1.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa kinh tế –tài chính đang diễn ra nhanh và mạnh mẽ như hiện nay thì đảm bảo an ninh tài chính là một vấn đề sống còn đối với mỗi quốc gia. Anh hưởng của xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính buộc các nước phải đối mặt với những rủi ro tài chính ngày càng lớn và khủng hoảng tài chính đã trở thành mối đe dọa chủ yếu đến an ninh kinh tế thế giới. Chính vì vậy, tăng cường an ninh tài chính, hoàn thiện và cải cách thể chế giám sát tài chính , thiết lập cơ chế ứng phó tiền tệ cần thiết , cơ chế ngăn chặn rủi ro linh hoạt, tăng cường phối hợp và hợp tác với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực tài chính đã trở thành nội dung chính của an ninh kinh tế thế giới . Đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, việc đảm bảo an ninh tài chính càng có ý nghĩa quan trọng , là một trong những điều kiện tiên quyết đến việc phát triển kinh tế với tốc độ cao và ổn định.
Với nhận thức trên tác giả chọn đề tài : “ An ninh tài chính đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại trong tiến trình hội nhập “ làm luận văn nghiên cứu với mục tiêu là đưa ra các giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập .
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề chung cơ bản của ngân hàng thương mại, các quy chế hoạt động của NHTM để đi vào nghiên cứu những vấn đề có thể tác động đến an ninh tài chính của NHTM trong tiến trình hội nhập từ đó đưa ra những giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với các NHTM hiện nay.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử , phương pháp thống kê, phương pháp quan sát lịch sử .Phương pháp phân tích tổng hợp nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể và kết hợp với kiến thức các môn học và số liệu từ NHTM , sử dụng kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tiền tệ – ngân hàng , những tài liệu trong và ngoài nước đã giúp cho đề tài được phong phú , mở rộng và thể hiện tính thiết thực hơn của đề tài
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn An ninh tài chính đối với hoạt động của các ngân hàng trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a hình thức mua cổ phần hoặc
hùn vốn đầu tư . Các tổ chức tín dụng có năng lực cạnh tranh kém sẽ phải đối mặt với
nguy cơ thua lỗ và phá sản , thậm chí ảnh hưởng cả đến hoạt động kinh doanh của những
khách hàng chiến lược đang được sự bảo hộ của nhà nước như các doanh nghiệp trong
lĩnh vực sắt thép, xi măng, phân bón, hóa chất…
Một thách thức nữa mà hệ thống NHVN sẽ phải đối mặt chính là những rủi ro
phát sinh do các cuộc khủng hoảng từ thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Những ‘ cú
sốc ‘ tài chính sẽ có thể ảnh hưởng lan truyền tới các hoạt động tín dụng tại Việt Nam .
Trước những khó khăn và thách thức đó , với sự tư vấn của các chuyên gia
Australia , NHNN VN đã xây dựng và triển khai : Chương trình hành động hội nhập
kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng; Kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân
hàng và Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 với nội dung định hướng
cơ bản các giải pháp và lộ trình hội nhập quốc tế . Theo đó, các đơn vị tín dụng tuỳ theo
năng lực của mình để đưa ra những biện pháp chuẩn bị thích hợp.
Trong Chiến lược phát triển từ nay đến năm 2010, NHNN VN yêu cầu các đơn vị
phải :
o nâng cao chính sách tiền tệ ;
o nâng cao năng lực tài chính ;
o hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng ;
o phát triển thị trường tiền tệ ;
o hiện đại hóa công nghệ và hệ thống thanh toán;
o theo dõi sát sao các biến động trên thị trường tài chính thế giới .
61
Tất cả các chương trình chiến lược này phải đáp ứng được yêu cầu hổ trợ thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội . Để thực hiện được chiến lược phát triển, các
ngân hàng sẽ phải tự tháo gỡ các khó khăn nội tại , tìm ra cho mình một chiến lược phát
triển hợp lý thì mới có thể đứng vững được trên thị trường tài chính quốc tế.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
VÀ ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG NHTM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
Căn cứ vào mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng trong những năm tới và thực
trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, để đảm bảo an ninh tài chính cần tiến
hành nhiều giải pháp một cách hệ thống và liên tục, cả trong ngắn hạn và trong dài hạn.
3.2.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng
Vốn tự có của ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở để tính toán
đảm bảo an ninh tài chính. Theo tài liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN ) tổng số vốn
tự có của 6 NHTM nhà nước chỉ có 5.600 tỷ đồng tương đương khoảng 400 triệu USD,
với số vốn này không đáp ứng được các yêu cầu chuẩn mực quốc tế .
Đối với NHTM Nhà nước, muốn đạt tỷ lệ an toàn tối thiểu theo tiêu chuẩn Basle là
8% vốn tự có trên tổng tài sản có thì lượng vốn cần bổ sung tại thời điểm cuối năm 2000
là khoảng 10.000 tỷ đồng. Nếu dư nợ cho vay bình quân tăng 18% /năm thí mức vốn tối
thiểu của các NHTM Nhà nước phải là 23.000 tỷ đồng. Mục tiêu tăng dư nợ cho vay nền
kinh tế cả giai đọan 2001-2006 là 16-20%. Riêng giai đoạn 2001-2005 mức dư nợ cho
vay nền kinh tế tăng bình quân 22% / năm, đến năm 2005 tổng dư nợ đạt khoảng 450.000
tỷ đồng tương đương trên 60% GDP, phấn đấu đưa tỷ lệ đầu tư tín dụng chiếm khoảng
25-30% tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó tín dụng trung, dài hạn duy trì ở mức 40% tổng
dư nợ cho vay nền kinh tế, dư nợ cho vay khu vực quốc doanh giảm xuống còn 35%,
cho vay khu vực ngoài quốc doanh tăng lên 65% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của hệ
thống ngân hàng ( Theo tài liệu Kế hoạch phát triển ngân hàng 5 năm 2001-2005 và
Chiến lược phát triển ngân hàng 2001-2010). Chính vì vậy, việc tăng vốn điều lệ của các
NHTM trong thời gian qua đã chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi các chính sách mới, trong
62
đó các thông lệ quốc tế tốt nhất bắt đầu được áp dụng trong các chính sách này. Giải
quyết vấn đề vốn cho ngân hàng trước hết tập trung vào các giải pháp sau đây :
Thứ nhất : các NHTM cần tiến hành tăng vốn điều lệ đảm bảo tiềm lực tài chính
thật sự cho các ngân hàng này, để lành mạnh hóa tài chính và trụ vững trước khi tiến
hành hội nhập. Có thể nhận định một cách khái quát việc tăng vốn điều lệ của các NHTM
xuất phát từ sức ép của một số chính sách mới. Như đối với quyết định 457 / 2005 /QĐ –
NHNN ngày 19 /04/2005 về đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng ( TCTD ) thì hàng loạt thông lệ quốc tế tốt nhất về quản trị rủi rotại các NH dựa
trên Hiệp ước Basel 1 và Basel 2 bắt đầu được áp dụng . Đặc biệt, để đảm bảo tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu >8% thì yếu tố vốn bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 , trong đó chủ yếu
vẫn là vốn điều lệ đóng vai trò then chốt quyết định đến mức độ hoàn thành hay không
hoàn thành tỷ lệ này theo quy định của từng ngân hàng.
Thứ hai : theo Nghị định 166 / NĐ –CP của Chính phủ quy định NHTM được
trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm là 5% / lợi nhuận ròng. Song do tỷ lệ
lợi nhuận thấp nên mức trích thấp, vì vậy cần xem xét tăng tỷ lệ trích này lên khoảng 7%
hoặc tối đa là 10% trong vòng 3 năm tới để giúp các ngân hàng nhanh chóng tăng vốn
điều lệ đủ khả năng cạnh tranh, mở rộng hoạt động tín dụng phục vụ các mục tiêu tăng
trưởng kinh tế .
