TÓM TẮT
Đề tài được tiến hành từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2006 tại: trại bò sữa thực
nghiệm thuộc trung tâm chuyển giao Khoa Học và Công Nghệ Trường Đại Học Nông
Lâm Tp. Hồ Chí Minh và hộ chăn nuôi bò sữa của cô Nguyễn Thị Mỹ Đức, 20/34
đường Bình Chiểu, tổ 2, khu phố 3, Phường Bình Chiểu, Quận Thủ Đức, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Mục đích của thí nghiệm là khảo sát ảnh hưởng của nồng độ phân cho vào 3, 4 và
5% vật chất khô với thời gian lưu trữ của phân là 10 và 20 ngày trên khả năng sinh gas
và các chỉ tiêu hóa lý của nước thải đầu ra như: vật chất khô, pH, đạm tổng số, hàm
lượng amoniac, COD. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên 1 yếu tố
có 3 nghiệm thức là:
3% vật chất khô cho vào với thời gian lưu lại 20 ngày
4% vật chất khô cho vào với thời gian lưu lại 10 ngày
5% vật chất khô cho vào với thời gian lưu lại 20 ngày
Thí nghiệm được tiến hành trên các hầm xây thiết kế kiểu KT1 Trung Quốc có thể
3
tích 6 và 10 m . Kết quả cho thấy đạm tổng số của chất thải đầu ra giảm trung bình
61% so với đạm tổng số của phân cho vào. Hàm lượng amoniac của chất thải đầu ra
giảm trung bình 15,7% so với hàm lượng amoniac của phân cho vào. COD ở đầu ra
giảm trung bình 74% so với phân cho vào. Kết quả thí nghiệm đã cho thấy ở nồng độ
vật chất khô 3% với thời gian lưu lại phân 20 ngày thì khả năng xử lý phân và sinh gas
tốt nhất.
. MỤC LỤC
TRANG
Trang tựa
Lời cảm tạ iii
Tóm tắt iv
Mục lục v
Danh sách các chữ viết tắt . viii
Danh sách các bảng ix
Danh sách các hình x
Danh sách các sơ đồ và biểu đồ xi
1. PHẦN MỞ ĐẦU .1
1.1 Đặt vấn đề 1
1.2 Mục đích và yêu cầu .2
1.2.1 Mục đích .2
1.2.2 Yêu cầu .2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Sơ lược đặc điểm chất thải chăn nuôi .3
2.1.1. Chất thải rắn .3
2.1.1.1. Phân 3
2.1.1.2. Xác súc vật chết .5
2.1.1.3. Thức ăn dư thừa, vật liệu lót chuồng và các chất thải .5
2.1.2. Chất thải lỏng .5
2.1.3. Chất thải khí .6
2.2. Một số mô hình xử lý chất thải chăn nuôi 7
2.2.1. Sử dụng ao hồ để xử lý .7
2.2.2. Sử dụng thủy sinh thực vật để xử lý .7
2.2.3. Xử lý sinh học hiếu khí trong điều kiện nhân tạo 8
2.3. Xử lý chất thải chăn nuôi bằng hệ thống ủ yếm khí biogas 9
2.3.1. Sơ lược lịch sử 9
2.3.2. Khí sinh học 10
2.3.2.1. Đặc tính khí sinh học biogas 10
2.3.2.2. Đặc tính của khí CH4 .11
2.3.3. Cơ chế tạo thành khí sinh học trong hệ thống biogas 11
2.3.3.1. Con đường thứ nhất .12
2.3.3.2. Con đường thứ hai .12
2.3.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh khí sinh học .13
2.3.4.1. Điều kiện kỵ khí tuyệt đối 13
2.3.4.2. Nhiệt độ 13
2.3.4.3. pH .13
2.3.4.4. Thời gian ủ .14
2.3.4.5. Hàm lượng chất rắn 14
2.3.4.6. Thành phần dinh dưỡng .14
2.3.4.7. H S .15
2
2.3.4.8. Các chất gây trở ngại quá trình lên men 15
2.3.4.9. Một số yếu tố khác .15
2.3.5. Vai trò của biogas trong sản xuất và đời sống .16
2.3.5.1. Cung cấp năng lượng .16
2.3.5.2. Hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường .16
2.3.6. Một số hầm ủ biogas ở Việt Nam .17
2.3.6.1. Loại nắp trôi nổi .17
2.3.6.2. Loại hầm nắp cố định .17
2.3.6.3. Túi cao su và bao nylon .18
2.3.7. Tình hình nghiên cứu hiện nay .19
3. VẬT LIỆU VÀ PHưƠNG PHÁP KHẢO SÁT 20
3.1. Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài 20
3.1.1. Thời gian .20
3.1.2. Địa điểm .20
3.1.3 Đối tượng khảo sát .20
3.2. Vật liệu 20
3.3. Phương pháp nghiên cứu 21
3.3.1. Bố trí thí nghiệm .21
3.3.2. Quy trình thí nghiệm 22
3.3.2.1. Lấy mẫu .22
3.3.2.2. Thời gian khảo sát 22
3.3.2.3. Chỉ tiêu khảo sát .22
3.3.2.4. Xử lý số liệu .23
4. KẾT QUẢ THẢO LUẬN .24
4.1. Điều kiện nhiệt độ .24
4.2. Vật chất khô của phân cho vào và chất thải đầu ra .25
4.3. pH của phân cho vào và chất thải đầu ra 26
4.4. Đạm tổng số của phân cho vào và chất thải đầu ra .27
4.5. Hàm lượng amoniac của phân cho vào và chất thải đầu ra 28
4.6. COD của phân cho vào và chất thải đầu ra .30
4.7. Lượng gas sinh ra 31
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .36
5.1. Kết luận .36
5.2. Đề nghị 36
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO .37 .
Ảnh hưởng nồng độ phân bò lên khả năng sinh gas của hầm ủ kt1 trung quốc
53 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2020 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng nồng độ phân bò lên khả năng sinh gas của hầm ủ KT1 Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu
đệm. Để một bể lọc sinh học hoạt động tốt, hiệu quả cao, nhất thiết phải phân bố đều
nƣớc thải trên bề mặt lọc, thông gió cung cấp oxy đầy đủ cho các vi sinh vật hoạt
động, tải lƣợng và tốc độ thích hợp.
Bể bùn hoạt tính (aerotank): bùn hoạt tính là tập hợp những vi sinh vật
hiếu khí tự hình thành khi thổi không khí vào nƣớc. Việc sục khí hoặc khuấy trộn có
tác dụng xáo trộn tốt, đồng thời cung cấp oxy cho vi sinh vật hoạt động, tăng hiệu quả
xử lý của bể.
Mƣơng oxy hóa: việc làm thoáng (bổ sung oxy) và khuấy trộn đƣợc thực
hiện bằng cách cho nƣớc thải chảy dọc theo mƣơng. Đến cuối chiều dài mƣơng, hầu
hết lƣợng chất hữu cơ có trong nƣớc thải đã đƣợc các vi sinh vật hiếu khí khoáng hóa.
9
2.3. XỬ LÝ CHẤT THẢI CHĂN NUÔI BẰNG HỆ THỐNG Ủ YẾM KHÍ
BIOGAS
2.3.1. Sơ lƣợc lịch sử
Công nghệ biến đổi các chất hữu cơ thành khí sinh học đã có từ hàng trăm
năm nay. Theo huyền thoại, khí sinh học đã đƣợc dùng để đun nƣớc tắm ở Assyri
trong thế kỷ thứ X trƣớc công nguyên và ở Ba Tƣ trong thế kỷ thứ XVI. Từ tài liệu
hƣớng dẫn thiết kế vận hành hệ thống khí sinh học biogas của Nguyễn Quang Khải
(2004), lịch sử phát triển công nghệ khí sinh học đƣợc tóm lƣợc nhƣ sau:
Ngƣời đầu tiên phát hiện thấy sự phát ra loại khí cháy đƣợc từ các chất
hữu cơ thối rữa là Van Helmont (1630). Shirley (1667) cũng đã nói đến khí đầm lầy.
Volta (1776) đã tiến hành một loạt quan sát và kết luận rằng lƣợng khí đầm lầy đƣợc
sinh ra phụ thuộc vào lƣợng thực vật thối rữa trong lớp lắng đọng ở đáy mà từ đó khí
nổi lên và với một tỷ lệ nhất định, hỗn hợp khí thu đƣợc vào không khí có thể nổ.
Trong những năm 1804 – 1810 Dalton, Henry và Davy đã thiết lập đƣợc công
thức hóa học của methane, khẳng định rằng khí than đá rất giống khí đầm lầy của
Volta và chỉ ra rằng methane đƣợc sinh ra từ sự phân rã của phân bò. France đã đƣợc
cung cấp chứng chỉ vì đã có một trong những đóng góp quan trọng cho việc xử lý các
chất rắn lơ lửng trong nƣớc thải.
Tới cuối thế kỷ XIX sự sản sinh ra methane đã đƣợc phát hiện là có
liên quan với hoạt động của các vi sinh vật. Bunsen (1856), Hoppe Seyler (1886),
Bechamp (1868), Tappeiner (1882) và Gayon (1884)… đã tiến hành nghiên cứu về
các khía cạnh vi sinh vật của quá trình sản sinh methane.
Bechamp (1868) đã đặt tên cho “sinh vật” chịu trách nhiệm về sự sản sinh ra
methane từ etanol. Sinh vật này dƣờng nhƣ là một quần thể hỗn hợp vì Bechamp đã
có thể chỉ ra rằng những sản phẩm lên men khác nhau đã hình thành từ những cơ chất
khác nhau.
