tình giữa chợ tình phai mất rồi 
(Bống không là bống) 
Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố 
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ 
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa 
Làm lời lá bay trên đường đi 
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia 
Làm hồng chút môi cho em nhờ 
(Cho đời chút ơn) 
Nghe Nghe trăm tiếng ngậm ngùi Nghe lăng miếu trùng vây 
Nghe xa cách cuộc đời 
Nghe hoang phế cạnh đây. 
 (Nghe những tàn phai) 
Chọn lựa Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui 
Cùng với anh em tìm đến mọi người 
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát 
Để thấy tiếng cười rộn rã bay. 
 (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui) 
Xin Xin cho tôi là kiếp của mây 
Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời 
Để bao giờ trời đất yên vui 
Xin cho tôi xin lại cuộc đời. 
(Xin cho tôi) 
Lời ru Ru mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng 
Bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm 
Giận hờn sẽ quên dáng em trôi dài 
Trôi mãi trôi trên ngàn năm 
(Ru em từng ngón xuân hồng) 
Các giá trị văn hoá 
Địa danh Đêm Sông Hương nhung nhớ Ngày Cửu Long mơ 
Mơ thấy gì 
Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội Trùng Dương. 
(Lại gần với nhau) 
Con đường Đường rất mừng, một đường rất mừng Đường bay đầy một đàn chim trắng 
Chân thong dong không còn bước ngập ngừng 
Đường nối liền. (Có những con đường) 
Phố Tôi đã đến cùng nắng mưa bên trời Thấy phố nhà mọc giữa đôi tay 
Làm sao đi đến từng trái tim mọi người 
Muốn nghe đời gọi giùm sống thôi. (Tôi sẽ nhớ) 
Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh 
Đàn chim non réo bên vườn hoang 
Người ra đi bến sông nằm lạnh 
Này nhân gian có nghe đời nghiêng. 
(Có nghe đời nghiêng) 
Cây cầu Em đi qua cầu Chở chiều trên vai 
Ngậm buồn trên môi 
Trái tim đã hoài 
Một người nằm xuống 
Một người nơi đây. (Em đi trong chiều) 
Nhà Chân đi xa trái tim bên nhà Thềm đá nằm thềm đá nghe mưa. 
(Có nghe đời nghiêng) 
b/ Thiên nhiên: 
Ngày tháng - Các mùa 
Chiều Chiều nay bên trời xao xuyến Còn em trong từng nhớ thương 
(Vẫn có em bên đời) 
Chiều trên quê hương tôi 
Có những chốn riêng cho mọi nguời 
Những con đường lứa đôi 
Những góc hè phố vui 
Giọt chiều trên lá 
Như mắt người cười giữa chiều phai 
(Chiều trên quê hương tôi) 
Xuân – Hạ – Thu - 
Đông 
Không hẹn mà đến, không chờ mà đi 
Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta 
Bên trời xanh mãi những nụ mầm mới 
Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười. 
(Bốn mùa thay lá) 
Xuân hạ thu đông bốn mùa làm tóc trắng, 
tôi gọi tên tôi khắp chốn non ngàn, 
tôi dìu tôi đi giữa trời lên bão tố, 
xuân hạ thu đông theo gót chân hờ. (Dã tràng ca) 
Cây cối 
Hoa lá Chiều đã đi vào vườn mắt em Mùa thu qua tay đã bao lần 
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng 
Để nắng đi vào trong mắt em. (Nắng thuỷ tinh) 
Đồng lúa Mẹ Việt nằm hai mươi năm Xương da mềm, đợi giờ sông núi thiêng 
Một màu vàng trên da thơm 
Nên giữ gìn màu lúa chín quê hương. 