Thứ ba : tiến hành cổ phần hóa một vài NHTM Nhà nước để tăng vốn cho các
ngân hàng này , đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và cải thiện tổ chức quản lý trong khi
Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối . Trước mắt có thể tiến hành cổ phần hóa ngân hàng
Ngoại thương thông qua phát hành cổ phiếu ra bên ngoài , kể cả cho người nước ngoài
trong giới hạn nhất định. Chuẩn bị ngay các điều kiện để niêm yết cổ phiếu của ngân
hàng Ngoại thương trên Sở giao dịch chứng khoán . Cần lưu ý là cổ phần hóa chỉ tiến
hành sau khi đã tách cho vay chính sách khỏi chức năng của NHTM Nhà nước. Đối
tượng cổ phần hoá tiếp theo có thể là ngân hàng Công thương theo các nguyên tắc như
đã áp dụng đối với ngân hàng Ngoại thương .
Thứ tư : Nhà nước phát hành trái phiếu không chuyển nhượng lấy tiền cấp vốn bổ
sung cho các NHTM Nhà nước . Đây là giải pháp tạm thời do nguồn lực tài chính nhà
63
nước còn hạn chế. Trái phiếu không chuyển nhượng cho phép chính phủ chỉ phải trả lãi
hàng năm cho các khoản vay mà không hoặc ít làm tăng lượng tiền trong lưu thông , hạn
chế những biến động tiền tệ có thể phát sinh. Tuy nhiên, để ngăn chặn những biến dạng
tài chính do việc phát hành loại trái phiếu này gây ra cần cân đối luợng trái phiếu này
trong tổng vay nợ hàng năm của Chính phủ và giới hạn loại trái phiếu là 5 năm , đồng
thời có kế hoạch bố trí nguồn tài chính để ưu tiên thanh toán loại trái phiếu này khi có
điều kiện.
Thứ năm: đảm bảo quyền tự chủ cho các NHTM như luật các TCTD đã quy định,
giảm sự can thiệp Chính phủ vào các quyết định cho vay của ngân hàng. Có như vậy
chất lượng tài sản có của các NHTM mới được cải thiện , tạo điều kiện thực hiện mục
tiêu tăng tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có đã hiệu chỉnh rủi ro . Đây là giải pháp mang
tính điều kiện , xuyên suốt 6 giải pháp trên, đồng thời quy định khả năng thực hiện của cả
bốn nhóm giải pháp dưới đây.
3.2.2. Xử lý nợ quá hạn
Khoản 2 Điều 13 của Quyết định 127/2005 /QĐ –NHNN ngày 03 tháng 02 năm
2005 quy định: “Đối với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn , được TCTD đánh giá là
không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ ,
thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và việc phạt chậm trả đối với nợ
qúa hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật.
Kể từ ngày Quyết định 127 có hiệu lực, việc gia hạn nợ được thực hiện theo văn
bản quy định của từng TCTD , phù hợp với quy định tại khoản 6 Quyết định 127. Đối với
những khoản vay sau khi đã phân loại vào các nhóm nợ được coi là nợ quá hạn , nếu
trong khoảng thời gian sau đó , khách hàng vay thực hiện đúng các cam kết trả nợ và
được đánh giá là có uy tín với TCTD, thì các khoản nợ của khách hàng đó có thể được
điều chỉnh vào những nhóm nợ vay có chất lượng nợ tốt hơn, phù hợp với quy định về
phân loại nợ của NHNN.
Trong vấn đề xử lý nợ quá hạn phải thực hiện đồng bộ đối với 3 chủ thể là
NHTM- doanh nghiệp –Nhà nước, trong đó Nhà nước đóng vai trò quyết định . Trong
biên bản ghi nhớ về kinh tế – tài chính Việt Nam với IMF thì nợ quá hạn của các
64
NHTM Nhà nước sẽ được giải quyết thông qua các công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản ( Asset manager Company _AMC ) của các NHTM Nhà nước và các Ủy ban xử lý
nợ ( Loan Workout Unit _LWU) . Để giải quyết nợ quá hạn, các NHTM Nhà nước sẽ áp
dụng quy trình và thủ tục sau đây :
Cơ cấu lại hoặc bán tài sản với một tỷ lệ % xác định trước của các khoản nợ quá
hạn trong các AMC hoặc LWU.
Các khách hàng vay bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước ( DNNN ) sẽ được xóa
nợ, giảm nợ hoặc giãn nợ nếu thực hiện đủ các điều kiện cam kết tiến hành cơ cấu lại
doanh nghiệp . Các doanh nghiệp nhà nước đang tiến hành cổ phần hóa, bán hoặc giải thể
sẽ được ưu tiên giảm nợ, xóa nợ, giãn nợ.
Các AMC sẽ xử lý nợ qúa hạn và tồn đọng nhằm làm sạch bảng cân đối theo cơ
chế như sau:
Đối với nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo : Các NH tiếp tục căn cứ Quyết định
QĐ 149 /2001/ QĐ-TTg TTLT số 02/ 2002/TTLT /NHNN, AMC sẽ bán tài sản đảm bảo
theo giá trị thị trường để thu hồi nợ . Trường hợp giá bán cao hơn giá trị các khoản vay
thì chênh lệch được tính vào thu nhập , ngược lại nếu giá trị khoản vay cao hơn giá bán
thì xử lý theo hai hướng sau đây :
Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay chính sách thì khoản chênh lệch đó được bù đắp
bằng nguồn tài chính của Chính phủ.
Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay thông thường thì nguồn bù đắp khoản chênh
lệch đó sẽ được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro của các NHTM.
Đối với nợ quá hạn không có tài sản làm đảm bảo và không có đối tượng để
thu như doanh nghiệp đã giải thể , thanh lý , phá sản, cá nhân đã chết hay mất tích … thì
sẽ được xóa nợ theo hướng :
Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay chính sách thì khoản chênh lệch đó được bù đắp
bằng nguồn tài chính của Nhà nước .
Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay thông thường thì lấy quỹ dự phòng rủi ro bù
đắp.
65
Đối với nợ tồn đọng không có tài sản làm đảm bảo nhưng con nợ vẫn đang
hoạt động thì các AMC phải tập trung áp dụng các biện pháp để thu hồi nợ , trường hợp
khách hàng không trả được nợ thì tiến hành thanh lý doanh nghiệp. Nếu giá trị thanh lý
thấp hơn giá trị khoản vay thì xử lý theo hướng :
Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay chính sách thì khoản chênh lệch đó được bù đắp
bằng nguồn tài chính của Nhà nước .
Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay thông thường thì lấy quỹ dự phòng rủi ro để bù
đắp.
Nguồn vốn để xử lý nợ quá hạn khó đòi :
1. Nguồn dự phòng rủi ro được trích lập hàng năm của các NHTM
2. Nguồn từ NHNN đã tái cấp vốn trước đây cho các NHTM theo các mục tiêu
như cho vay để cơ cấu lại nợ , khoanh nợ , khắc phục hậu quả thiên tai , cho vay theo chỉ
định của chính phủ
3. Nguồn từ WB và IMF cho vay để cơ cấu lại nợ NHTM
4. Chính phủ cho phép NHNN phát hành trái phiếu để xử lý nợ quá hạn cho các
NHTM
Nguyên tắc xử lý nợ là :
• Nắm chắc và phân loại nợ để xử lý theo từng đối tượng khác nhau ; chủ nợ và
con nợ chủ động tổ chức thu hồi nợ và trả nợ theo chế độ hiện hành ; vừa chỉ đạo tập
trung thống nhất , vừa hoàn thiện cơ chế chính sách và có biện pháp lành mạnh hóa tài
chính doanh nghiệp ; hình thành tổ chức trung gian mua bán nợ để giái phóng nợ đọng
cho doanh nghiệp.