Năm 1875 Popoff trình diễn sự sản sinh ra hydro và methane từ sự lên men
của các nguyên liệu chứa cellulose đƣợc bổ sung thêm bùn sông. Năm 1876 Herter
báo cáo rằng acetate ở bùn cống đã biến đổi thành methane và cacbon dioxit.
Gayon, một học trò của Pasteur, đã cho lên men phân ở 350C và thu đƣợc
100 lít methane đối với 1 m3 phân. Ông kết luận rằng sự lên men có thể là một nguồn
10
cung cấp khí để sƣởi ấm và thắp sáng. Năm 1895 tại Anh Cameron trình diễn việc
dùng khí sinh học để thắp sáng. Năm 1986 khí từ hệ thống cống đƣợc dùng để thắp
sáng các phố ở Exeter (Anh).
Về mặt vi sinh vật học, năm 1901 Schengon đã mô tả những đặc điểm hình
thái của vi khuẩn methane. Năm 1906 Sohngen làm giàu đƣợc hai vi khuẩn sử dụng
acetate khác nhau và phát hiện thấy formate và hydro cùng cacbon dioxit có thể đóng
vai nhƣ những tiền chất cho methane. Một chủng vi khuẩn methane đã đƣợc
Omelianskii phân lập năm 1916. Năm 1950 Hungate đã thiết lập kỹ thuật kỵ khí do
Bryant phát triển. Schnellen (1974) phân lập đƣợc hai vi khuẩn methane:
Methanosarcina barkeri và Methanobacterium formicium. Sau đó năm 1967 Bryant
đã thuần chủng đƣợc vi khuẩn Methannobacillus omelianskii.
Cuối những năm 1920 những nghiên cứu hóa sinh về sự phân hủy kỵ khí đã
đƣợc tăng cƣờng. Buswell bắt đầu nghiên cứu và giải thích những vấn đề nhƣ vai trò
của nitơ trong quá trình phân hủy kỵ khí, việc sản xuất năng lƣợng từ những chất thải
của các trang trại và ứng dụng quá trình này cho các chất thải công nghiệp. Những
nghiên cứu của Barker đã đóng góp quan trọng cho hiểu biết của chúng ta về các vi
khuẩn methane giúp ông thực hiện những nghiên cứu cơ bản về sinh hóa (1956).
2.3.2. Khí sinh học
Biogas hay còn gọi là khí sinh học là một hỗn hợp khí đƣợc sản sinh ra từ sự
phân hủy những hợp chất hữu cơ dƣới tác động của vi khuẩn trong môi trƣờng yếm
khí. Hỗn hợp khí này chiếm tỷ lệ gồm CH4: 60 – 70%, CO2: 30 – 40%, phần còn lại là
một lƣợng nhỏ khí N2, H2, CO, CO2... CH4 có số lƣợng lớn và là khí chủ yếu tạo ra
năng lƣợng khi đốt. Lƣợng CH4 chịu ảnh hƣởng bởi quá trình phân hủy sinh học, do
đó số lƣợng khí sinh ra này sẽ tùy phụ thuộc loại phân, tỷ lệ phân nƣớc, nhiệt độ môi
trƣờng, tốc độ dòng chảy… trong hệ thống phân hủy khí sinh học.
2.3.2.1. Đặc tính khí sinh học biogas
Khí biogas có trọng lƣợng riêng khoảng 0,9 – 0,94 kg/m3, trọng lƣợng riêng
này thay đổi do tỷ lệ CH4 so với các khí khác trong hỗn hợp. Lƣợng H2S chiếm một
lƣợng ít, có mùi hôi, tạo thành acid H2SO4 khi tác dụng với nƣớc gây độc cho ngƣời
và làm hƣ dụng cụ đun nấu. Mùi hôi của chất này giúp xác định nơi hƣ hỏng để
sửa chữa.
11
Khí biogas có tính dễ cháy nếu đƣợc hòa lẫn nó với tỷ lệ từ 6 – 25% trong
không khí, vì thế khi sử dụng gas này sẽ có tính an toàn cao. Nếu hỗn hợp khí mà CH4
chỉ chiếm 60% thì 1 m3 gas cần 8 m3 không khí. Nhƣng trong thực tế, khí biogas đƣợc
cháy tốt trong không khí khi nó đƣợc hòa lẩn ở tỷ lệ là 1/9 – 1/10 (Ủy ban Khoa học
kỹ thuật Đồng Nai, 1989).
2.3.2.2. Đặc tính của khí CH4
Khí CH4 là một chất khí không màu, không mùi và nhẹ hơn không khí. CH4
ở 200C, 1 atm, 1 m3 khí CH4 có trọng lƣợng 0,716 kg. Khi đốt hoàn toàn 1 m
3
khí CH4
cho ra khoảng 5.500 – 6.000 kcal.
2.3.3. Cơ chế tạo thành khí sinh học trong hệ thống biogas
Sự tạo thành khí sinh học là một quá trình lên men phức tạp xảy ra qua nhiều
phản ứng, cuối cùng tạo ra khí CH4 và CO2 và một số chất khác. Quá trình này đƣợc
thực hiện theo nguyên tắc phân hủy kỵ khí, dƣới tác dụng của vi sinh vật yếm khí để
phân hủy những chất hữu cơ ở dạng phức tạp chuyển thành dạng đơn giản là chất khí
và các chất khác.
Sự phân hủy kỵ khí diễn ra qua nhiều giai đoạn tạo ra hàng ngàn sản phẩm
trung gian nhờ hoạt động của các chủng loại vi sinh vật đa dạng. Đó là sự phân hủy
protein, tinh bột, lipid để tạo thành acid amin, glycerin, acid béo, acid béo bay hơi,
methylamin, cùng các chất độc hại nhƣ tomain (độc tố thịt thối), sản phẩm bốc mùi
nhƣ indole, scatole. Ngoài ra còn có các liên kết cao phân tử mà nó không phân hủy
đƣợc bởi vi khuẩn yếm khí nhƣ: lignin, cellulose. Tiến trình tổng quát nhƣ sau
33 g chất hữu cơ (CxHyOz) = 22 g CO2 + 8 g CH4 + 3 g sinh khối
Một phần CO2 đã bị giữ lại trong một số sản phẩm quá trình lên men bằng
cách kết hợp với những ion K+, Ca2+, NH3
+
, Na
+. Do đó hỗn hợp khí sinh ra có từ
60 – 70% CH4 và khoảng 30 – 40% CO2.
Những chất hữu cơ liên kết phân tử thấp nhƣ đƣờng, đạm, tinh bột và ngay cả
cellulose có thể phân hủy nhanh tạo ra acid hữu cơ. Các acid hữu cơ này tích tụ nhanh
sẽ gây giảm sự phân hủy. Ngƣợc lại lignin, cellulose đƣợc phân hủy từ từ nên gas
đƣợc sinh ra một cách liên tục. Tóm lại, quá trình tạo khí methane có thể diễn ra theo
hai con đƣờng, mỗi con đƣờng gồm hai giai đoạn:
12
2.3.3.1. Con đƣờng thứ nhất
a. Giai đoạn 1
o Sự acid hóa cellulose: (C6H10O5)n + H2O 3n CH3COOH
o Sự tạo muối: các bazơ hiện diện trong môi trƣờng (đặc biệt
là NH4OH) sẽ kết hợp với acid hữu cơ: CH3COOH + NH4OH CH3COONH4 + H2O
b. Giai đoạn 2: lên men methane do sự thủy phân của muối hữu cơ
CH3COONH4 + H2O CH4 + CO2 + NH4OH
2.3.3.2. Con đƣờng thứ hai
a. Giai đoạn 1: giai đoạn thủy phân do các nhóm vi khuẩn: Syntrophobacter,
Syntrophomonas, Desutionbric… sau đó sẽ chuyển hóa thành CO2 và H2 bởi các vi
khuẩn sinh acid: Clostridium, Eubacterium, Peptococus…
(C6H10O5)n + n H2O 3n CH3COOH
CH3COOH + 2 H2O 2 CO2 + 4 H2
b. Giai đoạn 2: giai đoạn sinh khí methane gồm các nhóm vi khuẩn:
Methanosarcina, Methanothrix, Methanospirillum…
CO2 + 4 H2 CH4 + 2 H2O
Vi khuẩn thủy phân
Vi khuẩn sinh acid
Vi khuẩn sinh acid
Vi khuẩn sinh metan
Vi khuẩn sinh methane
Sơ đồ 2.2. Quá trình phân hủy kỵ khí các chất hữu cơ do vi khuẩn
CÁC CHẤT HỮU CƠ PHỨC TẠP
Hydrat cacbon, protid, lipid
Các chất hữu cơ đơn giản và hòa tan đƣợc
Vi khuẩn sinh acetate
Acetate H2, CO2
CH4, CO2
13
Nhƣ vậy, cả hai con đƣờng, năng suất tạo khí methane phụ thuộc vào quá
trình acid hóa. Nếu quá trình lên men quá nhanh hoặc dịch phân có nhiều chất liên kết
phân tử thấp sẽ dễ dàng bị thủy phân nhanh chóng đƣa đến tình trạng acid hóa và
ngƣng trệ quá trình lên men methane.
Mặt khác vi sinh vật tham gia trong giai đoạn một của quá trình phân hủy
kỵ khí đều thuộc nhóm vi khuẩn biến dƣỡng cellulose. Nhóm vi khuẩn này hầu hết
có các enzyme cellulosase và nằm rải rác trong các họ khác nhau. Hầu hết là các trực
trùng có bào tử, có trong các họ: Clostridium, Plectridium, Caduceus, Endosponus,
Terminosponus. Chúng biến dƣỡng ở điều kiện yếm khí cho ra CO2, H2 và một số chất
tan trong nƣớc nhƣ formate, acetate, alcohol, methylique, methylamine.
