Luận văn Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Văn Thiệp

MS: LVVH-LLVH018 SỐ TRANG: 105 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2010 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa tinh thần. Vì vậy, việc vận dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay. Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi mới văn học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu thuyết, phê bình văn học, tiểu luận, . nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết phải với tư cách là một cây bút viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma lực” thu hút rất nhiều độc giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca ngợi nức lời nhưng cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi năm kể từ ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả thật, Nguyễn Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không ngừng của biển cả văn học Việt Nam. Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tôi nhận thấy đa phần các ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông trên phương diện nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên theo chúng tôi, một trong những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tôi thấy đặc điểm này cũng đã có những bài viết đề cập đến song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành một hệ thống trọn vẹn. Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này. 2. Lịch sử vấn đề Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo được tiếng vang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, dư luận mới bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau đó, bộ ba truyện ngắn “lịch sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên quả quyết: “Tôi dám chắc chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận, càng viết dư luận càng mạnh” khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn” [59, tr.6] như Nguyễn Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều mà người chê cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới thiệu trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, hiện nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy đủ trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các trang mạng Internet khoảng mười năm trở lại đây. Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập trung ở mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ, Philimonova, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Đăng Điệp, Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn. Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có sự ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm hứng huyền thoại, truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học Philimonova. Nhà nghiên cứu người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của các truyền thuyết văn học, Philimonova đã có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp [ ]. Ngay lần đọc đầu tiên các tác phẩm của anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là việc anh rất hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều hiện diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có thể nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng lớn” [59, tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác giả cho rằng những câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền thuyết văn học; một mặt, chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61]. Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào văn học”. Tác giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp “luôn luôn lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường và xác định giá trị nhân thế bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân gian” [20]. Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những nét phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền thoại mạnh: “sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy Thiệp, không những bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy thần) và cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc, Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288]. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện rõ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các nhân vật ngốc nghếch, mồ côi, rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian” [59, tr.389]. Cảm hứng ấy một phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59, tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân vật kể trên luôn ẩn chứa một “nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ trong nhiều thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề: “Xây dựng nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệp không có cái nhìn nhất phiến về giai thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn năm trước” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện xấu xí thì bi kịch của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46]. Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật. Trong truyện Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp “không còn là một Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy: “Dù là Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà được hòa giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31]. Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu, mang vẻ đẹp mẫu tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tỏ ra là người có những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì. Ngược lại, trong các nhân vật nữ có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ. Nó là sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó là nguyên tắc tính nữ hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính nữ” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất cả những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là “tinh thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng, huyền diệu, lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm tựa quan trọng của tác giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình. Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu Văn Tâm: Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích cực, tinh thần nhân bản cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật: tuyệt đại đa số những nhân vật nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302). Qủa thực, trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ. Những nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có những phát hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người Việt trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu. Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những đặc điểm nổi bật của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ. Đặc biệt hơn hết là trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các đoạn kể bằng văn vần là các bài ca dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi. Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ pháp cũ này khiến văn ông trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy Khanh cũng có cùng ý kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59, tr. 380]. Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình thức khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ), thơ dịch (Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)”. Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có truyền thống trong văn học. Thành công của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách tân, sáng tạo nhưng vẫn không xa rời với truyền thống. Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn Huy Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” [ ]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu ấn của văn học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy Thiệp không sống sượng bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần thục biểu hiện trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của người đọc Việt Nam. Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người kể chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [33, tr.621]. Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Đoàn Hương nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một cốt truyện đơn giản như chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33, tr.622]. Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hoặc như dẫn đưa của đầu và thân truyện” [59, tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường có những đoạn kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng. Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59, tr.9-10]. Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi truyện cổ tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng định: “nó vẫn là cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626]. Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã chọn dịch tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng là “đóng góp cho văn học thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên trong truyện là vấn đề lớn mang tầm nhân loại [59, tr.110-111]. Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa khẳng định rằng có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu chuyện thể hiện tâm trạng và cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó [ ]. Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến nguyên tắc lạ hoá làm nền tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu đi nữa thì “loại hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản của đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29]. Thêm vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng “chắc chắn không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những điều kiện lịch sử, xã hội trong vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong văn học Việt Nam. Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân táo bạo trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới, nhưng sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn học dân gian đa dạng và phong phú của dân tộc. Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố văn hóa dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học, độc giả trong và ngoài nước. Các bài nghiên cứu, phê bình mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu ở trên phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Tuy nhiên, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên sự quan tâm ở những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát; hoặc thu hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất yếu, các bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng đưa đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. 3. Phạm vi nghiên cứu Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau để tiến hành nghiên cứu: Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn. Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn chỉ đi vào khảo sát, phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng góp hữu ích như sau: - Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó góp phần khẳng định cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một trong những hướng nghiên cứu cần thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay. - Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1. Phương pháp văn hóa học: Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng các quan điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. 5.2. Phương pháp hệ thống: Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian biểu hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. 5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản, từ đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. Những phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề, người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê, với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 6. Cấu trúc luận văn Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4 trang), phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương: Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

pdf105 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2486 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Văn Thiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, không được quyền đê tiện. Liền đó, tác giả chen vào lời hát của nhân vật Vinh Hoa. Bài hát của nàng như lời nhắn nhủ của quần thần với người đang nắm trong tay quyền hành tối cao về vận mệnh của dân tộc cần nhận thức về vai trò trách nhiệm của một bậc đế vương: “Nước có còn không Nước có mạnh không Thiên tử là cái gốc lớn thiên hạ Cây cao, bóng cả Trùm lên muôn dân Gió mây có biến hóa Ghi nhớ trong tâm trường Nhắc ai tự chủ trương Giữ chữ “thường” Chính đạo thuần vương” [94, tr.180] Bài hát của Vinh Hoa nêu bật những tư tưởng sâu sắc của truyện về quan niệm thiên tử là cái gốc lớn của thiên hạ, quyết định sự tồn vong của quốc gia, về đạo thuần vương. Lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần vốn rất quen thuộc với độc giả qua những truyện cổ tích dân gian. Với hình thức lời kể chuyện này, Nguyễn Huy Thiệp đã kết hợp được chất thơ và chất tự sự trong văn xuôi, góp phần tạo nên sự rậm rạp trên bề mặt và cả ở chiều sâu trong việc khám phá đời sống tinh thần của con người. Ông đã xử lí một cách hiệu quả hai cực đối lập là sự sắc lạnh tỉnh táo trong cái nhìn về hiện thực và chiều sâu trữ tình trong tác phẩm. Qua những câu văn vần chảy tràn chất thơ, tuôn trào cảm xúc, ông như đưa người đọc trở về với những gì là gốc gác, cội nguồn sâu thẳm của tư duy thơ vốn thấm đẫm trong nguồn mạch văn chương dân tộc. 3.2. Giọng điệu Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [74, tr.134]. Một nhà văn muốn viết được những trang văn đầy ám ảnh, anh ta không phải chỉ trông chờ vào phút chốc thăng hoa của cảm xúc, ngẫu hứng mà còn phải biết tổ chức một cách công phu sao cho thế giới nghệ thuật ấy hiện lên chính xác và thuyết phục nhất tư tưởng về đời sống hiện thực muôn mặt. Để có thể hoàn thành sứ mệnh đó, việc lựa chọn giọng điệu cho tác phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Giọng điệu, cũng xuất phát từ ngôn ngữ, song nó có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó bao hàm cả ngữ cảnh, quan niệm,…Do đó, “thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [74, tr.135]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử xem giọng điệu văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, là “yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn”. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò to lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Mỗi tác phẩm văn chương đều có sắc thái giọng điệu riêng. Trong mỗi tác phẩm, bên cạnh giọng điệu chủ đạo, bao giờ cũng tồn tại nhiều sắc thái giọng điệu khác nhau. Giọng điệu chủ đạo không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học những giọng điệu khác nhau. Các sắc thái giọng điệu đã trở thành phương tiện tham gia chuyển tải bức tranh hiện thực vào tác phẩm và thể hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống. Chính vì thế khi nghiên cứu sáng tác của một nhà văn không thể không nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật của họ. Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy có hai giọng điệu tiêu biểu: giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ; giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. 3.2.1. Giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ Khi tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh nhận thấy có một cái tôi lưỡng phân: một cái tôi của văn xuôi và song song đó là một cái tôi của thơ, cái tôi này luôn giàu suy tư và mênh mang buồn. Từ những trang văn bề bộn ngổn ngang nhiều khi “vút lên những tứ thơ thật trong trẻo, những âm điệu thật thiết tha” [59, tr.460]. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc không khó để nhận ra rằng dù khi viết về cái xấu, cái ác bằng giọng văn tàn nhẫn, hằn học nhất nhưng không có nghĩa là ông đang phỉ báng con người. Ngược lại, nó thể hiện chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn cao cả trong sáng tác của ông. Những nỗi đau đời, sự cô đơn của kiếp người thường âm thầm lặng lẽ nhưng không kém phần da diết. Với trách nhiệm của nhà văn chỉ có quyền nói lên sự thật, Nguyễn Huy Thiệp không thể không viết về cái xấu, phơi bày những điều xấu xa và bỉ ổi nhất. Nhưng ông không bao giờ tuyệt vọng với cái xấu vì ông luôn tin vào lòng nhân ái, nhân tính của con người. Những cảm xúc ấy tuôn trào trên ngòi bút, cuồn cuộn thành thác lũ, vút cao lên những thanh âm trong trẻo, ngân vang, ngân xa…tạo thành giọng điệu trữ tình ngọt ngào, thấm đẫm chất thơ trong những trang văn của ông. Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: mạch trữ tình trong văn Nguyễn Huy Thiệp bắt nguồn từ chữ thương, cho nên khi “nói về những sự đốn mạt, hèn kém của con người, câu văn của Nguyễn Huy Thiệp thường man mác cảm giác tê tái. Đằng sau cảm giác này là nỗi đau nhân tình” [59, tr.14]. Tiêu biểu như đoạn đối thoại sau trong truyện Tướng về hưu: “Ông Bổng sang thăm. Ông nói: “Bà ấy cứ xoay ngang xoay dọc trên giường thế này là gay go đấy!” Lại hỏi: “Chị ơi, chị có nhận ra em không?” Mẹ tôi bảo: “Là người”. Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người” [94, tr.25]. Đây là một trong những đoạn văn hay và cảm động nhất trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Phải có cái nhìn đầy nhân ái và thấu suốt, nhà văn mới viết được những câu văn dồn nén cảm xúc đến thế. Độc giả khi đọc những đoạn văn như vậy cũng phải thoáng rùng mình về lẽ sống, về thế thái nhân tình, về cách nhìn nhận đánh giá bản chất của một con người. Giọng điệu trữ tình trong văn Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rõ nét qua những trang văn ông viết về thiên nhiên. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những bức tranh thiên nhiên thường rất đẹp và cũng rất thơ. Dường như với ông, cái nhân tạo thường hàm chứa nguy cơ giả dối còn cái đẹp của tự nhiên thật rộng lớn và vĩnh hằng. Đến với thiên nhiên là cách để con người được trở về với những nét đẹp truyền thống lưu giữ từ thuở xa xưa. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn con người trở nên trong sáng, thuần khiết và đẹp đẽ hơn. Lời văn Nguyễn Huy Thiệp trở nên mượt mà, sâu lắng, chất chứa những tình cảm dạt dào, đắm say khi viết về thiên nhiên. Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không còn đơn thuần là thiên nhiên khách quan mà đã trở thành hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm của ông phần nhiều là không gian được bao bọc bởi thiên nhiên, những con người sống ở đó đều là những người lao động hiền lành, chất phác. Chúng hiện lên như những bức tranh phong cảnh sinh động, giàu hình ảnh, âm thanh, đường nét được vẽ nên bởi ngôn từ tài hoa, tinh tế, cảm xúc bay bổng của người nghệ sĩ. Những đoạn văn có kết cấu cân đối, nhịp nhàng góp phần không nhỏ vào việc tái hiện không gian trữ tình, thơ mộng, phảng phất không khí của huyền thoại xa xưa trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: - “Bản Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt. […] Thung lũng Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà thôi. Đây là thứ không khí huyền thoại” (Những ngọn gió Hua Tát), [94, tr.213]. - “Sau Tết Nguyên đán một tháng là thời gian thích nhất ở rừng. Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng vừa tình cảm. Điều ấy một phần là do mưa xuân. Khoảng thời gian này mà đi trong rừng, chân dẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí trong lọc, thỉnh thoảng lại thót mình bởi một giọt nước từ trên lá cây rỏ xuống vai trần thật tuyệt thú” (Muối của rừng), [94, tr.65]. - “Đây là thiên nhiên: cành cây xòa trước mặt, tiếng chim hót, những giọt nước mưa đọng lại trên cây, mùi lá mục ẩm ướt, những con chim xanh, con chim đỏ, con chim vàng, những cánh mối ướt rụi, những con bọ nhảy, tiếng vượn kêu não nùng, bông hoa bé xíu…tất cả hương vị, màu sắc của thiên nhiên đều chân thực, thanh khiết, đều khiến ta cảm động đến tận đáy sâu tâm hồn” (Mưa Nhã Nam), [94, tr.203]. - “Ngôi nhà nhỏ ở trên đồi. Ngôi nhà đơn độc, lẻ loi. Mưa xuân giăng giăng bao trùm lên ngôi nhà. Mưa xuân giăng giăng bao trùm lên hai cây nhội gai đỏ. Mưa xuân giăng giăng trùm lên quả đồi” (Đời thế mà vui), [94, tr.348]. Những đoạn văn như thế chiếm số lượng khá nhiều trong những trang văn của Nguyễn Huy Thiệp. Những dòng văn xuôi tuôn dài êm dịu như những áng thơ, nhịp nhàng như tiếng nhạc du dương trầm bổng, dìu dặt chảy tràn âm điệu trữ tình. Đó chỉ có thể là chất thơ riết nóng được phát ra từ “những tiếng lòng líu la líu lo”, từ “lòng mẹ”. Hiện lên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là không gian yên ả, thanh bình đặc trưng cho phong cảnh làng quê Việt Nam với hình ảnh đàn cò, ngõ nhỏ, dòng sông, cánh buồm, bờ đê,…và tiếng chửi láng giềng của ai đó khi bị mất gà: “Trên trời cao, có mấy con cò bay qua, tiếng kêu khàn khàn nghe rất hãi hùng. Những giọt nước mưa đọng trên lá cây bỗng rơi rào rào xuống người tôi. Tôi đi dọc theo cái ngõ nhỏ rụng đầy lá tre, loanh quanh một lúc trong làng vì lạc đường. Mấy đứa trẻ con chạy táo tác. Có nhà ai mất gà đang lớn tiếng chửi láng giềng, tiếng chửi nghe rất tục tằn, ngoa ngoắt. Tôi vòng lên ra chỗ bờ đê. Phía xa xa, một cánh buồm nâu chậm rãi đi ngược dòng sông hoàn toàn vô sự” (Những bài học nông thôn), [94, tr.146]. Dòng sông, bến đò quê hương hiện lên trên trang văn Nguyễn Huy Thiệp đẹp như một bức tranh: “Đoạn sông chảy qua bến Cốc lia một vòng cung đẩy những doi cát bên bồi về mãi phía Tây. Bến đò ở ngay gốc gạo đơn độc đầu xóm. Con sông bến nước mơ màng và buồn cô liêu, nửa như chờ đợi, nửa như hờn dỗi. Mùa hoa, trên ngọn cây gạo màu đỏ xao xuyến đến lạ lùng” [94, tr.7]. Mùa đông không rét buốt tái tê mà đẹp nao lòng. Những buổi sáng mùa đông thường có nắng ấm lan tỏa trong không gian: “Mặt trời hào phóng trải trên mặt đất tất cả hào quang rực rỡ của mình. Trời xanh ngăn ngắt, một làn gió thổi làm những hạt cát trên thuyền xoáy thành lốc nhỏ” (Chảy đi sông ơi), [94, tr.13-14]. Đọc những câu văn như thế, người đọc có cảm tưởng như đang được hòa mình vào thiên nhiên, rồi thấy mình càng thêm yêu đời, yêu người hơn. Giọng điệu trữ tình còn bộc lộ qua những trang sách nhà văn viết về nhân vật nữ. Khác với giọng hằn học, bỡn cợt, chua chát khi viết về hầu hết các nhân vật đàn ông, Nguyễn Huy Thiệp lại dành những tình cảm nồng hậu nhất cho phụ nữ. Những câu văn ông dành tặng cho họ là những câu văn tha thiết, giọng điệu ngợi ca nồng nàn nhất, vì thế chúng cũng là những trang văn xuất sắc nhất của ông: - “Trên tấm sàn gỗ đầu nhà, dưới ánh trăng, một cô gái Mường đang chăm chú dệt tấm thổ cẩm với những màu sắc vô cùng đẹp mắt. Tôi lặng người, gần như nghẹt thở vì vẻ đẹp trong trẻo huyền ảo của hình ảnh ấy […]. Dưới ánh trăng, khuôn mặt cô thật xinh đẹp, tươi tắn […]. Ánh mắt và nụ cười của cô đầy sự cảm thông, nó vui vẻ ân cần như muốn chia sẻ tình cảm với tôi” (Thổ cẩm), [94, tr.502]. - “Cho đến lúc ấy, có lẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu Nguyễn Thị Lộ tầm thường như những phụ nữ khác [...]