• Đối với nợ khó đòi do nguyên nhân khách quan ( bao gồm đã có đủ chứng cứ
không đòi được hoặc quá hạn trên 5 năm ) thì được hạch toán vào kết quả kinh doanh (
nếu doanh nghiệp có lãi ) hoặc giảm giá trị doanh nghiệp ( nếu doanh nghiệp không lãi ).
• Đối với các khoản nợ khó đòi do nguyên nhân chủ quan đã quy được trách nhiệm
thì phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hiện hành; phần tổn thất còn lại (
không thu được vì khách quan ) được xử lý như khoản nợ do nguyên nhân khách quan
nói trên.
66
• Đối với các khoản nợ ngân sách , doanh nghiệp phải lập phương án xử lý nợ ,
huy động hết các nguồn hiện có để bù đắp các khoản nợ chiếm dụng của ngân sách . Nếu
không đủ nguồn bù đắp thì doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xử lý.
• Đối với khoản nợ ngân hàng các doanh nghiệp phải lập phương án trả nợ , huy
động các nguồn vốn hiện có để trả nợ vay ngân hàng . Trường hợp quá khó khăn thì bàn
bạc, thỏa thuận với ngân hàng xin gia hạn nợ , đề nghị ngân hàng xem xét giảm lãi , xóa
lãi , khoanh nợ theo chế độ quy định hoặc có thể chuyển vốn vay thành vốn ngân hàng
góp với doanh nghiệp. Các khoản tổn thất của ngân hàng do khoanh nợ hoặc xóa nợ cho
DNNN được xử lý theo hướng : hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh , sử dụng
Quỹ bù đắp rủi ro của ngân hàng, giảm trừ vào nợ vay tái cấp vốn của NHNN hoặc được
NSNN hổ trợ khi các ngân hàng không đủ nguồn để bù đắp .
• Đối với các khoản nợ nước ngoài có bảo lãnh của các Bộ ngành địa phương thì
cơ quan bảo lãnh chủ trì đàm phán với các chủ nợ để giảm số nợ đến mức thấp nhất và
bố trí ngân sách để trả nợ, doanh nghiệp có trách nhiệm hoàn trả ngân sách.
• Xúc tiến thành lập Công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp để xử lý
triệt để các vấn đề nợ, tài sản không cần dùng của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp lành mạnh hóa tài chính và đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả .
Bộ Tài chính thành lập Công ty quản lý tài sản và xử lý nợ của Nhà nước để giải
quyết khối lượng nợ quá hạn của các DNNN đối với các NHTM, trước hết là đối với các
NHTM QD . Chỉ có Công ty này mới có khả năng và đủ thẩm quyền xử lý những tài sản
của Nhà nước liên quan tới các khoản nợ quá hạn , đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh do
cho vay chính sách hay theo chỉ định của Chính phủ. Một nguyên tắc cần được quán triệt
trong suốt quá trình xử lý nợ quá hạn của Công ty quản lý tài sản của Nhà nước cũng
như của các NHTM là không cho phép xuất hiện rủi ro đạo đức , nghĩa là việc các ngân
hàng và doanh nghiệp con nợ lợi dụng trút bỏ mọi trách nhiệm về nợ quá hạn lên vai
Nhà nước để làm sạch bảng cân đối và tiếp tục gây ra những khoản nợ qúa hạn mới với
hy vọng Nhà nước sẽ gánh chịu giúp. Chính vì vậy, các AMC có chính sách chuyển hóa
nợ, tài sản trên thị trường tài chính.
67
Dưới đây là quy trình phân loại và xử lý nợ quá hạn đang tham khảo để đưa vào sử
dụng:
Sơ đồ : Phân loại và xử lý nợ quá hạn
Không Co’ Không Không
NGÂN HÀNG
Bộ phận thu hồi
nợ của NH
AMC
Có thế chấp hay
không
Khoản vay còn
hạn hay không
Hoán đổi lấy trái phiếu không
chuyển nhượng của Chính phủ
3.2.3 Tăng cường quản lý cho vay
Để giảm tỷ trọng các khoản nợ và sinh lời, trọng tâm của các NHTM là phải tăng
cường quản lý cho vay (phân loại khách hàng , nguyên tắc cho vay, các điều kiện bảo
đảm cho vay như thế chấp cầm cố ) trong khi vẫn đảm bảo góp phần cung ứng đủ vốn
cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng cao và ổn định.Nếu tăng vốn cho ngân hàng và xử
lý nợ quá hạn là các biện pháp chủ yếu để lành mạnh hóa các NHTM thì quản lý cho vay
68
, trích lập dự phòng rủi ro và tăng cường giám sát tài chính là các biện pháp nhằm ngăn
ngừa phát sinh các khoản nợ xấu mới. Quyết định 127 / 2005 /QĐ- NHNN ngày 03
tháng 2 năm 2005 đã tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho hoạt động tín dụng. Cùng
với cơ chế mới về phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro, Quyết định này nhằm
tạo nên những chuyển biến tích cực đối với hoạt động tín dụng ở một số mặt sau :
Thứ nhất, hoạt động tín dụng tiếp tục được mở rộng nhưng coi trọng việc nâng
cao và kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng.
Thứ hai, cơ cấu tín dụng được chuyển dịch theo hướng mở rộng cho vay đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế tập thể- cá thể, do các TCTD hoàn toàn có quyền tự
chủ, xem xét và quyết định cho vay , cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vốn vay,
đơn giản hóa thủ tục cho vay…
Thứ ba, mức độ an toàn kinh doanh và khả năng cạnh tranh của TCTD được
nâng cao hơn .
Thứ tư, các TCTD phải rà soát , chỉnh sửa các chính sách và cơ chế quản trị kinh
doanh để nâng cao chất lượng tín dụng , quản trị rủi ro.
Thứ năm, các TCTD đầu tư nhiều hơn cho khâu đào tạo nhân lực, áp dụng các
công nghệ mới để phát triển dịch vụ ngân hàng và quản trị tín dụng rủi ro.
Để giảm thiểu rủi ro tín dụng, trước khi quyết định cho vay các ngân hàng cần
tiến hành đánh giá hiệu quả và rủi ro của khoản cho vay đó. Phương pháp phổ biến hiện
nay trên thế giới là phân tích tín dụng theo 5 chỉ tiêu :
o Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu thể hiện tiềm lực tài chính của khách hàng .
Trong khi đánh giá sức mạnh tài chính của khách hàng vay cần đánh giá về thực trạng tài
chính của người đi vay và thu nhập dự kiến của họ.
o Khả năng trả nợ quyết định chất lượng tín dụng . Khi đánh gía khả năng hoàn
trả phải phân tích được các dòng tiền vào và ra, đánh giá được thu nhập và lợi nhuận
trong tương lai của khách hàng để khẳng định nguồn trả nợ dựa trên phân tích bảng tổng
kết tài sản của khách hàng.
69
o Đặc tính liên quan tới khả năng độc lập của khách hàng. Khách hàng phải có
khả năng độc lập cao trong kinh doanh, có năng lực kinh doanh nhưng không quá mạo
hiểm .
o Điều kiện là các yếu tố bên trong và bên ngoài có thể ảnh hưởng đến hoạt động
của khách hàng , có thể liên quan trực tiếp đến rủi ro của khoản vay. Người phân tích tín
dụng phải dự đoán những trường hợp xấu nhất để lường trước những rủi ro có thể phát
sinh trong suốt thời gian cho vay, nhất là đối với những khoản vay trung và dài hạn.
o Thế chấp là những bảo đảm cho các khoản vay nhằm tăng cường trách nhiệm
của khách hàng đồng thời là giá để bảo đảm cho khoản tín dụng ngân hàng đã cấp.