2.3.4. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình sinh khí sinh học
2.3.4.1. Điều kiện kỵ khí tuyệt đối
Quá trình lên men phân hủy một hợp chất hữu cơ trong hầm ủ phân đòi hỏi
điều kiện kỵ khí tuyệt đối. Sự có mặt của oxygen sẽ ảnh hƣởng lớn đến khả năng hoạt
động của vi sinh vật tạo khí làm cho quá trình tạo khí giảm đi hay ngừng hẳn.
2.3.4.2. Nhiệt độ
Nhiệt độ làm thay đổi lớn đến quá trình sinh gas trong hầm ủ. Sự tăng
trƣởng phát triển của nhóm vi khuẩn yếm khí rất nhạy cảm bởi nhiệt độ. Nhóm vi
khuẩn này hoạt động tối ƣu ở nhiệt độ 310C – 360C, dƣới 100C nhóm vi khuẩn này
hoạt động yếu, dẫn đến gas và áp lực gas sẽ yếu đi. Tuy nhiên, ở nhiệt độ trung bình
khoảng 20 – 300C cũng thuận lợi cho chúng hoạt động. Trong lúc đó, nhóm vi khuẩn
sinh khí methane lại rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ, nhiệt độ thay
đổi cho phép hàng ngày chỉ khoảng 10C (Ủy ban Khoa học kỹ thuật Đồng Nai, 1989).
Theo Burton, C.H và Turner (2003).
Khoảng nhiệt độ thích hợp cho vi sinh vật ƣa lạnh: 10 – 200C
Khoảng nhiệt độ thích hợp cho vi sinh vật ƣa nhiệt : 20 – 400C
Khoảng nhiệt độ thích hợp cho vi sinh vật ƣa nóng: 40 – 600C
2.3.4.3. pH
pH cũng góp phần quan trọng đối với hoạt động sống của vi khuẩn sinh khí
methane. Vi khuẩn sinh khí methane ở pH 4,5 – 5,0. Khi pH > 8 hay pH < 6 thì hoạt
động của nhóm vi khuẩn giảm nhanh (Nguyễn Thị Thủy, 1991). Theo Lê Hoàng Việt
14
(2000) khi pH giảm thấp dƣới 6 là do tích tụ quá độ các acid béo do hầm ủ bị nạp quá
tải hoặc do các độc tố trong nguyên liệu nạp đã ức chế hoạt động của vi khuẩn sinh
methane. Trong trƣờng hợp này, ngƣời ta lập tức ngƣng nạp cho hầm ủ để vi khuẩn
sinh methane sử dụng hết các acid thừa, khi hầm ủ đạt tốc độ sinh khi bình thƣờng trở
lại thì ngƣời ta mới nạp lại nguyên liệu cho hầm ủ theo đúng quy định. Ngoài ra ngƣời
ta có thể dùng vôi để trung hòa pH của hầm ủ.
2.3.4.4. Thời gian ủ
Lƣợng gas sinh ra sẽ phụ thuộc nhiều vào thời gian ủ dài hay ngắn, thời
gian ủ tùy thuộc vào đặc tính của nƣớc thải và nhiệt độ môi trƣờng, thời gian ủ phải
đƣợc kéo dài đủ để vi khuẩn kỵ khí phân hủy hoàn toàn các chất có trong nƣớc thải. Ở
cùng một nhiệt độ và tỷ lệ pha loãng chất dinh dƣỡng, khả năng sinh gas cao nhất với
thời gian ủ kéo dài từ 30 đến 40 ngày.
2.3.4.5. Hàm lƣợng chất rắn
Hàm lƣợng chất rắn dƣới 9% thì hoạt động của hầm ủ sẽ tốt. Hàm lƣợng
chất rắn ở khoảng 7 – 9%, khả năng sinh gas tốt hay xấu sẽ còn tuỳ thuộc vào nhiệt độ
môi trƣờng. Ở Việt Nam vào mùa khô, nhiệt độ cao, sự phân hủy tốt, sự sinh gas tốt
nên hàm lƣợng chất rắn trong hầm giảm, do đó cung cấp chất rắn cao hơn vào hầm ủ
là có thể chấp nhận đƣợc và ngƣợc lại.
2.3.4.6. Thành phần dinh dƣỡng
Để đảm bảo quá trình sinh khí bình thƣờng, liên tục thì phải cung cấp đầy
đủ nguyên liệu cho sự sinh trƣởng và phát triển của vi sinh vật. Thành phần chính của
nguyên liệu là C, N và nó nguồn cung cấp cần thiết cho sự tổng hợp amino acid,
protein và acid nucleic và cũng là nguồn dinh dƣỡng cần thiết cho sự phát triển của vi
sinh vật và giúp cho quá trình lên men nhanh hơn.
Bảng 2.5. Tỷ lệ C/N trong một số loại phân
Loại phân Tỷ lệ C/N
15
Để đảm bảo sự cân đối dinh dƣỡng cho hoạt động của vi sinh vật kỵ khí thì
cần chú ý đến tỷ lệ C/N (Bảng 2.5). Tỷ lệ thích hợp từ 25/1 đến 30/1 cho sự phân hủy
kỵ khí tốt (Ủy ban khoa học kỹ thuật Đồng Nai, 1989).
2.3.4.7. H2S
H2S có trong thành phần của dịch lên men, nếu ở nồng độ cao có thể tạo
thành chất độc đối với vi sinh vật và ức chế sự sinh khí methane và gây ra sự thay đổi
thành phần của khí methane. Điều này có thể phục hồi bằng cách loại bỏ H2S hoặc
pha loãng với nƣớc, trong trƣờng hợp nghiêm trọng phải khuấy mạnh để H2S ra khỏi
dịch phân. Sự hiện diện của H2S có thể ăn mòn kim loại: sắt, kẽm, quan trọng hơn là
sự ăn mòn những thiết bị chứa gas, thiết bị đo gas, vane… Ta có thể loại H2S bằng
cách bỏ vôi sống vào hầm nhƣng hạn chế đƣa vào những hầm có kích thƣớc lớn trong
thời gian dài vì nó tạo ra những mùi rất khó chịu và mùi này thì rất khó xử lý, nồng
độ CO2 càng cao thì quá trình loại bỏ H2S rất khó, lƣợng CO2 tác dụng với vôi sống sẽ
tạo thành Ca(HCO3)2. Phƣơng trình phản ứng diễn ra nhƣ sau
Ca(OH)2 + H2S = Ca(SH)2 + H2O
Nguồn: Marchaim, Uri. (1992)
2.3.4.8. Các chất gây trở ngại quá trình lên men
Vi khuẩn sinh methane dễ bị ảnh hƣởng bởi các độc tố và các hợp chất vô
cơ nhƣ: oxy, amonia, clo, hợp chất vòng benzen, formaldehyde, acid bay hơi, acid
béo, kim loại nặng… Khi hàm lƣợng các loại này có trong hầm ủ vƣợt quá một giới
hạn nhất định sẽ giết chết các vi khuẩn. Một số nghiên cứu đã cho thấy một số chất có
hàm lƣợng sau đây sẽ ức chế quá trình lên men của vi khuẩn kỵ khí.
2.3.4.9. Một số yếu tố khác
Trâu bò
Heo
Gà
Cừu
Ngựa
Ngƣời
25/1
13/1
5/1 – 10/1
29/1
24/1
2,9/1
16
Thể tích của hầm biogas. Yếu tố này có liên quan đến thời gian lƣu lại
của dịch phân ngắn hay dài và số lƣợng phân phù hợp với kích cở hầm.
Tổng thể tích phân nƣớc cho vào trong ngày và tỷ lệ phân nƣớc.
Từng loại phân khác nhau cho số lƣợng gas khác nhau.
Tỷ lệ phân nƣớc: dịch phân quá loãng thì lƣợng phân không đủ để phân
hủy, ngƣợc lại dịch phân quá cao sẽ tạo lớp váng trên bề mặt của hầm gây cản trở quá
trình sinh khí. Ngoài ra yếu tố nhiệt độ, pH, số lƣợng vi sinh vật cũng ảnh hƣởng lớn
đến khả năng tạo gas.
2.3.5. Vai trò của biogas trong sản xuất và đời sống
2.3.5.1. Cung cấp năng lƣợng
Khí đốt sinh học ra đời tạo ra một nguồn chất đốt mới, phục vụ nhu cầu nấu
nƣớng, thắp sáng và chạy động cơ đốt trong vừa sạch sẽ và tiết kiệm thời gian.
2.3.5.2. Hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trƣờng
Ô nhiễm môi trƣờng đã tăng theo sự phát triển công nghiệp trên thế giới. Ở
nƣớc ta có nhiều yếu tố tác động đến ô nhiễm môi trƣờng nhƣ kinh tế phát triển đã
làm ô nhiễm môi trƣờng và ảnh hƣởng đến sức khỏe cộng đồng, đô thị hóa gia tăng,
gia tăng dân số, nghèo đói, rừng tự nhiên bị tàn phá do nhu cầu năng lƣợng gia tăng...
Phát triển chăn nuôi đã tăng chất thải gia súc gia cầm. Để hạn chế ô nhiễm chất thải
chăn nuôi, thiết kế xử lý biogas là một trong những cách có thể chấp nhận đƣợc vì
Tạo nguồn nhiên liệu chất đốt hạn chế phá rừng.