. Nàng trinh bạch, điềm tĩnh và cương nghị” (Nguyễn Thị Lộ), [94, tr.329]. - Tôi bắt đầu hình dung thấy nàng. Nàng hiện lên rực rỡ. Những đường nét trên khuôn mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh tú quả cảm” (Con gái thủy thần), [94, tr.89]. - “Nhi đội khăn vuông, mặc áo bông, khoác tay nải, rực rỡ như một đóa quỳnh trong đêm” (Cánh buồm nâu thuở ấy), [94, tr.569]. Qủa thật, nói như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến thì “thiên tính nữ là một điểm tựa quan trọng của tác giả” [59, tr.19]. Điểm tựa tinh thần ấy khiến văn Nguyễn Huy Thiệp tuôn dài như những áng thơ trữ tình, đằm thắm da diết, vì thế mà có chiều sâu hơn. Giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thật sâu lắng thiết tha khi ông kể những câu chuyện tình yêu nam nữ. Đỗ Đức Hiểu ví von rằng Nguyễn Huy Thiệp là “ca sĩ của Tình yêu” [59, tr.482]. Nhịp mạnh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những trang văn viết về tình yêu. Tình yêu con người, tình yêu loài người là tinh thần bao trùm các tác phẩm của ông. Đấy là thứ tình cảm tuyệt diệu, thiêng liêng nhất mà thượng đế đã ban tặng cho con người. Nhà văn đã nhiều lần từng viết: “Trong muôn thứ diệu kỳ thì tình yêu chính là điều diệu kỳ nhất” (Quan âm chỉ lộ), [94, tr.585], “Mà tình yêu, bạn biết không – cái món quà tuyệt vời mà Thượng đế hào phóng ban tặng cho người đời ấy, bao giờ cũng phải trả giá bằng những giọt nước mắt nghẹn ngào…” (Cánh buồm nâu thuở ấy), [94, tr.575]. Những trang viết về tình yêu của Nguyễn Huy Thiệp bao giờ cũng đẹp, lãng mạn, say đắm. Giọng hát của Trương Chi chỉ cao vút khi chàng hát về tình yêu dành cho Mị Nương (Trương Chi). Chỉ có tình yêu mãnh liệt, cháy bỏng, chàng Khó mới có thể bất chấp hiểm nguy vào rừng tìm giết hổ dữ để lấy trái tim về chữa bệnh cho nàng Pùa (Trái tim hổ). Và cũng chỉ xuất phát từ tình yêu nồng đượm với Mây, người đàn ông phong trần, dày dạn gió sương như Bạc Kỳ Sinh mới cất lên được những giai điệu tình yêu đẹp, da diết đến thế: “Pò mệ ơi! Bố mẹ ơi… Pò mệ sinh con từ hang núi Nơi ấy có nhiều gió lạnh lắm Tiếng hổ gầm, tiếng chó sói hú Những con rắn, con trăn tìm mồi Bọn cáo chồn hôi hám rình mò… … Con sờ soạng trong bóng đêm Và nhặt được một vật mềm, ướt át Con sợ hãi, không biết vật gì Nó phập phồng trong tay con Ôi đau quá, đau nhói ở đây Cái vật mềm, ướt át ấy Là trái tim con rơi trên đất Mặt đất nhiều gió, lạnh lắm…» (Chuyện tình kể trong đêm mưa), [94, tr.461-462] Tiếng hát của chàng trai người Thái ấy đơn giản như lời nói mà “dịu dàng không sao kể xiết; ngậm ngùi tê tái mà không mủi lòng; tâm trạng cô đơn lạnh buốt lẫn lộn với những khao khát nồng nàn. Tiếng hát sóng sánh, đặc như những giọt mật ong. Mỗi từ là một giọt mật” [94, tr.462]. Bài hát tình yêu vì thế cũng mang hương vị ngọt ngào của loại mật ong rừng chỉ có nơi núi rừng Tây Bắc xa xôi. Giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện ở âm hưởng của thơ ca. Chất thơ là một trong những nhân tố góp phần tạo nên giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Nhà phê bình văn học Đỗ Đức Hiểu nhận xét: “Thơ ca và triết lí là những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, đặc trưng đó xuất phát từ “tinh thần dân tộc” hay “tính phương Đông” của phong cách nhà văn [59, tr.479]. Nhà văn Lê Minh Hà gọi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là những truyện “dữ dội và hết sức thơ” [59, tr.488]. Cảm quan thơ thể hiện ngay ở hệ thống nhan đề truyện ngắn của ông, nhan đề giàu nhạc điệu, mênh mang như những câu hát: Chảy đi sông ơi, Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ, Đưa sáo sang sông, Sang sông, Cánh buồm nâu thủa ấy, Những tiếng lòng líu la líu lo. Âm hưởng trữ tình trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp được bộc lộ qua những bài thơ. Những bài thơ phần nhiều là những câu thơ tự do, không vần điệu do tác giả tự đặt ra. Chúng dàn trải mênh mông như những ý nghĩ, những lời nhắn nhủ và dường như tác giả của những bài hát, bài thơ ấy cũng không màng đến sự trau chuốt của ngôn từ nên lời ca càng chân chất, mộc mạc: “Tôi đi đưa đám ma em gái trên đồng Cái chết trắng, cái chết trắng xóa Những con bướm trắng, những bông hoa trắng Những tâm hồn trong trắng, những cuộc đời trắng. … Tôi đi đưa đám ma em gái trên đồng Trong ngày như thế, trong một ngày dưng Trong ngày như thế, trong một ngày thường Ơi hời, tôi đi lẫn trong đám đông, trong số đông, trong lòng người, trong nỗi đau thương, trong thê lương, trên quê hương…” (Thương nhớ đồng quê), [94, tr.198-199]. Âm hưởng trữ tình còn toát lên từ những câu văn giàu vần điệu, có cấu trúc như một bài thơ. Trong truyện Nguyễn Thị Lộ có những đoạn văn vần không chỉ làm tăng thêm chất nhạc, chất thơ, mà còn có ý nghĩa khá sâu sắc: “Bởi nàng là Nguyễn Thị Lộ. Vì nàng là Nguyễn Thị Lộ. Chỉ có một Nguyễn Thị Lộ” [94, tr.334] Cấu trúc ngữ pháp, nhịp điệu của ba câu trên lặp lại gần như hoàn toàn (Bởi nàng là - Nguyễn Thị Lộ; Vì nàng là - Nguyễn Thị Lộ; Chỉ có một - Nguyễn Thị Lộ) như lời khẳng định, nhấn mạnh về vai trò cũng như tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn của Nguyễn Thị Lộ trong cuộc đời Nguyễn. Bởi thực tế chính nàng đã thay đổi cuộc đời ông. Cũng trong truyện ngắn này, nếu đọc những câu văn xuôi có cấu trúc cân đối, nhịp nhàng như những câu thơ giàu nhạc tính, tuôn trào cảm xúc dưới đây, ta sẽ cảm nhận thấm thía hơn những trăn trở nội tâm trong trái tim Nguyễn. Đó là dự cảm về nỗi cô đơn, lạc lõng trong cuộc đời ông ngay cả khi đã chết. Chỉ có cỏ xanh bao phủ trên nấm mộ và lũ kiến hát những bài ca mà loài người không bao giờ có thể hiểu. Những ý nghĩ ấy cứ miên man không dứt, song lại khiến Nguyễn cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản hơn: “Còn Nguyễn, Nguyễn đâu có hai cuộc đời? Rồi ngày nào đấy Nguyễn chết đi, trên nấm mộ chỉ có cỏ xanh. Như bao người khác. Chỉ có cỏ xanh: cỏ ấu, cỏ gà, cỏ chân chim, cỏ gianh, cúc, thầu dầu, xương rồng. Những con kiến ca hát. Và chúng ca hát theo kiểu kiến.” [94, tr.334] Trong nhiều truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp đã mượn lời thơ của các nhà thơ khác để làm phát ngôn cho một số nhân vật. Tiêu biểu là những tác phẩm: Lòng mẹ (mượn lời thơ của Nguyễn Bính), Thương cho cả đời bạc (mượn lời thơ của Tú Xương), Đưa sáo sang sông (mượn lời thơ của Đồng Đức Bốn),…Đọc nhiều đoạn văn trong sáng tác của ông, người đọc dường như không thể phân biệt lời nói của nhân vật với lời thơ nghệ thuật. Bởi lời nói hàng ngày cũng trở nên giàu tính nhạc. Tiêu biểu như đoạn bà mẹ chuẩn bị tư trang chu đáo, đầy đủ cho con gái khi về nhà chồng trong truyện Lòng mẹ: “- Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía…Này gương, này lược, này hoa tai…Muốn gì tôi sắm cho cô đủ…Nào đã thua ai, đã kém ai?” Nhưng thấy cô con gái nghẹn ngào: “- U ơi! Con đi về nhà người! Ai ra đồng cấy giúp u? Ai nuôi dạy các em con? Ai trông nhà trông cửa! Lại còn món nợ ở nhà…” Bà liền cười hồn hậu, an ủi với giọng nói như hát, nỗi đau như kìm nén vào trong: “- Ruộng tôi cày cấy…Dâu tôi hái! Nuôi daỵ em cô, tôi đảm đương! Nhà cửa tôi coi! Nợ tôi trả! Tôi còn mạnh chán! Khiến cô thương!” [94, tr.441]. Những câu văn ngắt nhịp 2/2/3 hoặc 4/3 và các dấu chấm cảm được nhà văn sử dụng khá đắt đã góp phần tạo nên giai điệu nhịp nhàng cho lời thoại. Đọc những câu văn dào dạt cảm xúc như thế, chắc hẳn không ai không khỏi bồi hồi xúc động. Việc tác giả vận dụng khéo léo, sáng tạo những câu thơ của thi sĩ Nguyễn Bính trong bài thơ có tên là Lòng mẹ vào lời nói của nhân vật trong truyện ngắn cùng tên đã tạo được hiệu quả thẩm mĩ cao cho tác phẩm. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã nhận xét đằng sau những câu văn của Nguyễn Huy Thiệp ta vẫn thấy “một cấu trúc nhịp nhàng, một giai điệu ẩn náu như bè trầm của văn bản” [75, tr.179]. Đó có thể là do chịu ảnh hưởng của lối văn giàu thanh nhạc, nhịp điệu của văn chương truyền miệng của dân tộc. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, tuy đôi chỗ còn gai góc, xù xì khi viết về những chuyện thế thái nhân tình nhưng cái đọng lại sâu nhất nơi trái tim người đọc chính là tình người, tình đời được biểu hiện tinh tế qua giọng điệu trữ tình sâu lắng với những câu văn chảy tràn chất thơ, chất nhạc. 3.2.2. Giọng điệu mỉa mai, giễu cợt Bên cạnh giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp còn hấp dẫn người đọc qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Mỉa mai là “phương thức biểu cảm mà ý nghĩa đánh giá đích thực ngược hẳn với ý nghĩa bề mặt của phát ngôn, là sự phản đối, phủ định dưới hình thức tán dương, khẳng định” [74, tr.195]. Còn giễu cợt là “nêu thành trò cười nhằm chế nhạo, đả kích” những thói hư tật xấu trong xã hội [68, tr.401]. Mỉa mai, giễu cợt là những phương thức biểu cảm được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng có hiệu quả trong nhiều thiên truyện. Dân gian có thói quen mỉa mai, giễu cợt nhằm phê phán những thói hư tật xấu của con người. Cách nói ấy thường biểu hiện qua những câu truyện trạng, truyện cười, ca dao trào phúng,…Mỉa mai, giễu cợt trong văn chương nghệ thuật không phải đến từ một "cõi lạ", không dính dáng đến hiện tại mà luôn gắn chặt với thực trạng muôn mặt của cuộc đời. Bởi tác phẩm dẫu nói về cái xấu, cái ác nhưng người viết vẫn hướng con người về phía cái đẹp, khơi gợi những tình cảm cao đẹp bởi “khi cười cái xấu, người ta đứng cao hơn nó” (Tsecnưsepxki). Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy phảng phất giọng điệu giễu cợt của dân gian. Giọng điệu này cũng là một cách để nhà văn tiếp cận và phản ánh hiện thực cuộc sống. Nhờ đó mà những phương diện đa dạng và phong phú trong dòng chảy của cuộc sống hôm nay được nhà văn soi chiếu một cách chân thực nhưng không kém phần tinh tế. Đối tượng mỉa mai, giễu cợt của nhà văn rất đa dạng. Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện rõ khi Nguyễn Huy Thiệp phê phán sự suy đồi truyền thống đạo lí gia đình trong một bộ phận xã hội buổi giao thời. Điều đặc biệt là giọng văn này trong truyện của ông ít khi gắn với tiếng cười. Nếu có thì thường không phải là tiếng cười hả hê, vui vẻ. Ngược lại, nó ẩn chứa những nỗi đau, nỗi buồn về thế thái nhân tình của kiếp người. Tiếng cười đôi khi thực sự bi đát, nặng nề, đầy mai mỉa. Một ông tướng (Tướng về hưu) một thời từng xông pha anh dũng nơi chiến trường trận mạc, trớ trêu thay, ông lại trở nên thụ động giữa đời thường, thậm chí lạc lõng ngay trong gia đình mình. Làm chủ hôn cho đám cưới của đứa cháu họ, chứng kiến không khí “ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí ô trọc nữa” ở đấy khiến ông “luống cuống, khổ sở” đến “kinh hãi, đau đớn” [94, tr.22]. Thấy cô con dâu làm bác sĩ sản khoa lấy xác thai nhi về nấu cho chó béc giê ăn, ông chỉ biết khóc. Đến khi đứa cháu gái “giễu”: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm phải không ông?”, ông cũng chỉ biết mắng: “Mẹ mày! Láo!” [94, tr.31]. Trong một gia đình khác, hãy xem bố con ông Kiền (Không có vua) nói chuyện với nhau, ta thấy rõ hơn về sự “bát nháo” đó. Lão Kiền thường nói với con những lời mỉa mai rất độc địa. Với Đoài: “Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi, chữ tác, chữ tộ không biết, chỉ giỏi đục khoét!”, với Cấn thì: “Hay thật, cái nghề cạo đầu ngoáy tai của mày, nhục thì nhục nhưng hái ra tiền!” [94, tr.47]. Cho nên người đọc cũng không quá bất ngờ và sẽ còn ám ảnh rất lâu bởi câu nói của Đoài. Bố bệnh nặng, Đoài bảo: “Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết là hơn”. Rồi không để ai kịp nói, Đoài thản nhiên đến tàn nhẫn, vô nhân tính: “Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé” [94, tr.62]. Có cái gì đắng chát sau câu nói trơn tuột ấy của Đoài. Người ta những tưởng anh ta đang nói đến chuyện bầu bán gì đấy chứ không phải chuyện bệnh tình của bố mình. Đạo lí cha con trở nên vô nghĩa, bị con người ta đem ra làm trò đùa. Đời sống kinh tế thị trường đem đến sự thõa mãn nhu cầu vật chất cho con người, nhưng theo đó là sự tha hóa nhân tính trong một bộ phận xã hội lúc giao thời. Đồng tiền có sức mạnh phá hủy nhân tính thật ghê gớm. Cái hiện thực cay đắng ấy đã được nhà văn miêu tả một cách riết róng, qua giọng văn đầy mỉa mai. Khi viết về những hành động động ngớ ngẩn, vô nghĩa của con người, nhà văn thường viết bằng giọng mỉa mai, giễu cợt. Trong Những người thợ xẻ chi tiết nhân vật Ngọc ngăn không cho Bường hãm hiếp Quy, Bường giận dữ, thách đánh nhau với Ngọc: “Thế nào? Tiến lên đi chứ, công tử bột! Hãy mang chiến thắng về nộp dưới chân nàng Đuynxinê ở làng Tôbôdô” [94, tr.126] thật lố bịch. Hai người lao vào đánh nhau ác liệt mà chẳng vì cái gì cụ thể. Lời thách thức của tay “du thủ du thực” kia, mỉa mai thay, đã biến chàng cử nhân tương lai thành một anh chàng ngốc đi “đánh nhau với cối xay gió”. Giọng mỉa mai, giễu cợt còn được nhà văn dùng khi viết về những tình huống “dở khóc dở cười” khi con người phát hiện ra một điều gì đó. Người ta đắc chí với sự phát giác ấy mà không biết rằng mình đang trở thành một kẻ lố bịch hơn bao giờ hết. Ẩn sau câu chữ là những nỗi buồn tưởng bâng quơ nhưng rất thâm thúy. Để săn được con khỉ đầu đàn, ông Diểu (Muối của rừng) đã phải mất khẩu súng săn và cả bộ quần áo. Trên đường trở về, ông bực mình nghĩ: “chẳng lẽ lại nồng nỗng thế này về nhà thì thật là khả ố! Mình sẽ thành trò cười cho thiên hạ mất…”. Rồi ông bỗng bật cười: “Thì đã sao nào! Hỏi ai bắn được một con khỉ thế này? Phải yến rưỡi thịt…Lông vàng như nhuộm…Bắn được con vật như thế này thì dẫu mảnh giáp không còn cũng đáng!” [94, tr.73] Thực ra ông Diểu đã nhận ra sự lố lăng trong hành động của mình. Ông ta chỉ đang cố biện minh cho hành động ấy mà thôi. Cuộc sống đời thường với bao toan tính, mưu mô xảo quyệt. Truyền thuyết, huyền thoại vốn đẹp, thơ mộng lại trở thành trò cười trong thiên hạ. Huyền thoại Mẹ Cả đầy ắp trong kí ức tuổi thơ Chương (Con gái thủy thần). Trong trí tưởng tượng của anh, Mẹ Cả hiện lên thật đẹp và lộng lẫy. Cho đến một hôm có người chỉ cho Chương nấm đất gần kề gốc cây muỗm và bảo đấy là mộ của Mẹ Cả. Anh đào lên. Thì ra trong nấm đất ấy chỉ là “một khúc gỗ mục chẳng hình thù gì” [94, tr.86]. Chuyện Mẹ Cả rốt cùng chỉ là câu chuyện bịa đặt. Sự thật mà anh vừa trông thấy tận mắt quá phũ phàng so với huyền thoại mà người đời bấy lâu nay vẫn thêu dệt. Thật đau đớn và chua chát, Chương thấy mình bơ vơ, lạc lõng chính tại nơi mình đang sống. Anh quyết định đi ra biển, dẫu biết rằng “ngoài biển không có thủy thần” [94, tr.87], nhưng có thể nơi ấy sẽ không còn những trò lừa bịp ác tâm của con người. Cậu bé làng chài (Chảy đi sông ơi) cố nài nỉ những người đánh cá mòi đêm cho lên thuyền để có thể nhìn thấy sự thật về truyền thuyết con trâu đen. Nhưng truyền thuyết ấy chỉ là tin đồn thất thiệt của một kẻ rỗi hơi nào đấy. “Chuyện giết người cướp của có thực, ngoại tình có thực, cờ bạc có thực”, còn đau lòng thay: “chuyện trâu đen là giả”, vì đó chỉ là “chuyện đồn nhảm nhí” [94, tr.12]. Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện qua những phát ngôn kiểu hô hào rỗng tuếch. Đây chính là điểm gặp gỡ giữa Nguyễn Huy Thiệp với Vũ Trọng Phụng. Trong Số đỏ, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã để cho nhân vật Xuân Tóc Đỏ nhiều lần nói những câu trịch thượng song lại vô nghĩa và buồn cười. “Hỡi quần chúng! Mi không hiểu gì, mi oán ta! Ta vẫn yêu quí mi mặc lòng mi chẳng rõ lòng ta!...Thôi giải tán đi, và cứ an cư lạc nghiệp trong hòa bình và trật tự! Ta không dám tự phụ là bậc anh hùng cứu quốc, nhưng ta đã tránh được cho mi họa chiến tranh rồi! Hòa bình vạn tuế! Hội Quốc liên vạn tuế!” [70, tr.234]. Mấy nghìn người bị một kẻ lưu manh, bụi đời gọi là “mi” không những chẳng tức giận, ngược lại còn rất xúc động, sốt sắng hoan hô: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế! Sư đại bại vạn tuế!” [tr. 235]. Tiếng cười châm biếm, mỉa mai từ đó vang lên thật sâu cay! Trong một số thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật cũng có cách nói kiểu hô hào “thùng rỗng kêu to” như thế. Tiêu biểu là truyện Sang sông. Chuyện kể rằng trên chuyến đò sang bờ bên kia hôm ấy có rất nhiều hạng người và nhiều biến cố xảy ra. Một cậu bé vì nghịch ngợm đã kẹt tay vào cái bình của hai gã buôn đồ cổ. Trong lúc mọi người trên đò đang lúng túng chưa biết xử trí thế nào thì tên cướp có vẻ mặt hung tợn đã liều mình đập vỡ chiếc bình quý để cứu đứa bé thoát chết trong gang tấc. Chứng kiến hành động ấy, nhà giáo (trước đó run lẩy bẩy, đánh rơi cả kính) bỗng hoảng hốt thốt lên: “Trời! Anh dám đập vỡ bình! Thật đúng là một anh hùng! Một nhà cải cách! Một nhà cải cách!” [94, tr.369]. Thật nực cười! Nhà giáo cao đạo nói những lời sáo rỗng, ngây ngô, còn kẻ cướp giờ lại trở thành “anh hùng”, thành “nhà cải cách” vĩ đại. Khi để cho nhân vật thầy giáo nói những câu “khen ngợi” ấy, tác giả không hướng người đọc đến sự đánh giá về nhân vật tên cướp, mà chủ yếu nhằm phê phán sự hèn nhát, thói mọt sách của ông thầy giáo nọ nói riêng, và những kẻ sống theo kiểu “lí thuyết suông” không hiếm gặp trong đời thường nói chung. Câu chuyện vì thế toát lên thái độ mỉa mai, giễu cợt thâm thúy. Nhà văn còn mỉa mai, giễu cợt cái cách người ta đặt tên địa danh vùng miền bằng những cái tên nghe “rất kêu” nhưng thật kệch cỡm. Ví dụ như trong truyện Những người thợ xẻ, ông để nhân vật Bường nói mỉa: “Vùng ma thiêng nước độc thì tên là Tương Lai, Bình Minh, Tân Lập, Đoàn Kết, Tự Cường! Kêu cứ như chuông! Mấy thằng bán quán, khách vào thì chém cổ lại đặt tên là Bình Dân với Thanh Lịch! Còn mấy thằng bán thuốc nạo thai con gái lại đặt tên là Hồi Xuân với Cứu Thế!” [94, tr.110]. Giọng giễu cợt của Vũ Trọng Phụng là thái độ phủ định sâu sắc hết thảy cái xã hội thảm hại, lố lăng trước cách mạng. Giọng điệu ấy bộc lộ chủ yếu qua bút pháp trào lộng, châm biếm sâu cay. Vũ Trọng Phụng có những tác phẩm thuần túy với giọng giễu cợt. Còn giọng mỉa mai, giễu cợt trong văn Nguyễn Huy Thiệp chỉ nhằm vào một vài đối tượng cụ thể đan cài vào tác phẩm. Đôi khi cái nhìn giễu cợt xuất phát từ những tình huống tưởng chừng rất vụn vặt đời thường song lại ngầm chứa những giá trị nhân sinh sâu sắc. Ngay ở những thiên truyện “phản cổ tích” (được cho là có biểu hiện của giọng mỉa mai, giễu cợt) thì giọng khẳng định vẫn là giọng chính. Song không thể phủ nhận rằng thông qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt, Nguyễn Huy Thiệp đã cho chúng ta thấy được phần nào những mặt tiêu cực trong tư tưởng, nếp sống, đạo đức,…còn tồn tại trong xã hội để từ đó có ý thức sống tốt hơn. Tiểu kết: Có thể nói, ngôn ngữ và giọng điệu là những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và góp phần khẳng định tài năng cũng như phong cách của tác giả. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được viết bởi thứ ngôn ngữ rất đời thường, vận dụng khá nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ nên gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày, mang đậm sắc thái ngôn ngữ của dân gian. Bên cạnh đó, nhà văn còn kể chuyện bằng lối kể rất quen thuộc trong cổ tích, trong thói quen giao tiếp của người Việt Nam, đó là lối kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Truyện của ông hấp dẫn, lôi cuốn độc giả chính là nhờ đã kết hợp được chất thơ và chất tự sự trong văn xuôi, góp phần tạo nên sự rậm rạp trên bề mặt và cả ở chiều sâu trong việc khám phá đời sống con người. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn luôn có ý thức và cố gắng tạo nên giọng điệu văn chương riêng cho mình. Với sự nỗ lực tìm tòi không ngừng, ông đã khẳng định được văn phong riêng độc đáo không thể nhầm lẫn. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là sắc thái dân gian trong giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ và giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Chúng là những “dải băng ngôn từ” được nhà văn khéo léo chọn lựa, chắt lọc, đan cài tạo nên nhiều chất giọng trong tác phẩm. Văn của ông vừa có sự kế thừa cách diễn đạt truyền thống vừa có lối diễn đạt sắc lạnh, đầy suy tư của văn chương hiện đại. KẾT LUẬN 1. Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiên phong của giai đoạn văn học thời kì Đổi mới, góp phần tạo nên diện mạo mới cho nền văn học đương đại Việt Nam. Với những tìm tòi, sáng tạo đầy nỗ lực, Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định tài năng, vị trí và tầm ảnh hưởng của mình trên văn đàn cũng như trong lòng độc giả. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn của sự đổi mới, cách tân. Điều đó đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhiều công trình khoa học phát hiện và minh chứng. Với mong muốn khám phá thêm chiều sâu trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, luận văn tiến hành tìm hiểu truyện ngắn của ông từ hướng tiếp cận văn hóa dân gian. Khảo sát riêng ở mảng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt soi rọi từ một số lí thuyết cơ bản của văn hóa dân gian dân tộc, luận văn nhằm đi đến kết luận: truyện ngắn của ông có sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể hiện. 2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa người với người, với xã hội và với tự nhiên. Trong đó, văn hóa dân gian là một bộ phận quan trọng của văn hóa. Mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa dân gian với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Việc vận dụng các lí thuyết văn hóa dân gian vào nghiên cứu tác phẩm văn học cụ thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn bản chất sáng tạo của nhà văn. Trước hết, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã chuyển tải thành công các quan niệm văn chương của nhà văn. Trong đó, Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa văn hóa, văn học dân gian và nhà văn. Khi đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã phân tích, chứng minh sự ảnh hưởng của một số thành tố văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian trên các phương diện cụ thể như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. 3. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đa phần không có cốt truyện phức tạp, chứa đựng quá nhiều mâu thuẫn kịch tính. Để thể hiện cuộc sống với tất cả sự đa diện, đa chiều, Nguyễn Huy Thiệp thường xây dựng những cốt truyện mang màu sắc huyền ảo và môtíp cổ tích. Chúng tôi cũng đã chỉ ra sự ảnh hưởng của truyện dân gian đối với cách thức mở đầu và kết thúc trong cốt truyện truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Ở những kiểu cốt truyện này, để làm rõ sự kế thừa và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp, người viết đã tập trung đi sâu phân tích các yếu tố như sự kiện, chi tiết kì lạ, hoang đường; những tình huống truyện hư ảo; những nhân vật kì lạ; những giấc mơ bí ẩn, những môtíp cổ tích quen thuộc. Từ đó, người viết khẳng định việc sử dụng các yếu tố huyễn hoặc, các môtíp cũ không có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp lặp lại truyền thống mà đó là cách để nhà văn có thể đi sâu chiếm lĩnh, khám phá hiện thực đa chiều của cuộc sống thực tại. 4. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khá đa dạng và phong phú. Có ba kiểu nhân vật hiện lên khá toàn diện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là: nhân vật là những con người sống hòa hợp với tự nhiên, mang trong mình triết lí sống hài hòa, bình ổn; nhân vật là những người có đời sống tâm linh sâu sắc; nhân vật là những người phụ nữ mang vẻ đẹp của “thiên tính nữ”. Trong quá trình đi sâu phân tích hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã cố gắng chỉ ra rằng: khi xây dựng nhân vật, nhà văn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam với triết lí sống hài hòa, bình ổn xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, truyền thống trọng nữ, tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước lâu đời truyền lại. Cho nên nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp tuy là những con người của cuộc sống hiện đại nhưng vẫn mang trong mình những phẩm chất truyền thống cao đẹp. 5. Chịu ảnh hưởng khá sâu sắc cách diễn đạt từ dân gian, ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang những đặc điểm sau: sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đời thường, tục ngữ, thành ngữ; lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là thứ ngôn ngữ được chắt lọc từ đời sống, từ thói quen vận dụng tục ngữ, thành ngữ từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Lời kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng khá độc đáo. Đó là lối kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần vốn đã quen thuộc từ truyện cổ dân gian. Chính việc vận dụng phối hợp khéo léo các dạng ngôn ngữ này mà truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong cảm nhận của độc giả. Nói đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người ta cũng thường nói đến giọng điệu độc đáo trong văn ông. Tùy thuộc vào đối tượng thể hiện mà nhà văn thường chọn một chất giọng chủ đạo, qua đó bộc lộ thái độ, quan điểm của tác giả về con người và cuộc sống. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một thế giới đa giọng điệu, ở đó có sự kết hợp, đan cài giữa chất giọng trữ tình, thấm đẫm chất thơ với chất giọng mỉa mai, giễu cợt. Truyện của Nguyễn Huy Thiệp gây ấn tượng đặc biệt cho độc giả bằng chất giọng trữ tình, thấm đẫm chất thơ. Giọng điệu ấy như “một cấu trúc nhịp nhàng, một giai điệu ẩn náu như bè trầm của văn bản” [75, tr.179]. Theo chúng tôi giọng điệu này có đươc một phần là do Nguyễn Huy Thiệp đã chịu ảnh hưởng từ lối văn giàu nhạc điệu của văn chương truyền miệng của dân tộc. Giọng mỉa mai, giễu cợt cũng là một trong những giọng chủ đạo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Thông qua phương thức biểu cảm mỉa mai, giễu cợt, với lối nói ngược hẳn với ý nghĩa bề mặt phát ngôn cùng với thái độ phê phán những mặt trái của xã hội qua cách nhìn giễu cợt, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã phản ánh hiện thực đa diện của cuộc sống hôm nay một cách thẳng thắn nhưng khá tinh tế. Khi tìm hiểu giọng điệu này, chúng tôi cũng cố gắng làm rõ sự tiếp thu của nhà văn từ lối nói mỉa, trào phúng quen thuộc trong đời sống dân gian. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này theo chúng tôi cũng chưa được rõ nét lắm so với các phương diện khác mà luận văn đã nghiên cứu. 6. Bằng sự lao động miệt mài, khổ luyện trên “cánh đồng chữ nghĩa”, Nguyễn Huy Thiệp đã gặt hái được những thành công đáng kể trong sự nghiệp cầm bút, đặc biệt là ở mảng truyện ngắn. Quan trọng hơn, ông đã nhận được sự “đồng điệu” sâu sắc từ đông đảo độc giả trong và ngoài nước. Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người đọc không chỉ có thêm những khám phá thú vị từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ, mà đáng quí hơn, họ còn được nhà văn khéo léo đưa trở về với cội nguồn của truyền thống văn hóa dân gian dân tộc. Những đóng góp ấy to lớn và có ý nghĩa biết nhường nào. Trong nhịp chảy hối hả của cuộc sống hiện đại hôm nay, chúng ta càng thấy trân trọng hơn những đóng góp của nhà văn. Cuộc sống dù phát triển đến đâu, con người đều rất cần có sự kế thừa, tiếp nối giữa quá khứ với hiện tại làm nền tảng vững chắc cho tương lai. Văn học cũng vậy. Và vì thế, những câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp sẽ vẫn có sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng của nó. Nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn không cho rằng đã có thể giải quyết đầy đủ, trọn vẹn mọi vấn đề. Nhưng tác giả luận văn hi vọng rằng đề tài nghiên cứu của mình đã mở ra một hướng tiếp cận mới đối với “hiện tượng” Nguyễn Huy Thiệp. Và cũng mong kết quả nghiên cứu của luận văn, về mặt khoa học, ít nhiều cũng góp một tiếng vào nỗ lực chung trong việc nghiên cứu về một tác giả tiêu biểu của văn học đương đại Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch từ nguyên bản tiếng Nga, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 2. M. Bakhtin (1980), “Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý khi nghiên cứu văn học quá khứ”, Vương Trí Nhàn dịch, Tạp chí văn học (số 4). 3. Trần Lê Bảo (2009), “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (số 2). 4. Thụy Bình, Thiên lương trong “ Muối của rừng” www.evan.com.vn. 5. Nam Cao (1996), Truyện ngắn (chọn lọc), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 6. Nguyễn Minh Châu (1985), Tuyển tập truyện ngắn Bến Quê, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 7. Đoàn Văn Chức (2004), Văn hóa học, Nxb Lao động. 8. Nguyễn Văn Dân (2004), “Tiếp cận văn học bằng văn hóa học”, Tạp chí văn học (số 11). 9. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. 10. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội. 12. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á – Ngôn ngữ và Văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 13. Nguyễn Đình Đăng, Nhà văn Việt Nam của tôi, www.evan.com.vn. 14. Đặng Anh Đào (1991), “Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện hiện nay”, Tạp chí văn học (số 6). 15. Đặng Anh Đào, Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, www.nhavan.com.vn. 16. Phan Cư Đệ (chủ biên), (2007), Truyện ngắn Việt Nam – Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Tp Hồ Chí Minh. 18. Phong Điệp, Đánh giá thành tựu văn học Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, www.vietnamnet.com.vn. 19. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 20. Nguyễn Đăng Điệp, Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, www.phongdiep.net. 21. Hà Minh Đức (2008), Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 22. V. E. Guxev (1999), Mỹ học Folklor, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng. 23. Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975, www.vienvanhoc.org.vn. 24. Nguyễn Văn Hạnh, Về khái niệm văn hóa – vài khía cạnh lý luận và thực tiễn, www.vienvanhoc.org.vn. 25. Nguyễn Văn Hạnh (2007), “Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn chương”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 1). 