Các chỉ tiêu trên được lượng hóa và ngân hàng căn cứ vào đó để quyết định cho
vay hay không. Ngoài ra phải có một hệ thống gồm việc thẩm định và cho vay phải được
thực hiện bởi hai bộ phận khác nhau, độc lập và kiểm tra lẫn nhau từ khi tiếp nhận dự án
đến khi phê duyệt hợp đồng cho vay. Để đảm bảo an toàn cho vay, hạn chế rủi ro và thất
thoát ngân hàng của các nước phát triển thường lựa chọn đối tượng cho vay và theo dõi
sát sao quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách hàng mới hay khách hàng
không đủ độ tin cậy muốn vay thì phải có tài sản thế chấp hay ký quỹ có tính thanh khoản
cao . Ngược lại ở các nước đang phát triển thế chấp tài sản dường như là bắt buộc và phổ
biến để tránh rủi ro do các quy định về phá sản và bảo hiểm phá sản chưa hoàn chỉnh .
Thêm vào đó dễ có thiên hướng đẩy mạnh cho vay các DNNN được hậu thuẫn bởi Nhà
nước hơn là cho vay khu vực tư nhân. Các nguyên tắc quản lý cho vay mà các NHTM
hoạt động theo cơ chế thị trường cần hết sức tuân thủ , đó là:
1. Sàng lọc và giám sát khách hàng : thu thập thông tin về khách hàng , xếp loại
mức độ tín nhiệm của họ.Việc chuyên môn hóa cho vay tạo điều kiện thuận lợi để ngân
hàng nắm chắc và hiểu rõ khách hàng của mình. Liên tục theo dõi đảm bảo khách hàng
tuân thủ các điều khoản trong hợp đồng tín dụng.
2. Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng: Ngân hàng biết được nhiều
thông tin hơn về khách hàng , khả năng rủi ro giảm do cả hai đều muốn duy trì lâu dài và
khách hàng có thể được hưởng những ưu đãi từ phía ngân hàng, kể cả cho vay với lãi
suất thấp.
70
3. Thế chấp và số dư tài khoản : thế chấp có thể được ngân hàng đem bán để bù
đắp những tổn thất do người đi vay- người thế chấp –gây ra. Một dạng của thế chấp bắt
buộc khi ngân hàng cho vay thương mại là số dư tài khoản của khách hàng phải giữ một
số vốn tối thiểu nhất định trong tài khoản séc ở ngân hàng cho vay. Ngoài vai trò thế
chấp, số dư tài khoản còn giúp ngân hàng giám sát người vay và ngăn ngừa rủi ro đạo
đức , thu thập được thông tin về người vay
4. Hạn chế tín dụng : ngân hàng không cho một khách hàng nào đó vay dù với
bất kỳ gì do mức độ rủi ro quá cao hay chỉ cho vay một mức nhất định.
Đa dạng hóa cho vay là việc ngân hàng đa dạng hóa danh mục cho vay để phân tán
rủi ro. Việc đa dạng hóa có thể theo đối tượng vay , mục đích và lĩnh vực sử dụng vốn
vay , thời hạn cho vay , loại tiền cho vay… Nếu cho vay quá tập trung vào một dạng nào
đó ngân hàng có thể chịu tổn thất nặng nề khi dạng cho vay đó không đạt hiêu quả hay đổ
vỡ. Trong xu thế hội nhập, tự do hóa tài chính hiện nay cùng với sự phát triển của khoa
học công nghệ , việc phân chia địa bàn hoạt động cho các NHTM chỉ là tương đối nên
phải rất linh hoạt và mềm dẻo để tránh cạnh tranh không lành mạnh nhưng cũng không
tạo ra độc quyền bất hợp lý. Hướng phát triển hiện nay của các NHTM là vươn ra khỏi
khuôn khổ mang tính chuyên doanh, đa dạng hóa tín dụng cho vay chống lại chia cắt thị
trường . Để đảm bảo an ninh tài chính NHTW thường có các quy định bắt buộc ngân
hàng phải đa dạng hóa cho vay như không được cho một khách hàng hay một nhóm
khách hàng vay quá một tỷ lệ nào đó so với vốn của ngân hàng hay tổng vốn cho vay.
Một số ý kiến cho rằng quy định tỷ lệ này hiện nay của nước ta là cứng nhắc và cản trở
các doanh nghiệp vay vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên chúng ta không nên tăng tỷ lệ quy định
này vì mức độ rủi ro tín dụng cho vay hiện nay còn rất lớn, tình trạng tài chính yếu kém
của nhiều doanh nghiệp luôn đe dọa tài chính của các ngân hàng với biểu hiện là mức nợ
quá hạn cao, nếu nới lỏng quy định này có thể đặt nhiều NHTM vào tình trạng phá sản
trong ngắn hạn . Ngoài ra , NHNN đã có cơ chế cho vay hợp vốn để giải quyết những
khoản vay quá lớn vượt khỏi giới hạn của một ngân hàng. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận
quy mô vốn ngân hàng quá nhỏ hiện nay không cho phép mở rộng tín dụng và do đó
không đáp ứng nhu cầu vay của các doanh nghiệp lớn đang trên con đường CNH, HĐH.
71
Tăng quy mô vốn của các NHTM cần được xem xét đồng bộ với chủ trương thành lập
các tập đoàn kinh tế mạnh hiện nay cũng như phương hướng thay đổi cơ chế tài chính
trong các tổng công ty. Chỉ có như vậy các NHTM mới làm tốt chức năng trung gian tài
chính của mình đồng thời vẫn đảm bảo được an ninh tài chính.
3.2.4. Thiết lập và củng cố các cơ chế an ninh tài chính
Thứ nhất : Dự trữ bắt buộc
Để đảm bảo khả năng chi trả và sự an toàn, các ngân hàng đều có một khoản tiền
mặt dự trữ trong tài sản có và được gọi là “dự trữ an toàn” hay “ khoản đầu tư cho sự an
toàn”.
Theo dự báo thực hiện chính sách tiền tệ , tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi
bằng ngoại tệ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 10% trên tổng số dư bằng ngoại tệ
. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi nội tệ thường dao động ở mức 2-3% tổng số dư
tiền gửi bằng nội tệ. Dự trữ bắt buộc cần được điều hành một cách linh hoạt phù hợp với
thị trường và yêu cầu của điều hành chính sách tiền tệ.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở Việt nam do Thống đốc NHNN quyết định và thay đổi
theo từng thời điểm phụ thuộc vào mục tiêu tiền tệ của Chính phủ . Tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đồng nghĩa với thắt chặt tín dụng và có tác dụng như tăng lãisuất. Ngược lại, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc giảm có tác dụng thúc đẩy hoạt động của các NHTM , tăng tín dụng cho
vay .Tỷ lệ dự trữ bắt buộc một mặt buộc ngân hàng duy trì sự an toàn của các hoạt động
thông qua tỷ lệ dự trữ nhất định gửi tại NHNN trên tổng tiền gửi của mỗi TCTD, mặt
khác giúp NHNN kiểm soát hoạt động của các NHTM , từ đó có các giải pháp điều chỉnh
tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ . Trường
hơp TCTD bị đặt vào tùy trường hợp cụ thể ngân hàng Nhà nước có thể xem xét chấp
thuận cho TCTD đó được rút một phần hoặc toàn bộ tiền dự trữ bắt buộc . Hiện nay, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VNĐ và tiền gửi ngoại tệ vẫn phân biệt nhằm điều chỉnh
trạng thái ngoại tệ của các TCTD và thực hiện các mục tiêu của chính sách ngoại hối và
tỷ giá.