Hạn chế các vi khuẩn gây bệnh trong phân. Khi chất đƣợc xử lý bằng
biogas, mùi hôi sẽ giảm, ký sinh trùng và vi khuẩn gây bệnh bị tiêu diệt đáng kể
(Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Đồng Nai, 1989).
Nƣớc thải sau khi qua biogas có thể sử dụng: để nuôi tảo, bèo làm thức
ăn cho gia súc gia cầm, làm nguồn phân bón tốt, hợp vệ sinh, là nguồn thức ăn của
động vật thủy sinh và giảm phát khí thải nhà kính.
Biogas có thể xem nhƣ một nhân tố kết nối quan trọng trong mô hình phát triển
nông nghiệp kết hợp vƣờn – ao – chuồng – biogas đƣợc trình bày qua sơ đồ 2.3.
Ngƣời,
Gia súc
Phân
Vƣờn cây
Nguồn năng
lƣợng làm
chất đốt
Sản phẩm nông
nghiệp
17
Sơ đồ 2.3. Mô hình V – A – C – B kết hợp (Nguyễn Viết Lập, 2001)
2.3.6. Một số hầm ủ biogas ở Việt Nam
2.3.6.1. Loại nắp trôi nổi
Hình 2.1. Mô hình thiết kế hầm xây nấp trôi nổi của Ấn độ
Nghiên cứu và thiết kế ở Ấn Độ, thƣờng là dạng tròn, xây chìm hẳn trong
lòng đất, vật liệu làm bằng gạch, xi măng, ống nạp nguyên liệu nối với buồng chứa
bùn ở gần dƣới đáy, phần đối diện là ống xả bùn. Khí sinh ra đƣợc giữ lại ở phía trong
phần nắp nổi, nắp này đa số chế tạo bằng thép dày. Hầm này rất hợp vệ sinh do bề mặt
chất thải tiếp xúc ít với môi trƣờng, hầm ít bị rò rỉ, dễ xây dựng nhƣng giá thành lại
cao, phải có kế hoạch bảo trì nhƣ sơn nắp trôi nổi để chống rỉ, với loại này thƣờng đạt
áp suất khoảng 100 – 150 mm Hg, nên không thể dùng để thắp sáng đƣợc.
2.3.6.2. Loại hầm nắp cố định
18
Nghiên cứu và thiết kế ở Trung Quốc. Loại hầm này phổ biến ở Việt Nam,
xây dựng nữa chìm nữa nổi hay nổi hẳn trên mặt đất. Kiểu thiết kế bê tông hình vòm,
gồm 2 bể. Bể phân hủy chính để lên men tạo gas, bể phụ để điều hòa áp lực nhƣ đƣợc
mô tả trong hình 2.2.
Vật liệu làm bằng gạch, xi măng. Phần trần đổ bằng bê tông, cốt thép. Bể ủ
dạng hình vuông, tròn, chữ nhật. Phần chứa khí nằm ngay trên trần bể. Kỹ thuật xây
hầm này đòi hỏi cao vì dễ bị rò rỉ, khó sửa chữa. Nhƣng giá thành lại thấp hơn hầm
nắp trôi nổi. Bề mặt chất thải tiếp xúc với môi trƣờng lớn nên vệ sinh kém. Áp lực khí
đạt khoảng 1000 mm Hg, nên ngoài đun nấu còn phục vụ thắp sáng, chạy động cơ...
Hình 2.2. Mô hình thiết kế hầm xây nắp cố định của Trung Quốc
2.3.6.3. Túi cao su và bao nylon
Túi cao su đƣợc nghiên cứu và thiết kế ở Đài Loan. Vật liệu làm bằng túi
cao su thiên nhiên. Đặc điểm là vệ sinh túi rất tốt do không tiếp xúc với môi trƣờng
bên ngoài, dễ khuấy trộn. Tuy nhiên dung tích túi nhỏ chỉ khoảng 1 – 3 m3 nên lƣợng
khí sinh ra phục vụ không đủ nhu cầu cho hộ gia đình. Từ lý do này, dựa trên căn bản
này hiện nay ngƣời ta đã thay thế sử dụng nylon rẻ tiền cho thiết kế hệ thống túi ủ
nylon đƣợc trình bày ở hình 2.3.
19
Hình 2.3. Mô hình thiết kế túi ủ nylon
2.3.7. Tình hình nghiên cứu hiện nay
Năm 1995, Phạm Văn Minh đã khảo sát việc sử dụng túi ủ khí sinh học
làm bằng plastic ở một số tỉnh miền Đông Nam bộ.
Năm 1997, Long Da đã tiến hành khảo sát khả năng ứng dụng và phát
triển túi ủ khí sinh học làm bằng nylon tại một số hộ dân ở vùng nƣớc nhiễm phèn,
mặn thuộc miền Tây Nam bộ.
Năm 1997, Đoàn Văn Nhựt đã khảo sát một số chỉ tiêu sản xuất từ túi
biogas làm bằng nylon.
Năm 1997, Phan Đức Quý đã khảo sát khả năng ứng dụng và phát triển túi
ủ khí sinh học làm bằng nylon tại một số hộ thuộc miền Đông Nam bộ.
Năm 2001, Nguyễn Viết Lập đã nghiên cứu ảnh hƣởng số lƣợng và thời
gian lƣu lại của phân trên khả năng sinh gas của hệ thống biogas thí nghiệm.
Năm 2004, Trần Quốc Thuận đã nghiên cứu chiều dài túi và thời gian lƣu
lại của phân trên khả năng sinh gas và xử lý chất thải chăn nuôi của hệ thống túi ủ
phân làm chất đốt.
Năm 2005, Nguyễn Trƣờng An đã nghiên cứu ảnh hƣởng thời gian lƣu lại,
và chất thải biogas lên khả năng sinh gas của túi ủ phân làm chất đốt.
20
Năm 2005, Dƣơng Nguyên Khang và Thomas Reg Preston đã nghiên cứu
ảnh hƣởng của chất thải biogas trên năng suất và thành phần hóa học của lá và củ mì.
Năm 2005, SanThy, Thomas Reg Preston, Dƣơng Nguyên Khang,
Bounthong Bouahom và Choke Mikled đã nghiên cứu ảnh hƣởng của tỷ lệ chiều
dài/đƣờng kính của túi ủ phân làm chất đốt trên năng suất và thành phần hóa học của
chất thải sau khi qua biogas.
Năm 2006, Nguyễn Thị Thu Minh đã nghiên cứu đánh giá mức độ ô
nhiễm môi trƣờng nƣớc mặt và hiệu quả của một số mô hình xử lý nƣớc thải chăn
nuôi heo ở nông hộ.
21
PHẦN 3: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP KHẢO SÁT
3.1. Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài
3.1.1. Thời gian
Đề tài đƣợc tiến hành từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2006
3.1.2. Địa điểm
Đề tài đƣợc bố trí thực hiện ở hai địa điểm khác nhau
Trại bò sữa thực nghiệm thuộc trung tâm chuyển giao Khoa Học và Công
nghệ Trƣờng Đại Học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh.
Tại nông hộ chăn nuôi bò của bà: Nguyễn Thị Mỹ Đức, 20/34 đƣờng Bình
Chiểu, tổ 2, khu phố 3, Phƣờng Bình Chiểu, Quận Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh.
3.1.3. Đối tƣợng khảo sát
Đối tƣợng khảo sát là 2 hầm xây cố định kiểu thiết kế KT1 của Trung Quốc
đƣợc xây dựng tại trƣờng có thể tích 6 m3 và tại hộ nông dân có thể tích là 10 m3, với
mục đích khảo sát xem ảnh hƣởng của nồng độ và thời gian lƣu lại của phân bò trên
khả năng sinh gas của hệ thống hầm xây này. Hầm xây biogas đƣợc thiết kế theo tài
liệu hƣớng dẫn kỹ thuật của Nguyễn Quang Khải và Nguyễn Vũ Thuận (2004).
3.2. Vật liệu
Phân bò đƣợc thu gom từ trại nuôi trùng quế Trƣờng Đại Học Nông Lâm
Dụng cụ, thiết bị thực hiện thí nghiệm
Xô nhựa có dung tích 15 lít, thùng nhựa lớn: 6 thùng
Túi nylon có đƣờng kính 0,8 và 0,78 m
Tre ,dây kẽm, dây nylon, gạch, bao tay
Ống dẫn gas, vane kín, bình nhựa 1 lít, bếp gas
Cân với trọng lƣợng 30 kg và 100 kg
Các thiết bị phân tích các chỉ tiêu lý hóa
Máy đo pH hiệu model 230A
Bộ phân tích Kjeldahl, cân điện tử có sai số 0,001
Lọ nút mài 125 ml, bình chƣng cất, bình tam giác 250 ml, ống đong
Máy microwave
22
3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
3.3.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm đƣợc bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên 1 yếu tố có 3 nghiệm
thức là nồng độ khác nhau của phân bò cho vào hầm xây biogas (3, 4 và 5% vật chất
khô) và khoảng thời gian lƣu lại khác nhau của phân (10 hoặc 20 ngày).