(Ngày dài trên quê hương) 
Trên cánh đồng lúa đã lên 
Người dân ta nhiều năm nhìn cây trái đã khô vườn 
 hoang 
Ngày mai đây nhìn quanh hoà bình sẽ tưới xanh ruộng 
đồng. (Ngày mai đây bình yên) 
Đất đá – tro bụi Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động Làm sao em biết bia đá không đau 
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng 
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.(Diễm xưa) 
Qua bao mùa em đã lớn 
Đất cho em trái tim nồng nàn 
(Em ở nông trường, Em ra biên giới) 
Các hiện tượng thiên nhiên 
Mặt trời Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ 
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa (Cỏ xót xa đưa) 
Hôm nay thức dậy không nhìn thấy mặt trời 
Hay mình đã lạc loài 
Vó ngựa trên đời hay dấu chim bay. (Xa dấu mặt trời) 
Bốn mùa Bốn mùa như gió, bốn mùa như mây Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi 
(Bốn mùa thay lá) 
Mây Em xin tuổi nào Còn tuổi nào cho nhau 
Trời xanh trong mắt em sâu 
Mây xuống vây quanh giọt sầu. (Còn tuổi nào cho em) 
Gió Rừng núi loan tin đến mọi miền Gió Hoà bình bay về muôn hướng. 
(Ta thấy gì đêm nay) 
Đá lăn vết lăn buồn 
Từ hoang xưa dấu chân anh dã cầm 
Ôi vết hằn ghi trên bồn gió hoang 
Chờ ta da du một chuyến 
Ôi môi hờn xin đừng kể lại tích xưa buồn hơn 
Đợi chờ năm làm gió qua truông thiên đàng 
(Vết lăn trầm) 
Nắng Người đứng chờ gió đồng vi vu Vạt nắng vàng nhắc lời thiên thu 
Nhớ ngàn năm trôi qua. (Sóng về đâu) 
Mưa 
Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ 
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua 
Trên bước chân em âm thầm lá đổ 
 Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa. (Diễm xưa) 
Núi Ngày mai em đi Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ 
Sỏi đá trông em từng giờ 
Nghe buồn nhịp chân bơ vơ (Biển nhớ) 
Rừng Ta vẫn mong ta chờ mãi trên từng ngày quạnh hiu Ta vẫn mong em về đấy cho đời bày cuộc vui 
Mùa Xuân đã đến em hãy quay về 
Rừng xưa đã khép em hãy ra đi. (Rừng xưa đã khép) 
Biển Ngày mai em đi Biển nhớ tên em gọi về 
Triều sương ướt đẫm cơn mê 
Trời cao níu bước sơn khê. (Biển nhớ) 
Biển ơi! Có tình vui đùa ,có tình ơ hờ 
Là tại sao? Là tại sao 
Có tình ân cần, có tình không tình, giữa vực sâu 
Biển ơi! Cát mòn thân rồi, gió mòn thân rồi 
Gió mòn, cát mòn. (Muôn trùng biển ơi) 
Dòng sông Tóc người dòng sông xưa ấy đã phai Đã lênh đênh biển khơi 
Có lần bàn chân qua phố thấy người 
Sóng lao xao bờ tôi. (Có một dòng sông đã qua đời) 
Sóng Biển sóng biển sóng đừng xô tôi Đừng xô tôi ngã giữa tim người 
Biển sóng biển sóng đừng xô tôi 
Đừng cho tôi thấy hết tim người. (Sóng về đâu) 
Đêm Đêm ôm vai em nhỏ Giấc ngủ như chiêm bao 
Đêm thơm từng chiếc lá 
Cho tình bay lên cao 
Đêm sâu không xa lạ 
Kéo gần đêm thiên thu 
Đêm xin thành nỗi nhớ 
Đêm đợi đoá hẹn hò. (Đêm) 
 BẢNG TỪ VỰNG TINH THẦN 
(NHỮNG Ý NIỆM TẠO NÊN MIỀN ĐÍCH) 
Ý NIỆM MIỀN ĐÍCH 
DẪN CHỨNG 
Con người: 
Mẹ 
Mẹ là gió uốn quanh 
Trên đời con thầm lặng 
Trong câu hát thanh bình 
Mẹ làm gió mong manh 
Mẹ là nước chứa chan 
Trôi dùm con phiền muộn. (Huyền thoại mẹ) 
Tôi 
Nhưng hôm nay không còn trẻ nhỏ như xưa 
Tôi thấy tôi là chiếc bóng phai mờ 
Nhưng hôm nay không còn một hồn bao la 
Tôi thấy tôi là chút vết mực nhoè. (Ngày nay không còn bé) 
Ta 
Nhiều đêm thấy ta là thác đổ. (Đêm thấy ta là thác đổ) 
Từ đó ta là đêm 
Nở đoá hoa vô thường. (Đóa hoa vô thường) 
Em 
Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm 
Cho đời chút ơn biết tà áo nọ 
Em là phấn thơm cho rừng chút hương 
Là lời hát ca cho trần gian. (Cho đời chút ơn) 
Từ đó em là sương 
Rụng mát trong bình minh. (Đóa hoa vô thường) 
Từ khi em là nguyệt trong tôi có những mặt trời. 