72
Trước bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu năm tăng cao, để thực hiện
mục tiêu ổn định tiền tệ góp phần tăng trưởng kinh tế , từ tháng 7 /2004, ngân hàng Nhà
nước đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng
VNĐ và ngoại tệ ( Quyết định số 796/ QĐ –NHNN ngày 25/6/2004 ). Cụ thể, đối với
tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%, riêng
ngân hàng Nông nghiệp và Phát triền Nông thôn Việt Nam tăng từ 1,5% lên 4%, ngân
hàng thương mại cổ phần nông thôn và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương tăng từ 1% lên
2% . Đối với tiền gửi bằng VNĐ kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên
2% . Đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% lên
8%, loại từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%.
Đồng thời, để khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn có hiệu quả, tránh
tăng lãi suất dẫn đến dư thừa vốn VNĐ, ngân hàng Nhà nước đã thay đổi phương thức trả
lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VNĐ (Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày
20/7/2004) . Theo đó, đối với dự trữ bắt buộc bằng VNĐ, NHNN chỉ trả lãi cho tiền gửi
dự trữ bắt buộc (1,2%/năm ) mà không trả lãi cho phần tiền gửi dự trữ bắt buộc vượt .
Thứ hai : Bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là công cụ để duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống
ngân hàng và có thời kỳ được coi là nhân tố quyết định phòng ngừa khủng hoảng tài
chính.Thực tế nảy sinh vấn đề rủi ro đạo đức trong chính sách bảo hiểm tiển gửi trực tiếp
hay gián tiếp do quy tắc “ quá lớn không để vỡ nơ” .Chính vì vậy bảo hiểm tiền gửi ( trực
tiếp ) về cơ bản chỉ dành cho cá nhân người gửi và chỉ thực hiện trên một số dư tiền gửi
tối đa nhất định.
Theo Nghị định 109 /2005 NĐ –CP ngày 9 tháng 9 năm 2005 quy định của
Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các
khoản tiền gửi ( gồm cả gốc và lãi ) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi, tối đa là 30.000.000 đồng. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo
hiểm tiền gửi theo mức 0,15% / năm tính trên số dư tiền gửi bình quân . Các tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi được hạch toán khoản phí bảo hiểm tiền gửi vào chi phí hoạt động.
73
Cần làm tốt hơn việc phối hợp giữa bảo hiểm tiền gửi với các cơ quan chức năng để kiểm
tra phát hiện hạn chế rủi ro và làm tốt việc bảo hiểm khi xảy ra rủi ro.
Có một số ý kiến cho rằng cần giảm tỷ lệ trích nộp bảo hiểm tiền gửi để tạo điều
kiện cho các NHTM nhỏ tham gia , song theo chúng tôi các NHTM nhỏ cần tiến hành các
biện pháp cơ cấu lại để có quy mô tương đối lớn , có đủ khả năng tham gia bảo hiểm tiền
gửi , củng cố niềm tin vào các NHTM , nhất là khi niềm tin vào các NHTM CP đang bị
suy giảm như hiện nay .
Gần đây có một số ý kiến đề nghị thành lập thêm tổ chức bảo toàn tiền gửi thuộc
hiệp hội Ngân hàng Việt Nam hoạt động song song với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trên
nguyên tắc tự nguyện. Nhưng tổ chức này chỉ thật sự có hiệu quả khi thị trường tài chính
tín dụng đã tương đối phát triển , các NHTM có tiềm lực tài chính đủ mạnh và có quyền
tự chủ thật sự. Trong thời gian tới chúng ta nên tập trung phát triển bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam để bảo hiểm là “ cái neo” an toàn cho các TCTD, hội đủ điều kiện củng cố và
duy trì niềm tin của người gửi tiền . Trước mắt cần hoàn thiện theo hướng :
o Tạo ra hành lang pháp lý cũng như các quy định hành chính để ngăn chặn và
giảm thiểu rủi ro đạo đức phát sinh do NHTM tham gia vào tổ chức bảo hiểm tiền gửi của
Nhà nước .
o Luận chứng đầy đủ đồng thời xây dựng căn cứ điều chỉnh số tiền gửi tối đa
được bảo hiểm ( hiện nay là 30 triệu đồng ) một mặt tăng độ tin cậy của hệ thống tài
chính mặt khác không cản trở cạnh tranh thu hút tiền gửi giữa các ngân hàng và ảnh
hưởng tới việc nâng cao vai trò giám sát của công chúng đối với TCTD.
o Thiết lập cơ chế bảo hiểm tiền gửi riêng cho Quỹ tín dụng nhân dân do đặc thù
rủi ro cao của khu vực này và tính chất hoạt động khác với các NHTM .
o Sử dụng có hiệu quả phí bảo hiểm thu được thông qua đầu tư vào những công
cụ tài chính có tính thanh khoản cao.
o Chuẩn bị phương án đa dạng hóa .
74
Thứ ba : Trích lập dự phòng rủi ro
Quỹ dự phòng rủi ro đảm bảo an ninh tài chính cho các NHTM trong bối cảnh rủi
ro tín dụng ngày càng tăng và phức tạp do yêu cầu tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc
tế. Dự phòng rủi ro tín dụng được trích lập từ hai nguồn :
Trích lập và hạch toán vào chi phí
Trích lập dự phòng rủi ro từ lợi nhuận ròng sau thuế để có thêm nguồn đảm bảo an
toàn cho hoạt động của NHTM
Để ngăn ngừa rủi ro các ngân hàng lập các dự phòng cho các hoạt động kinh
doanh như cho vay, đầu tư, mua chứng khoán, tài sản cố định và các khoản phải thu…
trong đó dự phòng rủi ro tín dụng đặc biệt quan trọng và tín dụng chiếm khoảng 70%
tổng tài sản có của ngân hàng. Các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro từ chi phí theo
một tỷ lệ quy định để trang trải một phần hay toàn bộ các khoản vốn mất trên cơ sở đánh
giá mức độ rủi ro đối với từng khoản cho vay và danh mục cho vay. Cần nghiên cứu để
hoàn thiện hơn quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác thường xuyên kiểm
tra việc các ngân hàng tuân thủ các quy định về trích và thực hiện dự phòng rủi ro để
tránh các hiện tượng tiêu cực xảy ra.
Theo Quyết định số 493 /2005 /QĐ –NHNN ngày 22 tháng 04 năm 2005 các
NHTM NN triển khai phân loại nơ , trích lập dự phòng rủi ro và xử lý dứt điểm các
khoản nợ , tài sản có được phân thành 4 nhóm và trích lập dự phòng rủi ro như sau:
Nhóm 1 : ( Nợ đủ tiêu chuẩn ) gồm các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng
đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Các khoản nợ khác như trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ
hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng một ( 01) năm đối với các khoản nợ trung và
dài hạn , ba ( 03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá
là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại .
Nhóm này dự phòng 0%.
Nhóm 2 : ( Nợ cần chú ý ) gồm các khoản nợ qúa hạn dưới 90 ngày ; các khoản
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời thời hạn nợ đã cơ cấu lại . Các khoản nợ
khác như trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một ( 01) khoản nợ với tổ chức tín
75
dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc
phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn
tương ứng với mức độ rủi ro. Nhóm này dự phòng 5%.
Nhóm 3 : ( Nợ dưới tiêu chuẩn ) gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ qúa hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác như trường hợp các khoản nợ ( kể cả các khoản nợ trong hạn và các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại ) mà TCTD
có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ
động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng
với mức độ rủi ro . Nhóm này dự phòng 20%.