Nồng độ phân cho vào các hầm biogas đƣợc tiến hành nhƣ sau: phân bò thu
gom hàng ngày, cho vào xô trộn đều, lấy mẫu đem xác định vật chất khô. Dựa vào kết
quả vật chất khô đã phân tích, chúng tôi tiến hành pha loãng phân theo đúng tỷ lệ ở
nồng độ 3 và 5% vật chất khô của yếu tố thí nghiệm rồi cho vào hầm biogas. Tại nông
hộ, chúng tôi tiến hành ghi nhận lƣợng phân nƣớc hàng ngày trung bình cho vào hầm
biogas. Sau đó lấy mẫu xác định vật chất khô của phân. Dựa vào kết quả lƣợng nƣớc,
lƣợng phân và vật chất khô trung bình cho vào hàng ngày của hầm xây. Kết quả đƣợc
trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Thông số bố trí thí nghiệm
__________________________________________________________________
Hầm ủ biogas B1 B2 B3
__________________________________________________________________
Nồng độ phân cho vào (%) 3 4 5
Thời gian lƣu giữ phân (ngày) 20 10 20
Vật chất khô trung bình của phân bò (%) 22 18 22
__________________________________________________________________
Phân và nƣớc cho vào hầm hàng ngày B1 B2 B3
__________________________________________________________________
Thể tích hầm (m3) 6 10 6
Phần trăm thể tích dịch phân trong hầm biogas (%) 75 75 75
Thể tích dịch phân (m3) 4,5 7,5 4,5
Phân, nƣớc cho vào (lít/ngày) 225 1285 225
Phân tƣơi (kg/ngày) 30 80 50
Nƣớc (lít/ngày) 195 1205 175
_________________________________________________________________
23
3.3.2. Qui trình thí nghiệm
3.3.2.1. Lấy mẫu
Mẫu khảo sát là các mẫu tại đầu vào và đầu ra của hầm biogas. Mẫu phân,
phân pha loãng ở đầu vào, chất thải ở đầu ra đƣợc lấy theo lịch qui định nhƣ sau:
Đối với mẫu phân chúng tôi tiến hành trộn đều, lấy mẫu hằng ngày,
trong thời gian 5 ngày, dự trữ ở nhiệt độ đông lạnh, sau đó rã đông, trộn đều các mẫu
của 5 ngày này và phân tích các chỉ tiêu khảo sát.
Đối với mẫu chất thải ra sau biogas chúng tôi tiến hành trộn đều, lấy
mẫu cách 5 ngày một lần và phân tích các chỉ tiêu khảo sát. Các mẫu phân pha loãng
và mẫu đầu ra đƣợc trộn đều và lấy ngẫu nhiên theo nguyên tắc trộn đều sau 24 giờ
nạp dịch phân vào hầm biogas. Đối với mẫu phân đầu vào chúng tôi tiến hành trộn
đều và pha theo tỷ lệ phân nƣớc ở 3 hoặc 5% vật chất khô đã đƣợc qui định theo
nghiệm thức. Đối với mẫu phân đầu vào ở nông hộ chúng tôi tiến hành lấy mẫu ở hố
lắng cát trong thời gian rửa chuồng. Mẫu đƣợc lấy cách nhau 10 phút, mỗi đợt lấy 2
lít, cho vào thùng chứa trong suốt thời gian rửa chuồng. Sau đó trộn đều nƣớc rửa
chuồng này, lấy 2 lít cho một lần lấy mẫu. Tiến hành lấy 3 lần/ngày tƣơng ứng với
thời gian nông hộ rửa chuồng.
Mẫu sau khi lấy sẽ đƣợc xét nghiệm ngay sau khi đƣa về phòng thí
nghiệm hay giữ mẫu ở nhiệt độ 4 – 100C trong 24 giờ.
3.3.2.2. Thời gian khảo sát
Chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn làm quen là 20 ngày để hệ thống biogas
hoạt động ổn định, giai đoạn khảo sát là 20 ngày kế tiếp để ghi nhận kết quả thực sự
của các nghiệm thức.
3.3.2.3. Chỉ tiêu khảo sát
Lƣợng gas sinh ra
+ Trại thí nghiệm: Lƣợng gas sinh ra trong ngày đo bằng hệ thống
bình gas thay thế nƣớc, đƣợc làm bằng túi nylon kín có đƣờng kính là 0,5 m; đầu dƣới
đƣợc phủ kín bằng nƣớc chứa trong thùng kín, đầu trên nối trực tiếp với hệ thống hầm
biogas thí nghiệm qua hệ thống vane kín. Tiến hành đo 4 lần trong ngày để có trị số
sinh gas tổng cộng.
24
+ Tại hộ nông dân: Lƣợng gas sinh ra trong ngày đo bằng hệ thống
bình gas đƣợc làm bằng nylon có đƣờng kính 0,78 m và chiều dài 4,7 m, một đầu
đƣợc nối với hệ thống hầm biogas qua hệ thống vane kín và một đầu đƣợc giữ kín.
Tiến hành đo khi túi nylon này căng tròn đều.
Hình 3.1. Hệ thống đo gas tại trƣờng Hình 3.2. Hệ thống đo gas tại nông hộ
pH
Phƣơng pháp đo: sử dụng máy pH kế hiệu model 230A. Trƣớc khi đo
pH của mẫu chất thải, pH của máy đƣợc chuẩn bằng dung dịch chuẩn pH = 7 và 10.
Vật chất khô
Vật chất khô đƣợc đo bằng microwave.
Amoniac
NH3 trong chất thải đƣợc xác định bằng phƣơng pháp Kjeldahl.
Đạm tổng số
Đạm tổng số trong phân đƣợc xác định bằng phƣơng pháp Kjeldahl.
COD
COD đƣợc đo bằng phƣơng pháp hóa học dựa trên sự chuyển đổi chất
chỉ thị màu K2Cr2O7.
3.3.2.4 Xử lý số liệu
Số liệu đƣợc xử lý bằng phần mềm Excel và Minitab 13.31.
25
PHẦN 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện nhiệt độ
Thí nghiệm đƣợc thực hiện trong điều kiện nhiệt độ đƣợc trình bày ở biểu đồ 4.1.
30
31
32
33
34
35
tháng 2 tháng 3 tháng 4 tháng 5
Nh
iệ
t đ
ộ
(đ
ộ
C)
Nguồn: (2006)
Biểu đồ 4.1. Nhiệt độ môi trƣờng thí nghiệm
Biểu đồ 4.1 cho thấy nhiệt độ môi trƣờng biến thiên ít trong thời gian tiến hành
thí nghiệm. Điều này giúp cho hệ thống hầm ủ phân sinh gas trong thí nghiệm đƣợc ổn
định, thuận lợi cho nghiên cứu, yếu tố khảo sát ít chịu ảnh hƣởng bởi nhiệt độ môi
trƣờng bên ngoài.
Nhiệt độ làm thay đổi lớn đến quá trình sinh gas trong hầm ủ. Sự tăng trƣởng và
phát triển của vi khuẩn lên men yếm khí rất nhạy cảm với nhiệt độ. Vi khuẩn hoạt
động tối ƣu ở nhiệt độ 31 – 360C, dƣới 100C vi khuẩn hoạt động yếu, dẫn đến năng
suất và áp lực gas thấp. Ở nhiệt độ trung bình khoảng 20 – 300C cũng thuận lợi cho vi
khuẩn sinh gas hoạt động. Tuy nhiên đối với nhóm vi khuẩn sinh khí methane thì rất
nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ. Nhiệt độ thay đổi cho phép hàng ngày
khoảng 10C thì vi khuẩn sinh methane hoạt động tốt. Trong thí nghiệm của chúng tôi
biến thiên nhiệt độ là 20C trong suốt thời gian khảo sát là tƣơng đối tốt cho hoạt động
sinh khí methane. Vì vậy, khi nhiệt độ ổn định thì nhiệt độ trong hầm ủ sẽ ổn định để
lƣợng khí methane sinh ra nhiều nhất (Ủy ban Khoa học kỹ thuật Đồng Nai, 1989).
26
4.2. Vật chất khô của phân cho vào và chất thải đầu ra
Kết quả đƣợc trình bày ở bảng 4.1 cho thấy vật chất khô trung bình của chất thải
đầu ra sau khi qua ba hầm biogas là 0,28%; giảm 92,9% so với vật chất khô của phân
cho vào. Vật chất khô của chất thải đầu ra của ba hầm tƣơng ứng với nồng độ vật chất
khô cho vào 3, 4 và 5% lần lƣợt là 0,26; 0,29 và 0,30%; dao động ít (P>0,05).
Bảng 4.1. Vật chất khô của phân cho vào và chất thải đầu ra
Vật chất khô (%)
Nghiệm thức
SEM P
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Đầu vào
Đầu ra
3,00
a
4,00
b
5,00
c
0,07 0,001
0,26
a
0,29
a
0,30
a
0,01 0,188
0.00
1.00
2.00
3.0
4.00
5. 0
6.00
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
V
ật
c
hấ
t k
hô
(%
)
VCK vào
VCK ra
Biểu đồ 4.2. VCK của phân cho vào và chất thải đầu ra
Kết quả khảo sát về vật chất khô của chất thải đầu ra của chúng tôi thấp hơn so
với một số tác giả đã khảo sát trƣớc đó
San Thy và cộng tác viên (2003) đã ghi nhận rằng vật chất khô chất thải đầu
ra là 1,55; 3,06 và 4,60%; giảm trung bình 22,7% so với vật chất khô phân heo cho
vào ứng với thời gian lƣu lại của phân 10, 20 và 30 ngày với nồng độ phân cho vào
túi ủ là 5% vật chất khô.
27
Nguyễn Trƣờng An (2005) đã khảo sát ở nồng độ vật chất khô của phân heo
cho vào 4% đã thấy rằng vật chất khô đầu ra là 2,55 và 3,81%; giảm trung bình 90%
so với vật chất khô phân heo cho vào ứng với thời gian lƣu lại 10 và 20 ngày. Nguyên
nhân vật chất khô đầu ra của các tác giả khảo sát cao hơn các tác giả khác là do tác giả
đã sử dụng nƣớc thải đầu ra để cho trở lại hệ thống túi ủ.
Điều này là do chúng tôi thí nghiệm trên các hầm biogas nên khả năng phân hủy
tốt hơn nên vật chất khô đầu ra rất thấp.