(Nguyệt ca) 
Đời Đời ta có khi là đốm lửa Một hôm nhuốm trong vườn khuya. (Đêm thấy ta là thác đổ) 
Lời hẹn thề Lời hẹn thề là những cơn mưa. (Tình xa) 
Lời ru Ru trên đường em đến xôn xao từng tiếng chim Ru em là cánh nhạn miệng ngọt hạt từ tâm. (Ru tình) 
Lời ca dao Đường quê hương xin em đừng quên lối Lời ca dao trên môi là tiếng nói. (Hãy nhìn lại) 
 Sống - Chết 
Sống từng ngày 
Chết từng ngày 
Còn sống một ngày 
Là hẹn chết mai đây (Là hẹn chết không may). 
Quê hương 
Quê hương là nỗi nhớ 
Đời nhẹ như lá thu 
Yêu càng yêu quê nhà 
Yêu những đời bão tố 
Nhọc nhằn trong nắng mưa.(Cánh chim cô đơn) 
Hoà bình 
Hoà Bình ! Hòa Bình! 
Là mơ ước ba mươi triệu người. (Hoà bình là cơm áo) 
Tình 
Hôn nhau lần cuối hôn nhau lần đầu 
Tình bỗng là bể dâu. (Như một vết thương) 
Tình cho nhau môi ấm 
Một lần là trăm năm. (Tình sầu) 
Môi Môi mỉm cười là những nụ hoa.(Em là hoa hồng nhỏ) 
Tim 
Triệu bàn chân chúng ta bước đi trên mặt đất này 
Trong tim con người là một đồng lúa mới. 
(Cho quê hương mỉm cười) 
Tim em ở trọ là tôi 
Mai kia về chốn xa xôi cũng gần. (Ở trọ) 
Tim mỗi người là quê nhà nhỏ. (Em là hoa hồng nhỏ) 
Con mắt 
Còn hai con mắt khóc người một con 
Còn hai con mắt một con khóc người 
Con mắt còn lại nhìn đời là không 
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng 
Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm 
Nhìn em ra đi lòng em xa vắng 
Con mắt còn lại là đêm tối tăm 
Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.(Con mắt còn lại) 
Buồn vui Từ trăng thôi là nguyệt một hôm bỗng nghe ra Buồn vui kia là một như quên trong nỗi nhớ. (Nguyệt ca) 
Thiên nhiên: 
Trăng Từ khi trăng là nguyệt đèn thắp sáng trong tôi Từ khi trăng là nguyệt em mang tim bối rối. (Nguyệt ca) 
 Con sông 
Em đi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằm ngủ 
Con sông là quán trọ và trăng tên lãng du 
Em đi qua chuyến đò ối a con trăng còn trẻ 
Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già 
(Biết đâu nguồn cội) 
Mưa 
Đôi tay mùa hạ phố mưa tôi tìm 
Lênh đênh từng ngọn gió bay xa gần 
Cơn mưa là nắng vô thường. (Mưa mùa hạ) 
Biển 
Biển là em ngọt đắng trùng khơi 
Biển nghìn thu ở lại, nghìn thu ngậm ngùi 
(Biển nghìn thu ở lại) 
Đồng ruộng 
Ngày mai đây ruộng xanh là niềm tin cấy trên lòng anh 
Vì quanh đây nhờ anh người người đã sống trong yên lành. 