Nhóm 4 : ( Nợ nghi ngờ ) các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày ; các khoản
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ qúa hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại
. Nhóm này dự phòng 50%.
Nhóm 5 : ( Nợ có khả năng mất vốn ) gồm Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày ;
các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ qúa
hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại. Nhóm này dự phòng 100% . Riêng
đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được thì được trích lập dự phòng
cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD.
Đến nay về cơ bản việc trích lập dự phòng rủi ro của các NHTM Việt Nam đã phù
hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế , tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
tăng cường đảm bảo an ninh tài chính trong hoạt động của mình. Trong thời gian tới cần
hoàn thiện theo hướng :
o Bộ Tài chính và NHNN có cơ chế tài chính thích hợp để giải quyết vấn đề
thua lỗ của NHTM do phải trích lập dự phòng rủi ro , tuy nhiên chỉ trong ngắn hạn vì về
lâu về dài hiện tượng này sẽ chấm dứt khi tỷ lệ nợ qúa hạn giảm xuống nhờ kết quả xử lý
nợ và lành mạnh hóa tài chính của Nhà nước và các NHTM , đồng thời tỷ suất lợi nhuận
của các ngân hàng tăng lên thông qua các chương trình cải cách.
76
o NHNN hướng dẫn các NHTM phân loại các khoản nợ và tài sản để trích lập
dự phòng rủi ro theo chuẩn mực kế toán quốc tế , hạn chế tiến tới xóa bỏ những khoản
nợ và tài sản mang tính đặc thù do hậu qủa của cơ chế bao cấp trước đây.
o Chuẩn bị các phương án trích lập trích lập dự phòng rủi ro khi các NHTM
nước ta tham gia sâu hơn vào quá trình hội nhập, khu vực hóa và toàn cầu hóa .
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống giám sát và công khai hóa tài chính
Hiện nay NHNN mới chú trọng chức năng quản lý nhà nước với tư cách là bộ chủ
quản chứ chưa thực hiện tốt chức năng NHTW trong việc đảm bảo an ninh tài chính cho
hệ thống ngân hàng. Các hoạt động của NHNN dựa trên các quy định và thanh tra , kiểm
tra theo các nguyên tắc hành chính và pháp lý, ít dựa trên các nguyên tắc thị trường như
thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng , chiết khấu và tái chiết khấu , nghiệp vụ
thị trường mở để tăng tính thanh khoản các NHTM…
Giám sát có hiệu quả là then chốt của ổn định, an toàn và vững mạnh tài chính.
Việc hình thành và duy trì khu vực tài chính mạnh không dễ dàng chủ yếu do thiếu thông
tin giữa người gửi, định chế tài chính và người đi vay có thể tạo ra động cơ chấp nhận rủi
ro qúa mức. Chỉ có giám sát tài chính có hiệu quả có thể làm mất tác dụng của những
hành vi đó thông qua các tiêu chuẩn vốn thích hợp, quản lý rủi ro có hiệu quả và công
khai hóa . Việc này đòi hỏi những người giám sát có nghiệp vụ có thể nắm được các rủi
ro trong hoạt động tài chính; nhận ra cách tốt nhất để đoán trước , quản lý và kiểm soát
các rủi ro đó ; tạo ra khuôn khổ thích hợp các quy định thận trọng .
Tăng cường quản lý và giám sát là chìa khóa để ngăn chặn khủng hoảng và NHTW
đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của quản lý và giám sát .
Nhiều nhà khoa học cho rằng bản chất của giám sát ngân hàng là “ giám sát những
nguy cơ đối với hệ thống và khả năng khống chế rủi ro của các cơ quan quản lý ” và cần
“ tập trung tăng cường sự minh bạch , củng cố việc giám sát và quản lý thận trọng bằng
cách đánh giá hết những rủi ro nảy sinh từ các hoạt động ngân hàng toàn cầu hóa “ .
Ở nhiều nước đang phát triển người giám sát ngân hàng thường tập trung vào việc
kiểm tra sự tuân thủ các quy chế về chính sách tiền tệ, quản lý hối đoái và các quy định
điều chỉnh chính sách kinh tế như quy chế về phân bổ tín dụng mà ít chú ý tới vấn đề thận
77
trọng của giám sát tài chính như đánh giá độc lập về chất lượng tài sản có hay quy trình
kế toán và kiểm soát công tác quản lý. Cùng với bất ổn định kinh tế vĩ mô , thiếu những
điều luật phù hợp đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng mất khả
năng thanh toán của ngân hàng và “ mục đích của giám sát ngân hàng là làm tăng độ an
toàn , tính ổn định và một hệ thống tài chính hoạt động có hiệu quả . Nhiệm vụ chính của
giám sát ngân hàng là ngăn chặn sự đổ vỡ của ngân hàng thông qua phát hiện vấn đề khó
khăn và ngăn chặn tình trạng khó khăn trước khi nó vuợt qua khỏi tầm kiểm soát” , “ để
giám sát có hiệu quả cần cả giám sát từ xa ( qua các báo cáo ngân hàng ) và thanh tra tại
chỗ” .
Người giám sát từ xa phân tích các báo cáo định kỳ còn thanh tra tại chỗ xác định
mức độ trung thực của các báo cáo này, đánh giá chi tiết về những nguy cơ mà người
giám sát từ xa không thể đánh giá được.
Toàn cầu hóa hoạt động ngân hàng buộc các công ty phải chịu sự giám sát của các
thể chế khác nhau, đồng thời các định chế tài chính liên kết với nhau chặt chẽ hơn đòi hỏi
đánh giá rủi ro một cách toàn diện, không dừng lại trong biên giới mỗi quốc gia .
Sự phối hợp quốc tế trong giám sát tài chính ngày càng trở nên cấp thiết khi các
ranh giới chính trị – địa lý đã trở nên ít liên quan đến khu vực tài chính dưới tác động của
toàn cầu hóa , các tổ chức ngân hàng quốc tế ngày càng tăng về quy mô và số luợng , tốc
độ liên kết kinh tế quốc tế ngày một nhanh hơn, nhu cầu phối hợp quốc tế trong thanh
toán cũng tăng lên trước các rủi ro về hối đoái .
Muốn giám sát tốt phải giải quyết các vấn đề cơ bản là :
o Tổ chức hệ thống giám sát : Hệ thống tổ chức này phải đảm bảo sự phối hợp
tốt giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa để phát huy tốt nhất ưu thế của mỗi công cụ
giám sát, đồng thời giải quyết hài hòa quyền lợi của người gửi tiền _ TCD_ người vay vì
tài chính liên quan đến tất cả các đối tượng này.
Nhược điểm lớn nhất của hệ thống tổ chức giám sát tài chính của nước ta hiện nay
là sự chồng chéo và thiếu tính hệ thống. Nhiều tổ chức , nhiều cơ quan cùng làm nhiệm
vụ giám sát tài chính như Thanh tra Nhà nước , Thanh tra tài chính, Thanh tra ngân hàng ,
Thanh tra Thuế,… song chức năng nhiệm vụ không được phân định rõ ràng lại thiếu sự
78
kết hợp nên có lĩnh vực có lúc có nơi nhiều đơn vị giám sát trong khi lại bỏ trống không
giám sát nhiều lĩnh vực khác.
Đối với hệ thống giám sát tài chính cần làm ngay các việc sau :
1. Tổ chức lại hệ thống giám sát tài chính theo nguyên tắc bao quát , tránh chồng
chéo để các cơ quan giám sát có thể sử dụng các kết quả giám sát của nhau và chịu trách
nhiệm về kết quả giám sát của mình .Trong tương lai có thể thống nhất các cơ quan giám
sát tài chính trong một tổ chức giám sát độc lập tương đương cấp Bộ thuộc Chính phủ
hoặc trực thuộc Quốc hội.