4.3. pH của phân cho vào và chất thải đầu ra
Bảng 4.2. pH của phân cho vào và chất thải đầu ra
pH
Nghiệm thức
SEM P
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Đầu vào
Đầu ra
6,87
a
6,89
a
6,97
b
0,006 0,001
6,52
a
6,77
b
6,45
c
0,005 0,001
6
6.2
6.4
6.6
6.8
7
7.2
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
pH
pH đầu vào
pH đầu ra
Biểu đồ 4.3. pH của phân cho vào và chất thải đầu ra
Bảng 4.2 cho thấy pH đầu vào tăng dần theo nồng độ vật chất khô phân cho vào
(P<0,001). Theo Ngô Kế Sƣơng (1981), pH ở từng giai đoạn trong hầm ủ biogas khác
nhau, giai đoạn đầu của quá trình ủ phân pH hơi acid do tạo thành các acid hữu cơ
hoặc CO2… nhƣng sau đó các acid hữu cơ phân hủy tiếp tục tạo nên khí sinh học,
riêng CO2 một phần bị giữ lại trong dịch phân do các ion Ca
2+
, Mg
2+… nên pH ở đầu
28
ra trở nên trung tính hay hơi kiềm. Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy pH đầu ra
của hầm ủ giảm dần từ 6,52 xuống 6,45 theo nồng độ vật chất khô cho vào 3 và 5%.
pH giảm là do tích tụ quá nhiều acid béo bay hơi có lẽ do hầm ủ nạp nhiều phân (Lê
Hoàng Việt, 2006). Ở hầm ủ cho vào 4% nồng độ vật chất khô thì pH đầu ra cao nhất
có lẽ do tốc độ dòng chảy lớn và thời gian lƣu lại ngắn nên sự tạo thành acid béo bay
hơi thấp.
Đối với việc sử dụng phân bò cho vào hệ thống túi ủ biogas kết quả của
chúng tôi tƣơng đƣơng với khảo sát của Bùi Phan Thu Hằng (2003). Tác giả đã cho
thấy rằng pH trung bình đầu ra là 6,59 thấp hơn so với pH phân cho vào là 6,69.
Đối với việc sử dụng phân heo cho vào hệ thống túi ủ Nguyễn Viết Lập
(2001) cho thấy rằng pH đầu ra là 7,3 cao hơn so với pH phân cho vào là 7,2. Nguyễn
Thành Quốc (2000), tác giả đã cho thấy rằng pH của phân đầu vào là 6,4 tăng lên 6,7
trong chất thải đầu ra. Nguyễn Trƣờng An (2005) cho rằng pH đầu ra là 7,13 và 7,15
tăng so với pH đầu vào 7,05 ứng với thời gian lƣu lại 10 và 20 ngày.
4.4. Đạm tổng số của phân cho vào và chất thải đầu ra
Kết quả đƣợc trình bày qua bảng 4.3. Bảng 4.3 cho thấy đạm tổng số đầu vào
tăng theo nồng độ vật chất khô (P<0,001), đạm tổng số chất thải đầu ra sau khi qua ba
hầm biogas trung bình là 213 mg/l; giảm 61% so với đạm tổng số phân cho vào.
Nguyên nhân giảm đạm tổng số đầu ra là do việc pha loãng phân và biến dƣỡng cơ
chất của vi sinh trong hệ thống hầm ủ. Điều này cho thấy rằng lƣợng đạm tổng số cho
vào hầm biogas đã đƣợc vi sinh vật sử dụng biến dƣỡng để tạo ra các sản phẩm trung
gian (Nguyễn Trƣờng An, 2005). Đạm tổng số đầu ra tăng theo nồng độ vật chất khô
(P<0,001), với nồng độ vật chất khô cho vào 4% thì lƣợng đạm tổng số đầu ra cao
hơn so với nồng độ vật chất khô cho vào 5%. Nguyên nhân có thể do tốc độ dòng
chảy cao và thời gian lƣu lại ngắn hơn nên khả năng xử lý yếu hơn.
Bảng 4.3. Đạm tổng số của phân cho vào và chất thải đầu ra
Đạm tổng số
mg/l
Nghiệm thức
SEM P
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Đầu vào
Đầu ra
335
a
580
b
724
c
30,8 0,001
139
a
256
b
245
b
11,5 0,001
29
0
200
400
600
800
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
Đạ
m
tổ
ng
s
ố
(m
g/
l)
Đạm tổng số đầu
vào
Đạm tổng số đầu
ra
Biểu đồ 4.4. Đạm tổng số của phân cho vào và chất thải đầu ra
So với một số nghiên cứu trƣớc đó đã cho thấy
Bùi Phan Thu Hằng (2003) thí nghiệm trên phân bò đã ghi nhận lƣợng đạm
tổng số trung bình trong chất thải đầu ra của túi ủ phân là 967 mg/kg; giảm 38% so
với đạm tổng số phân cho vào với thời gian lƣu lại 20 ngày và nồng độ vật chất khô
cho vào 4%.
San Thy và cộng tác viên (2005) đã ghi nhận lƣợng đạm tổng số trong chất thải đầu ra
của túi ủ phân là 1262 và 1875 mg/l tƣơng ứng với thời gian lƣu lại của phân lần lƣợt
là 10 và 20 ngày.
Kết quả khảo sát của chúng tôi thấp hơn so với kết quả khảo sát của các tác giả
này (Bảng 4.3). Điều này có lẽ là do các tác giả này thí nghiệm trên đối tƣợng phân
heo và trên túi ủ nên khả năng xử lý của hệ thống túi ủ kém hơn hầm xây.
4.5. Hàm lƣợng amoniac của phân cho vào và chất thải đầu ra
Kết quả đƣợc trình bày qua bảng 4.3 cho thấy hàm lƣợng amoniac đầu ra với
nồng độ vật chất khô cho vào 4% là thấp nhất 176 mg/kg. Hàm lƣợng amoniac trung
bình chất thải đầu ra qua ba hầm là 205 mg/kg; giảm 15,7% so với amoniac của phân
cho vào.
Ở nồng độ phân cho vào 4% hàm lƣợng amoniac đầu ra thấp nhất 176 mg/kg là
do vi sinh vật sử dụng để tổng hợp protein của chúng trong hoạt động lên men
(Dƣơng Nguyên Khang, 2004) cũng nhƣ việc pha loãng phân cho vào với nƣớc
30
(Nguyễn Trƣờng An, 2005). Ở nồng độ vật chất khô cho vào 5% thì hàm lƣợng
amoniac đầu ra cao nhất là 221 mg/kg. Hàm lƣợng amoniac của chất thải đầu ra ứng
với nồng độ vất chất khô cho vào càng cao thì hàm lƣợng amoniac đầu ra càng
cao (P<0,001).
Bảng 4.4. Hàm lƣợng amoniac của phân cho vào và chất thải đầu ra
Biểu đồ 4.5. Hàm lƣợng amoniac của phân cho vào và chất thải đầu ra
So với một số nghiên cứu trƣớc, kết quả cho thấy
Bùi Phan Thu Hằng (2003) đã ghi nhận hàm lƣợng amoniac trong chất thải
đầu ra của túi ủ phân là 392 mg/kg tăng trung bình 8% so với amoniac phân bò cho
vào với thời gian lƣu 20 ngày và vật chất khô cho vào túi ủ 4%.
San Thy và cộng tác viên (2003) đã ghi nhận rằng hàm lƣợng amoniac trong
chất thải đầu ra của túi ủ phân 340, 633 và 884 mg/l theo thời gian lƣu lại của phân
lần lƣợt là 10, 20 và 30 ngày.
Amoniac (mg/kg)
Nghiệm thức
SEM P
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Đầu vào
Đầu ra
241
a
213
b
275
c
6,32 0,001
217
a
176
b
221
a
4,78 0,001
0
50
100
150
200
250
300
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
A
m
on
ia
c
(m
g/
kg
)
Amoniac vào
Amoniac ra
31
San Thy và cộng tác viên (2005) đã ghi nhận amoniac trong chất thải đầu ra
của túi ủ phân là 619 và 1139 mg/l tƣơng ứng với thời gian lƣu lại của phân lần lƣợt là
10 và 20 ngày.
Kết quả hàm lƣợng amoniac đầu ra của chúng tôi thấp hơn kết quả khảo sát của
các tác giả trên có thể là do thí nghiệm đƣợc thực hiện trong điều kiện khảo sát khác
nhau. Đối tƣợng khảo sát của chúng tôi là phân bò trên hệ thống hầm xây nên có thể
khả năng phân hủy tốt hơn.
4.6. COD của phân cho vào và chất thải đầu ra
Bảng 4.5. Hàm lƣợng COD của phân cho vào và chất thải đầu ra
COD (mg O2/l)
Nghiệm thức
SEM P
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Đầu vào
Đầu ra
16800
a
16908
a
21099
b
578 0,001
1078
a
7440
b
5865
c
321 0,001
0
5000
10000
15 0
20000
25000
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
CO
D
(m
g
O
2/
l)
COD vào
COD ra
Biểu đồ 4.6. Hàm lƣợng COD của phân cho vào và chất thải đầu ra
Bảng 4.5 cho thấy COD đầu vào tăng theo hàm lƣợng vật chất khô cho vào
(P<0,001). Hàm lƣợng COD đầu ra trung bình giảm đáng kể qua ba hầm biogas là
4794 mg O2/l, giảm 74% so với hàm lƣợng COD của phân cho vào. Trong thí nghiệm
tại trại thực nghiệm Trƣờng Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh hàm lƣợng
COD đầu ra của hai hầm ủ là 1078 và 5865 mg O2/l ứng với nồng độ vật chất khô cho
32
vào là 3 và 5% (P<0,001). Điều đó cho thấy nếu nồng độ vật chất khô cho vào càng
nhiều thì hàm lƣợng COD ở đầu ra càng cao. Trong khi đó, thí nghiệm tại hộ chăn
nuôi bò sữa hàm lƣợng COD đầu ra cao hơn là 7440 mg O2/l, có lẽ do tốc độ dòng
chảy nhanh và thời gian lƣu lại ngắn nên khả năng xử lý phân thấp hơn.