26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 27. Võ Thị Thu Hằng, Triết lí văn chương trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn. 28. Lê Huy Hòa, Hoàng Đức Nhuận (tuyển chọn và giới thiệu), (2000), Văn hóa Việt Nam, truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 29. La Khắc Hòa, Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, www.vienvanhoc.org.vn. 30. Châu Minh Hùng, Tiếng nói của cái tục trong văn Nguyễn Huy Thiệp www.evan.com.vn. 33. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội. 34. Đoàn Thị Đặng Hương (1996), “Thử giải mã văn học Việt Nam theo tinh thần văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông”, Tạp chí văn học (số 3). 35. Lê Thị Hường (1995), “Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí văn học (số 4). 36. Nguyễn Văn Kha (2007), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện ngắn 1975 – 2000, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 37. Đinh Gia Khánh (chủ biên), (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 38. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Đinh Gia Khánh (1998), “Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc”, Tạp chí văn học (số 6). 40. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 5). 41. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 42. Ma Văn Kháng (2003), Tuyển tập truyện ngắn (4 tập), Nxb Công an Nhân dân. 43. Kim Khuyên, Đi săn hay là tìm lại thiên lương?, www.evan.com.vn. 44. Lê Đình Kỵ (1991), “Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết”, Tạp chí văn học (số 5). 45. Cao Kim Lan, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hậu hình thi pháp hậu hiện đại, www.vienvanhoc.org.vn. 46. Cao Kim Lan (2005), “Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 6). 47. Nguyễn Trường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương xưa và nay”, Tạp chí văn học (số 5). 48. Nguyễn Văn Long (2006), Nguyễn Văn Thìn (đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 49. Trần Long, Góp phần làm rõ nguyên lí mẹ trong văn hóa Việt, www.vanhoahoc.com.vn. 50. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 51. Trần Nhật Lý, Đọc lại “Sang sông” của Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn. 52. Sơn Nam (1999), Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ. 53. Nguyên Ngọc, Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng, www.vietnamnet.com.vn. 54. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa. 55. Phan Ngọc, Quan hệ giữa văn chương và văn hóa ở Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn. 56. Nguyễn Thị Ngọc (1996), Hồ Xuân Hương và nền văn hóa dân gian Việt Nam, Luận án P.TS, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. 57. Mạc Ngôn (2004), “Ngọn nguồn văn hóa dân gian của sáng tác văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 6). 58. Lã Nguyên, Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói www.vietnamnet.com.vn. 59. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn), (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 60. Phùng Qúi Nhâm (2002), Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh. 61. Vương Trí Nhàn (2006), “Giăng lưới bắt…lí luận”, Báo Thể thao và văn hoá, ra ngày 10 tháng 3. 62. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh. 63. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 64. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp, Tác Phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương + Nxb Trẻ. 65. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh. 66. Hoàng Thị Oanh (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. 67. Lê Trường Phát (1987), “Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi trong truyện kể dân gian”, Tạp chí văn học (số 4). 68. Hoàng Phê (chủ biên), (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, Đà Nẵng. 69. Phạm Phú Phong (2002), “Giọng điệu văn chương Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Sông Hương (số 155). 70. Vũ Trọng Phụng (2002), Số đỏ, Nxb Văn học, Hà Nội. 71. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi Việt Nam những năm 80 và những vấn đề dân chủ mới của nền văn học”, Tạp chí văn học (số 4). 72. G.N Pospelov (chủ biên), (1993), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 73. Đặng Văn Sinh, Đọc lại “ Tướng về hưu” www.vietnamnet.com.vn. 74. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 75. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội. 76. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, Nguyễn Đăng Điệp (tuyển chọn), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 77. Hà Công Tài (1989), “Để nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết”, Tạp chí văn học (số 5). 78. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí văn học (số 2). 79. Nguyễn Thị Minh Thái (2007), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Tôi sống ảo”, An ninh Thủ đô, ngày 9 tháng 9. 80. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 81. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn (số1). 82. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 83. Bùi Việt Thắng (2004), “Truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 1). 84. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 85. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 86. Nguyễn Thành Thi (2010), “Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 5). 87. Trần Viết Thiện (2007), “Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp – Chiều tương tác độc đáo”, Tạp chí Sông Hương (số 216). 88. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (1991), Quan niệm về Folklore, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 89. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Giăng lưới bắt chim (Tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 90. Nguyễn Huy Thiệp (2006), “Giăng lưới bắt chim” là những đối thoại nội tâm”, Tiền phong chủ nhật, ngày 24 tháng 9. 91. Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Tôi chỉ hướng tới tự nhiên”, Báo Tiền Phong (số 40). 92. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Thế giới đã an bài!”, Báo Thanh niên, ngày 10 tháng 3. 93. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Tổng nhuận bút của tôi khoảng 8000 USD”, Báo Người đương thời (số Xuân Mậu Tý). 94. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn. 95. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 96. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội. 97. Đỗ Lai Thúy, Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ hệ thống lí thuyết, www.vienvanhoc.org.vn. 98. Phạm Thị Thùy Trang (2009), Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. 99. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, Nxb Thanh niên. 100. Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu), (2001), Văn hóa Việt Nam – đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 101. Lê Ngọc Trà, Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, www.vienvanhoc.org.vn. 102. Đỗ Bình Trị (1989), “Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với văn học dân gian”, Tạp chí văn học (số 1). 103. Bùi Thanh Truyền (2008), “Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2). 104. Bùi Thanh Truyền (2001), “Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 5). 105. Phạm Thái Việt (chủ biên), (2004), Đại cương về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 106. Trần Ngọc Vương, Tục hoá quay về để tiến tới, www.vienvanhoc.org.vn. 107. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 108. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH018.pdf
Tài liệu liên quan