2. Thống nhất chế độ và quy trình giám sát tài chính trên cơ sở đơn giản và khả
thi, Bộ Tài chính nghiên cứu ban hành mẫu chuẩn báo cáo giám sát từ xa phù hợp với
điều kiện thực tế của Việt Nam, từng bước nâng dần lên chuẩn mực quốc tế .
3. Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát tài chính cả về số lượng và
chất lượng , sắp xếp lại cán bộ giám sát trên cơ sở lựa chọn những người có trình độ
nghiệp vụ cao , có phẩm chất đạo đức đi đôi với chế độ đãi ngộ tài chính đặc biệt ( chế
độ lương , thưởng) để giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ một cách công tâm .
4. Thiết lập quan hệ phối hợp giám sát tài chính quốc tế , trước hết là tích cực
tham gia hệ thống giám sát chung ASEAN
• Thiết lập hệ thống chỉ tiêu giám sát : Đây là công cụ thực hiện giám sát tài
chính có hiệu quả và thống nhất . Các chỉ tiêu giám sát phải bao quát , đồng bộ , phù hợp
với thực tiễn Việt Nam song không xa rời các chuẩn mực quốc tế , đặc biệt trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế . Trong quá trình xây
dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát nên chú ý tham khảo ý kiến rộng rãi của đối tượng bị
giám sát , tránh tình trạng các chỉ tiêu phi thực tế , thiên về phục vụ lợi ích của người
quản lý mà làm thiệt hại lợi ích của các đối tượng bị giám sát . Các chỉ tiêu giám sát tài
chính không dừng lại ở phản ánh hiện trạng, mức độ tuân thủ pháp luật tài chính hiện
hành mà còn phải là dữ liệu quan trọng để điều chỉnh cơ chế chính sách tài chính cho phù
hợp, đồng thời trợ giúp cho việc phân tích và dự báo xu hướng, sẵn sàng ngăn chặn các
nguy cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ.
79
• Quyền lực của cơ quan giám sát: Hiện nay các cơ quan giám sát tài chính có
quyền lực tương đối hạn chế , chủ yếu là tư vấn , đề nghị cơ quan quản lý cấp trên xử lý
các vi phạm, trong khi ít hoặc không theo dõi được kết quả xử lý cuối cùng và các biện
pháp chế tài hoặc quá nể nang , dễ dãi, hoặc quá cứng rắn như đưa ra tòa, biến thành các
vụ án kinh tế khi chưa thật sự cần thiết, vừa tốn phí thời gian, tiền bạc vừa ảnh hưởng
không tốt đến sản xuất kinh doanh nói chung dẫn đến tình trạng :
¾ Các đối tượng bị giám sát tìm mọi cách né tránh sự giám sát, quan hệ giữa cơ
quan giám sát và đối tượng bị giám sát nhiều khi trở thành đối nghịch, thiếu hẳn sự hợp
tác vì lợi ích chung.
¾ Có những sai phạm nghiêm trọng kéo dài gây hậu quả nặng nề do không được
xử lý dứt điểm , kịp thời.
¾ Các cuộc thanh tra , kiểm tra diễn ra liên miên , chồng chéo, cản trở hoạt động
bình thường của đơn vị bị giám sát do cơ quan giám sát nào cũng có quyền thanh tra
kiểm tra nhưng không có quyền lực thật sư.
¾ Đối tượng bị thanh tra giám sát trở nên”lờn thuốc” trong khi người giám sát
có xu hướng thực hiện nhiệm vụ một cách “ qua loa đại khái”.
Muốn khắc phục tình trạng trên để hoạt động giám sát tài chính thực sự có hiệu quả
, trở thành công cụ thiết yếu đảm bảo an ninh tài chính thì các cơ quan giám sát phải được
trao những quyền lực cụ thể, tương ứng với trọng trách được giao . Bên cạnh việc tổ chức
sắp xếp lại các cơ quan giám sát để đảm bảo khả năng thực thi quyền lực thống nhất, hữu
hiệu , còn cần đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan quản lý nhà nước các cấp theo hướng tăng thêm quyền lực cho cơ quan giám
sát tài chính cả về biện pháp cuỡng chế hành chính , kinh tế, thậm chí rút giấy phép hoạt
động.
Nếu giám sát tài chính là nền tảng đảm bảo an ninh tài chính thì đến lượt mình ,
nền tảng của giám sát tài chính là công khai hóa hay sự minh bạch tài chính : “công khai
hóa không đồng nghĩa với phô bày tất cả mọi chuyện nội bộ trong ngành đối với bất kể
mọi loại đối tượng”. Trong ngành tài chính-ngân hàng sự minh bạch ( công khai hóa ) là
những điều kiện, những quy định cho phép các cơ quan giám sát và kiểm toán được thực
80
hiện dễ dàng chức năng kiểm tra giám sát hoạt động thu chi và các nghiệp vụ của đơn vị
tài chính ngân hàng bất kỳ lúc nào. Theo IMF và WB , sự minh bạch trong các hoạt động
tài chính ngân hàng sẽ trị tận gốc bệnh tham nhũng dẫn đến các món nợ nước ngoài
khổng lồ.Đối với nhà nước, muốn có sự minh bạch trong tài chính và ngân hàng thì cần
phải xây dựng những hệ thống kiểm toán độc lập với ngân hàng và các đơn vị kinh tế ,
tạo điều kiện lưu thông tự do các thông tin kinh tế đã được kiểm định xác thực , tăng
cường thẩm quyền cho các cơ quan lập pháp theo dõi việc thi hành luật tài chính , luật
ngân hàng và tòa án. Sự minh bạch của công ty thể hiện trong khả năng kiểm tra giám sát
của cổ đông đối với công ty. Sự minh bạch sẽ làm tăng niềm tin của các cổ đông , người
đầu tư và khách hàng.
Chính phủ ban hành các quy định bắt buộc về công bố thông tin như thông tin về
doanh số , tài sản, thu nhập… đồng thời khuyến khích công bố thông tin . Tuy nhiên các
loại thông tin này thường không đầy đủ và chất lượng thấp . Để tăng chất lượng công bố
thông tin cần thiết kế mẫu thông tin bắt buộc phải công bố một cách hợp lý, chú ý phân
biệt rạch ròi giữa thông tin có thể công khai và thông tin thuộc loại nhạy cảm, liên quan
tới bí mật kinh doanh và cạnh tranh của doanh nghiệp , đồng thời có các biện pháp kiểm
soát và cưỡng chế thực hiện quy định công khai thông tin.
Ba cản trở lớn nhất đối với công khai thông tin tài chính ở nước ta là :
• Tâm lý và thói quen che dấu, giữ bí mật, coi thông tin và quyền tiếp cận
thông tin nhất là thông tin tài chính –tiền tệ , là một trong những đặc quyền của số ít
người , thậm chí có thể kiếm lợi nhuận siêu ngạch từ những thông tin đó.
• Các quy định pháp lý về thông tin như tính chính xác , kịp thời, đầy đủ
cũng như về công bố thông tin còn thiếu và ít hiệu lực.
• Trang thiết bị và kỹ thuật thông tin lạc hậu , không đồng đều giữa TW và
địa phương, giữa thành thị và nông thôn , giữa miền xuôi và miền ngược , giữa doanh
nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ ,… Giảm nhẹ và đi đến xóa bỏ những cản trở
trên không dễ dàng nhưng cần thiết , phải tiến hành từng bước song kiên quyết.
Các trung gian tài chính , trước hết là các ngân hàng trở thành chuyên gia thông tin
về khách hàng do nhu cầu phân loại các trường hợp đầu tư trước khi tiến hành cho vay.