Phân gia súc chứa protein, lipid, carbonhydrate… Qua quá trình lên men yếm khí
trong hầm ủ các chất này sẽ bị phân hủy tạo ra các chất hòa tan đồng thời sinh ra hỗn
hợp khí CH4, CO2 và H2… do đó hàm lƣợng chất hữu cơ giảm đáng kể trong quá trình
ủ (Nguyễn Thành Quốc, 2000). Tuy nhiên kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy
hàm lƣợng COD đầu ra cao (trung bình 4794 mg O2/l ) so với tiêu chuẩn Việt Nam
(TCVN 5992 – 1995) là 100 mg O2/l đến 400 mg O2/l, có lẽ một phần chất hữu cơ
trong phân có kết cấu phức tạp khó phân hủy nhƣ: cellulose, lignin hoặc do thời gian
ủ còn ngắn (Dƣơng Nguyên Khang, 2004).
Martin và cộng tác viên (2003) cho thấy hàm lƣợng COD đầu ra là
89,1 mg O2/l; giảm 42% so với hàm lƣợng COD của phân bò cho vào.
Nguyễn Viết Lập (2001) cho thấy với thời gian lƣu trữ 10, 20, 30 và 40 ngày
thì lần lƣợt là 191, 179, 177 và 137 mg O2/l; giảm 73% so với hàm lƣợng COD phân
heo cho vào. Thời gian lƣu lại càng lâu thì hàm lƣợng COD càng giảm.
Nguyễn Thành Quốc (2000) đã khảo sát với nồng độ vật chất khô 3, 4, 5
và 6% đã thấy rằng COD của phân đầu ra lần lƣợt là 352,6; 357,1; 514,5 và
542,9 mg O2/l; giảm 59% so với COD của phân heo cho vào.
Khác biệt này có lẽ do phƣơng pháp phân tích COD trong thí nghiệm của chúng
tôi đƣợc dùng là phƣơng pháp K2Cr2O7 vì vậy khả năng oxy hóa hoàn toàn các chất
hữu cơ tốt hơn so với phƣơng pháp KMnO4 mà các tác giả đã sử dụng phân tích.
Ngoài ra do thời gian lƣu lại của phân ngắn nên khả năng xử lý chất thải trong hệ
thống hầm ủ chƣa hoàn toàn dẫn đến hàm lƣợng COD đầu ra của chúng tôi cao.
4.7. Gas sinh ra
Lƣợng gas sinh ra, lít gas sinh ra tính theo thể tích hầm, kg vật chất khô, kg chất
hữu cơ và phần trăm luợng gas sinh ra trên thể tích hầm đƣợc trình bày qua bảng 4.6.
Kết quả cho thấy lƣợng gas sinh ra, lƣợng gas sinh ra theo thể tích hầm và phần trăm
tăng theo nồng độ vật chất khô (P<0,001). Lƣợng gas sinh ra theo vật chất khô, lƣợng
gas sinh ra theo chất hữu cơ cao nhất ở nồng độ vật chất khô cho vào 3% và thấp nhất
33
ở nồng độ vật chất khô cho vào 4%.
Bảng 4.6. Lƣợng gas sinh ra
Chỉ tiêu
Nghiệm thức
SEM P
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Năng suất gas
(lít/ngày)
1524
a
3250
b
2389
c
53,7 0,001
Gas sinh ra theo thể tích
(lít gas/lít hầm)
0,30
a
0,40
b
0,48
c
0,01 0,001
Gas sinh ra theo VCK
(lít gas/kg VCK)
101
a
81
b
95
a
3,01 0,001
Gas sinh ra theo CHC
(lít gas/kg CHC)
124
a
99
b
117
a
4,13 0,001
Lƣợng gas sinh ra (%) 30,5a 40,6b 47,8c 1,01 0,001
0
0.1
0.2
0.3
0.
0.5
.6
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
Ga
s s
in
h
ra
th
eo
th
ể
tíc
h
(lí
t g
as
/lí
t h
ầm
)
Biểu đồ 4.7. Lƣợng gas sinh ra theo thể tích
Biểu đồ 4.7 cho thấy lƣợng gas sinh ra theo thể tích hầm tăng theo nồng độ vật
chất khô cho vào (P<0,001). Điều này có lẽ do thể tích hầm càng lớn thì khả năng hoạt
động của vi khuẩn sinh methane càng mạnh dẫn tới sản lƣợng gas sinh ra càng cao.
Điều này phù hợp với nghiên cứu của Bùi Phan Thu Hằng (2003) thí nghiệm trên phân
bò, tác giả này cho rằng lƣợng gas sinh ra tăng 0,17; 0,20 và 0,28 lít gas/lít túi tƣơng
ứng với thể tích 477, 716, 1194 lít túi với nồng độ vật chất khô cho vào là 4%.
Santhy và cộng tác viên (2003) cho rằng gas sinh ra theo thể tích là 1,03; 1,20 và
1,06 lít gas/lít túi theo thời gian lƣu lại của phân 10, 20 và 30 ngày với nồng độ vật
34
chất khô phân heo cho vào 5%. Nguyễn Trƣờng An (2005) đã ghi nhận lƣợng gas sinh
ra tăng theo thể tích là 0,93 và 1,01 lít gas/lít túi với thời gian lƣu lại của phân 10 và
20 ngày với nồng độ vật chất khô phân heo cho vào 4%. Kết quả của các tác giả đã thí
nghiệm trên phân heo chứng minh rằng khả năng sinh gas của phân heo là cao hơn so
với phân bò (Dƣơng Nguyên Khang, 2004).
0
20
40
60
80
100
120
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
G
as
s
in
h
ra
th
eo
V
CK
(lí
t g
as
/k
g
VC
K)
Biểu đồ 4.8. Lƣợng gas sinh ra theo vật chất khô
Qua biểu đồ 4.8 chúng tôi nhận thấy, lƣợng gas sinh ra theo vật chất khô thấp
nhất là 81 lít ở nồng độ vật chất khô 4% và cao nhất là 101 lít ở nồng độ vật chất
khô 3% (P< 0,001).
Lƣợng gas sinh ra giảm dần theo chiều tăng dần từ 3% đến 5% nồng độ vật chất
khô phân bò cho vào. Điều này có lẽ do nồng độ vật chất khô càng cao thì lƣợng phân
cho vào hầm hàng ngày lớn làm cho hầm ủ quá tải dẫn đến ức chế hoạt động của vi
khuẩn sinh methane (Nguyễn Thị Thu Minh, 2006). Ở nồng độ vật chất khô phân bò
cho vào 4% thì lƣợng gas sinh ra thấp nhất 81 lít gas/kg VCK, có thể là do tốc độ dòng
chảy lớn và thời gian lƣu lại ngắn nên khả năng phân hủy kém dẫn đến lƣợng gas sinh
ra thấp.
Bùi Phan Thu Hằng (2003) thí nghiệm trên phân bò đã ghi nhận lƣợng gas
sinh ra theo vật chất khô trung bình là 60,6 lít gas/kg VCK với nồng độ vật chất khô
phân bò cho vào là 4%.
35
San Thy và cộng tác viên (2003) đã ghi nhận rằng gas sinh ra trên vật chất
khô phân heo cho vào tăng là 464, 529 và 485 lít ứng với thời gian lƣu lại 10, 20 và
30 ngày và nồng độ vật chất khô phân heo cho vào 5%.
Nguyễn Trƣờng An (2005) thấy rằng lƣợng gas sinh ra theo vật chất khô tăng
là 248 và 259 lít gas/kg VCK ứng với thời gian lƣu lại 10 và 20 ngày và nồng độ vật
chất khô phân heo cho vào 4%.
0
50
100
150
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
Ga
s
th
eo
c
hấ
t h
ữu
c
ơ
(lí
t g
as
/k
g
CH
C)
Biểu đồ 4.9. Lƣợng gas sinh ra theo chất hữu cơ
Biểu đồ 4.9 cho thấy, lƣợng gas sinh ra theo chất hữu cơ thấp nhất
là 99 lít gas/kg CHC ở nồng độ 4% vật chất khô cho vào và cao nhất là
124 lít gas/kg CHC ở nồng độ 3% vật chất khô cho vào (P< 0,001).
Lƣợng gas sinh ra trên chất hữu cơ giảm dần theo chiều tăng dần từ 3% đến 5%
nồng độ vật chất khô. Ở nồng độ vật chất khô phân cho vào 4% thì lƣợng gas sinh ra
thấp nhất 99 lít gas/kg CHC. Điều này là do nồng độ vật chất khô càng thấp thì hàm
lƣợng chất hữu cơ càng thấp và thời gian lƣu lại ngắn nên khả năng phân hủy chất hữu
cơ kém dẫn đến lƣợng gas sinh ra thấp.
Bùi Phan Thu Hằng (2003) thí nghiệm trên phân bò, tác giả cho thấy rằng
lƣợng gas sinh ra theo chất hữu cơ trung bình 85,5 lít gas/kg CHC với nồng độ vật chất
khô cho vào là 4%.