(Ngày mai đây bình yên) 
Hoa 
Từ đó hoa là em 
Một sớm kia rất hồng 
Nở hết trong hoàng hôn 
Đợi gió vô thường lên (Đóa hoa vô thường) 
Mây 
Con sông là thuyền, mây xa là buồm 
Từng giọt sương thu hết mênh mông 
Những giọt mưa, những nụ hoa 
Hẹn hò gặp nhau trước sân nhà. (Bốn mùa thay lá) 
Sương thu Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho. (Chìm dưới cơn mưa) 
Thiên thu Chợt tôi thấy thiên thu là Một đường không bến bờ. (Lời thiên thu gọi) 
Trời đất Ôi ! thiên đàng thuở nhỏ, ngai vàng từ thuở thuở mới sinh ra trời đất là nhà. (Dã tràng ca) 
 CÁC TÁC GIA 
1
 Ferdinand de Saussure (26/11/1857 – 22/2/1913) là một nhà ngôn ngữ 
học người Thụy Sĩ sinh trưởng tại Genève. Ý tưởng của ông đã đặt nền tảng 
cho những thành tựu phát triển của bộ môn ngôn ngữ học trong thế kỷ 20. 
Ông được coi là cha đẻ của ngành ngôn ngữ học thế kỷ 20. Tác phẩm bất 
hủ của ông là cuốn “Cours de linguistique generale”, xuất bản lần đầu tiên 
vào năm 1913, đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên ở Việt 
Nam năm 1973 do Cao Xuân Hạo dịch. 
2
 Aristotle (384-322 trước Công nguyên) là một triết gia vĩ đại thời Cổ Hi-lạp. 
Ông chia triết học thành ba phần: lí thuyết, thực hành và sáng tạo. Công cụ 
dùng để nghiên cứu triết học là logic học. Nội dung của loại triết học thứ ba 
– triết học sáng tạo – trước hết là nghệ thuật ngôn từ bao gồm thuật hùng 
biện và thi ca. Vấn đề ẩn dụ được bàn đến trong hai tác phẩm “Thuật hùng 
biện” , quyển III, các chương 4, 11, khoảng năm 355 trước Công nguyên) 
và Poetics (Thi ca). 
3
 Ludwig Josef Johann Wittgenstein (26/4/1889 – 29/4/1951) là nhà triết học 
Anh-Áo, nghiên cứu về Logic học, Triết học về Toán, Tư tưởng và về Ngôn 
ngữ. 
4
 Donald Herbert Davidson (6/3/1917 – 30/8/2003) – nhà nghiên cứu Triết học 
người Mỹ. 
5
 Max Black (24/2/1909 – 27/8/1988) – nhà nghiên cứu Triết học Anh-Mỹ lỗi 
lạc người gốc Azerbaijan. 
6
 George P. Lakoff (24/5/1941 - ) là Giáo sư về Ngôn ngữ học Tri nhận tại 
trường Đại học California, Berkeley, từ 1972. 
7
 Mark L. Johnson (24/5/1949- ) là Knight Professor (Giáo sư Hiệp sĩ – Giáo 
sư Danh dự) về “Liberal Arts and Sciences” tại khoa Triết thuộc trường Đại 
học Oregon. Là đồng tác giả cuốn “Ẩn dụ mà chúng ta đang sống” với G. 