81
Đây đang là điểm yếu của các NHTM Việt Nam do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa
tập trung trước đây và sự lẫn lộn giữa cho vay thương mại và cho vay chính sách hiện
nay. Các NHTM ít hoặc không có thói quen thu thập, khai thác thông tin về khách hàng ,
trình độ nắm bắt và xử lý thông tin về khách hàng của đội ngũ cán bộ ngân hàng cò hạn
chế . Bản thân từng NHTM cũng có ít ý thức chia sẻ thông tin về khách hàng cho nhau đã
làm tăng chi phí thu thập thông tin, chia cắt thị trường tín dụng, tạo môi trường cho một
số khách hàng lợi dụng vi phạm các quy định về an ninh tài chính . Các ngân hàng cần
nhanh chóng cải thiện và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin khách hàng của mình vì
sự an toàn của mỗi ngân hàng cũng như an ninh của toàn hệ thống. Trong cơ cấu tổ chức
của ngân hàng nên có bộ phận quản lý thông tin hoàn chỉnh, đồng thời có sự phối hợp
thông tin mang toàn ngành ngân hàng, mở rộng ra mạng thông tin tất cả các TCTD dưới
sự quản lý thống nhất của NHNN.
82
Kết Luận
An ninh tài chính là một khái niệm mới và phức tạp mới được nghiên cứu trong
thời gian gần đây. Trong hoạt động của các tổ chức tín dụng an ninh tài chính đặt ra như
một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu. Đảm bảo an ninh tài chính trong hoạt động
của các TCTD nói chung , của các NHTM nói riêng là giữ cho tình trạng tài chính của
các trung gian tài chính này luôn luôn ổn định , an toàn, vững mạnh, tránh nguy cơ lâm
vào khủng hoảng. Hệ thống các NHTM nước ta hiện nay hoạt động tương đối ổn định
nhưng rất kém an toàn và yếu, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, chứa đựng
nhiều nhân tố cả về mặt chất và lượng có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính – tiền tệ, đặc
biệt là vốn tự có của ngân hàng cách xa so với yêu cầu chống rủi ro trong hoạt ngân hàng,
tỷ lệ nợ quá hạn quá cao trong khi công tác quản lý vay nợ và phòng chống rủi ro còn
nhiều yếu kém.
Chính vì vậy, trong thời gian tới chúng ta phải tập trung vào các giải pháp
tăng cường an ninh tài chính trong hoạt động của các ngân hàng , đặc biệt là các giải
pháp :
• Bổ sung vốn tự có đảm bảo tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có rủi ro đạt tiêu chuẩn
quốc tế là 8%.
• Giảm nợ quá hạn thông qua các chương trình xử lý nợ để đưa tỷ lệ nợ quá hạn
về giới hạn an toàn là 4-5% tổng dư nợ cho vay .
• Xiết chặt kỷ luật cho vay , tăng cường quản lý rủi ro nhằm ngăn ngừa tổn thất
các khoản cho vay và trích lập đầy đủ quỹ dự phòng rủi ro đảm bảo nguồn tài chính giải
quyết các khoản vay mất khả năng thanh toán.
• Tổ chức và tiến hành giám sát tài chính dựa trên theo dõi các chỉ tiêu phản ánh
mức độ an ninh tài chính để có các biện pháp hữu hiệu yêu cầu các ngân hàng phục hồi
và duy trì an ninh tài chính trong các hoạt động của mình đi đôi với công khai hóa tài
83
chính là những công cụ quan trọng để đảm bảo an ninh tài chính trong hoạt động của các
TCTD.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế cả ba lĩnh
vực : Ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán. Bước đột phá đầu tiên phải kể đến là trong
lĩnh vực ngân hàng, tiếp đến là bảo hiểm và chứng khoán . Tuy “ sinh sau đẻ muộn” ,
song lĩnh vực bảo hiểm và chứng khoán đã có những tác động “cởi mở” hơn cả lĩnh vực
ngân hàng. “ Không nhất thiết cái gì ra trước mở cửa trước, ra sau mở cửa sau, mà phụ
thuộc vào nhu cầu phát triển kinh tế”-. Tuy nhiên, không phải “ muốn là mở”.
Có ba thách thức lớn đối với ngành tài chính-ngân hàng của Việt Nam khi mở cửa
và tự do hóa là: hệ thống pháp luật, phát triển thị trường và vai trò của Nhà nước .
Trước hết, hệ thống pháp luật phải đảm bảo ba yêu cầu :
• Đảm bảo cho hoạt động tài chính –ngân hàng phát triển
• Đảm bảo tính minh bạch
• Khả năng giám sát ( đưa ra được các tiêu chí để có thể sơ bộ đánh giá tính an
toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng )
Yếu tố thị trường cũng phải đảm bảo ba yêu cầu :
• Tính liên kết của thị trường ( đây được xem là điểm yếu của thị trường tài
chính Việt Nam ).
• Tính minh bạch .
• Và phải đủ mạnh để đương đầu với các cú “sốc” ( do thị trường gây ra và do
bản thân hệ thống tài chính- ngân hàng ).
Vai trò của Nhà nước cũng được đánh giá là một thách thức lớn đối với ngành tài
chính –ngân hàng trước yêu cầu hội nhập . Hai câu hỏi được đặt ra là : Năng lực của cơ
quan quản lý nhà nước có đủ để thực hiện hay không và Nhà nước có đủ nguồn lực về tài
chính để có thể đương đầu với các khó khăn thách thức khi mở cửa và tự do hóa không
?
Hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về ngân hàng nói riêng đã và đang
là một trào lưu lôi cuốn nhiều khu vực, nhiều nước trên thế giới tham gia. Đây là xu
84
hướng mang tính khách quan của hệ thống kinh tế tài chính thế giới. Trong trào lưu và xu
thế đó, những lĩnh vực nhạy cảm bị lôi cuốn khá mạnh mẽ vào tiến trình hội nhập. Ngân
hàng –một ngành dịch vụ có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế , giữ vị trí quan trọng hàng
đầu trong nền kinh tế, tất yếu phải tham gia vào quá trình hội nhập.
Hội nhập quốc tế về ngân hàng gắn liền với tự do hóa tài chính, mức độ tự do hóa
tài chính càng sâu rộng bao nhiêu thì hội nhập quốc tế về ngân hàng càng nhanh chóng
bấy nhiêu.
Tác động tích cực của hội nhập quốc tế về ngân hàng:
• Làm cho hệ thống ngân hàng tự vươn lên , tự phát triển để khơi thông các
dòng vốn luân chuyển quốc tế kể cả ngắn hạn và trung- dài hạn.
• Hội nhập quốc tế về ngân hàng được xem là điều kiện quan trọng để mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế.
• Hội nhập quốc tế về ngân hàng sẽ làm cho hệ thống ngân hàng nội địa vươn
lên và chiếm lĩnh thị trường quốc tế .
Tuy nhiên,những thách thức của hội nhập quốc tế về ngân hàng là không nhỏ,đó
là:
• Tạo sức ép cạnh tranh rất mạnh bởi các ngân hàng nước ngoài về vốn, công
nghệ ngân hàng, hệ thống quản trị điều hành…
• Hội nhập quốc tế về ngân hàng là chấp nhận cuộc chơi không cân sức , đòi hỏi
hệ thống ngân hàng Việt Nam phải cố gắng nhiều mới có thể đứng vững với hệ thống
ngân hàng trên thế giới phù hợp với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế về lĩnh vực
ngân hàng , không còn một ranh giới rõ rệt giữa hệ thống ngân hàng nội địa với hệ thống
ngân hàng thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 466041.pdf