San Thy và cộng tác viên (2003), các tác giả đã ghi nhận rằng gas sinh ra theo
chất hữu cơ là 545, 622 và 570 lít gas/kg CHC ứng với thời gian lƣu lại 10, 20 và
30 ngày và nồng độ vật chất khô phân heo cho vào là 5%.
36
Nguyễn Trƣờng An (2005) đã ghi nhận lƣợng gas sinh ra theo chất hữu cơ là
330 và 357 lít gas/kg CHC ứng với thời gian lƣu lại 10 và 20 ngày và nồng độ vật chất
khô phân heo cho vào là 4%.
0
10
20
30
40
50
60
C3RT20 C4RT10 C5RT20
Nồng độ (%)
Ga
s
si
nh
ra
th
eo
%
Biểu đồ 4.10. Lƣợng gas sinh ra theo phần trăm thể tích hầm ủ
Biểu đồ 4.10 cho thấy, lƣợng gas sinh ra theo phần trăm thể tích hầm ủ tăng theo
nồng độ vật chất khô phân cho vào (P<0,001). Điều này có lẽ do thể tích hầm càng lớn
thì khả năng hoạt động của vi khuẩn sinh methane càng mạnh dẫn tới sản lƣợng gas
sinh ra càng cao. Trong lúc đó Bùi Phan Thu Hằng (2003) đã ghi nhận lƣợng gas sinh
ra theo phần trăm tăng lần lƣợt 16,7; 20,1 và 27,8% tƣơng ứng với thể tích 477, 716 và
1194 lít túi và nồng độ vật chất khô phân bò cho vào 4%.
37
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Qua quá trình thực hiện đề tài: “Ảnh hƣởng nồng độ phân bò lên khả năng sinh
gas của hầm ủ kiểu KT1 Trung Quốc” chúng tôi rút ra kết luận nhƣ sau:
Đạm tổng số của chất thải đầu ra giảm trung bình 61% so với đạm tổng số
của phân cho vào.
Hàm lƣợng amoniac của chất thải đầu ra giảm trung bình 15,7% so với hàm
lƣợng amoniac của phân cho vào.
Kết quả cho thấy lƣợng gas sinh ra, lƣợng gas sinh ra theo thể tích hầm và
theo % tăng theo nồng độ vật chất khô. Lƣợng gas sinh ra theo vật chất khô, theo chất
hữu cơ cao nhất ở nồng độ vật chất khô 3% và thấp nhất ở nồng độ 4%.
COD ở đầu ra giảm trung bình 74% so với phân cho vào.
Xét toàn diện, ở nồng độ vật chất khô 3% với thời gian lƣu lại phân 20 ngày
thì khả năng xử lý phân và sinh gas tốt nhất.
5.2. Đề nghị
Nên sử dụng nồng độ vật chất khô 3% cho vào hầm biogas.
Nên kéo dài thời gian lƣu lại của phân trong hệ thống ủ phân để xử lý chất
thải chăn nuôi đƣợc tốt hơn cho đạt với tiêu chuẩn vệ sinh môi trƣờng.
Nếu có điều kiện, tăng cƣờng nghiên cứu định danh phân lập, ly trích các
nhóm vi khuẩn có khả năng lên men sinh gas tốt trong hệ thống hầm ủ phân làm chất
đốt để ứng dụng vào việc xử lý môi trƣờng tốt hơn.
Tiến hành nghiên cứu sử dụng gas sinh học trong chạy động cơ nổ, đồng thời
nghiên cứu để loại bỏ các tạp chất trong khí biogas để tăng hiệu quả sử dụng.
38
PHẦN 6: TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần tiếng Việt
1. Bùi Xuân An, 1997. Sản xuất thức ăn gia súc nhiệt đới. Tủ sách Trƣờng Đại Học
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Trƣờng An, 2005. Ảnh hưởng thời gian lưu lại, và chất thải biogas lên
khả năng sinh gas của túi ủ phân làm chất đốt. Luận Văn tốt nghiệp
Trƣờng Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
3. Long Da, 1997. Bước đầu khảo sát khả năng ứng dụng và phát triển túi ủ khí
sinh học làm bằng nylon tại một số hộ dân ở vùng nước nhiễm phèn, mặn
thuộc miền Tây Nam bộ. Luận văn tốt nghiệp Khoa Chăn nuôi thú y,
Trƣờng Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Quang Khải, Hồ Thị Lan Hƣơng, Nguyễn Gia Lƣợng, Đinh Thế Lộc,
Nguyễn Khắc Tích, Nguyễn Vũ Thuận, 2004. Công nghệ khí sinh học. Dự
án hỗ trợ chƣơng trình khí sinh học cho ngành chăn nuôi ở một số tỉnh Việt
Nam. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hà Nội.
5. Dƣơng Nguyên Khang, 1999. Kỹ thuật túi ủ phân làm chất đốt. Tài liệu hƣớng
dẫn thực hành. Khoa chăn nuôi thú y, Trƣờng Đại Học Nông Lâm Thành
Phố Hồ Chí Minh.
6. Dƣơng Nguyên Khang, 2004. Bài giảng công nghệ xử lý chất thải. Trƣờng Đại
Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Viết Lập, 2001. Ảnh hưởng của số lượng và thời gian lưu lại của phân
trên khả năng sinh gas của hệ thống biogas thí nghiệm. Luận văn tốt nghiệp
khoa chăn nuôi thú y, Trƣờng Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí
Minh.
8. Nguyễn Thị Hoa Lý, 1994. Nghiên cứu các chỉ tiêu nhiễm bẩn của chất thải
chăn nuôi heo tập trung và áp dụng một số biện pháp xủ lý. Luận án phó
tiến sĩ khoa học Nông Nghiệp, Đại Học Nông Lâm, Tp. Hồ Chí Minh.
39
9. Nguyễn Chí Minh, 2002. Giáo trình phân bón hữu cơ. Khoa nông học Trƣờng
Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
10. Phạm Văn Minh, 1995. Bước đầu khảo sát việt sử dụng túi ủ khí sinh học làm
bằng Plastic ở một số tỉnh miền Đông Nam bộ. Luận văn tốt nghiệp Trƣờng
Đại học Nông Lâm Tp Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Thị Thu Minh, 2006. Đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường nước
mặt và hiệu quả của một số mô hình xử lý nước thải chăn nuôi heo ở nông
hộ. Trƣờng Đại Học Cần Thơ.
12. Nguyễn Thành Quốc, 2000. Khả năng xử lý chất thải chăn nuôi bằng kỹ thuật
túi ủ nylon. Luận Văn tốt nghiệp Trƣờng Đại Học Nông Lâm Thành Phố
Hồ Chí Minh.
13. Phan Đức Quý, 1997. Khảo sát khả năng ứng dụng và phát triển túi ủ khí sinh
học làm bằng nylon tại một số nông hộ thuộc miền Đông Nam bộ. Luận văn
tốt nghiệp Trƣờng Đại học Nông lâm thành phố Hố Chí Minh.
14. Ngô Kế Sƣơng, 1981. Sản xuất và sử dụng khí sinh vật. Nhà xuất bản khoa học
và kỹ thuật Hà Nội.
15. Ngô Kế Sƣơng, Nguyễn Lâm Dũng, 1997. Sản xuất khí đốt (biogas) bằng kỹ
thuật lên men kỵ khí. Nhà xuất bản nông nghiệp.
16. Nguyễn Thị Thủy, 1991. Khảo sát khả năng tiêu diệt Escheria coli và trứng ký
sinh trùng bằng hầm ủ biogas.
17. Hướng dẫn sản xuất và sử dụng khí đốt sinh vật, 1989. Nhà xuất bản Đồng Nai.
18. Trung tâm tiêu chuẩn chất lƣợng, 1995. Tiêu chuẩn Việt Nam. Các tiêu chuẩn
nhà nước Việt Nam về Môi trường. Tập 2.
19. Lê Hoàng Việt, 2000. Tái sử dụng chất hữu cơ. Trƣờng Đại Học Cần Thơ.
40
Phần tiếng Anh
20. Burton, C.H and Turner, C. 2003. Manure manure management, treatment
strategies sustainable agriculture. Sisoe Research Institute 2003. Wrest
Park, Silsoe, Bedford, UK, 451 pages.
21. Bui Phan Thu Hang, 2003. Effect of dimensions of plastic biodigester (width:
length ratio) on gas production and composition of effluent. Livestock
Research for Rural Development 15 (7) 2003, 8 pages.
22. Marchaim, Uri.1992. Biogas processes for sustainable development. FAO
Agricultural services bulletin 95. Rome, Italy, 232 pages.
23. Martin, H.John, 2003. A comparison of dairy cattle manure management with and
without anaerobic digestion and biogas utilization. Washington, DC 20460.
24. San Thy, T. R. Preston and J. Ly, 2003. Effect of retention time on gas
production and fertilizer value of biodigester effluent. Livestock Research
for Rural Development 15 (7) 2003.
25. San Thy, P. Buntha, T. Vanvuth, T. R. Preston, Duong Nguyen Khang, Soukanh
K., Boualong, Phouthone, Choke Mikled and N. Sopharoek, 2005. Effect of
length: diameter ratio in polyethylene biodigesters on gas production and
effluent composition. In; Making Better Use of Local Feed Resources.
Workshop – seminar, 23 – 25 May, 2005.
Trang web
26.
27.
%C3%ACm+v%E1%BB%9Bi+Google&as_epq=biogas&as_oq=comparison&as_
eq=&lr=&as_ft=i&as_filetype=pdf&as_qdr=all&as_occt=any&as_dt=i&as_sitesea
rch=
41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TRAN VU QUOC BINH - 02126005.pdf