Lakoff. 
8
 Gilles Fauconnier (19/8/1944 - ) là nhà ngôn ngữ học người Pháp, chuyên về 
Khoa học tri nhận (Cognitive Science). Ông là giảng viên của khoa Khoa 
học Tri nhận (Cognitive Science) tại trường Đại học California, San Diego. 
Công trình của Ông và Mark Turner là nền tảng của lý thuyết “conceptual 
blending – Hội nhập ý niệm”. 
9
 Charles J. Fillmore (1929), nhà ngôn ngữ học người Mỹ, Giáo sư Danh dự 
(Professor Emeritus – danh hiệu dùng để chỉ các Giáo sư Đại học xuất sắc 
đã về hưu; cũng dùng để chỉ các Giáo sư về hưu mà vẫn còn tiếp tục giảng 
dạy) về Ngôn ngữ học của trường Đại học California, Berkeley. 
10
 Ray Jackendoff (23/1/1945) là nhà ngôn ngữ học người Mỹ, Giáo sư về Triết, 
Chủ tịch danh dự “Seth Merrin Chair” của khoa Nhân loại học và cùng với 
Daniel Dennett, là đồng Chủ nhiệm Trung tâm “Center for Cognitive 
Studies” tại trường Đại học Tufts. Ông nhận giải thưởng Jean Nicod tại 
Paris năm 2003. 
11
 Zoltán Kövecses – nhà ngôn ngữ học người Hungary, giảng viên trường Đại 
học Eötvös Loránd, Hungary. 
12
 Ronald W. Langacker (27/12/1942) – nhà ngôn ngữ học người Mỹ và Giáo 
sư danh dự của trường Đại học California, San Diego. 
13
 Eleanor Rosch (còn được biết với tên - Eleanor Rosch Heider) Giáo sư Tâm 
lý học tại trường Đại học California, Berkeley. 
14
 Leonard Talmy – Giảng viên về Ngôn ngữ học và Triết học tại trường Đại 
học Buffalo ở New York. 
15
 Mark Turner (1954) là nhà nghiên cứu Khoa học Tri nhận, Ngôn ngữ. Là 
Giám đốc sáng lập của Mạng Khoa học Tri nhận “Cognitive Science 
Network”. Ông nhận giải thưởng “Prix du Rayonnement de la langue et de 
la littérature françaises” của Viện Hàn Lâm Khoa học Pháp vào năm 1996. 
16
 Anna Wierzbicka (1938) là nhà ngôn ngữ học người Ba Lan và đang giảng 
dạy tại trường Đại học Quốc gia Úc. 
17
 Yuri Sergeevitch Stepanov (1930-) – nhà ngôn ngữ học người Nga. 
18
 Yurii Derenikovich Apresian là Trưởng khoa Ngữ nghĩa học, Học viện 
Ngôn ngữ Nga, RAS (Russian Academy of Sciences – Hàn lâm viện khoa 
học Nga) và là Nghiên cứu viên chính tại Học viện Các vấn đề Truyền 
thông, RAS. 
19
 Valeri Demiankov – Giáo sư về Ngữ văn Ngôn ngữ Slave và Đông Âu tại 
trường Đại học Sư phạm Mátxcơva. 
20
 Elena Samoilovna Kubriakova – nhà ngôn ngữ học người Nga. 
21
 Wallace Chafe (1927) – nhà ngôn ngữ học người Mỹ, là Giáo sư danh dự của 
trường Đại học California, Santa Barbara. 
22
 Marvin Lee Minsky (9/8/1927) – nhà nghiên cứu Khoa học Tri nhận người 
Mỹ trong lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence (AI)), đồng sáng 
lập Phòng thí nghiệm về Trí tuệ nhân tạo của MIT (MIT's AI Laboratory). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
ThanhHuyenluanvanv.1.0.1.pdf