Chương I
CƠSỞLÝLUẬNVÀTHỰCTIỄN
VỀCÔNGNGHIỆPHOÁ, HIỆNĐẠIHOÁ
1.1. CƠSỞLÝLUẬNVÀCÁCMÔHÌNHCÔNGNGHIỆPHOÁ, HIỆNĐẠIHOÁỞCÁCNƯỚCĐANGPHÁTTRIỂN
1.1.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1.1. Các quan niệm về công nghiệp hoá
Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai tròđặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhauđối với từng nước, thậm chíđối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đóđược thể hiện khá rõở sựđa dạng trong việc lựa chọn mo hình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước trên thế giới.
Từ thực tế cho thấy, công nghiệp hoá là khái niệm mang tính lịch sử. Nó gắn liền sự xuất hiện của công nghiệp với việc thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá. Như vậy, khái niệm công nghiệp hoá chỉ xuất hiện từ cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, khởi đầu ở nước Anh vào thế kỷ 18. Đến thế kỷ 19, khái niệm này mới được làm rõ dần với quan niệm coi đóquá trình biến một lĩnh vực sản xuất nào đó, hoạt động với sự trợ giúp đắc lực và sựđóng góp lớn của hoạt động cơ khí. Do công nghiệp phát triển nhanh chóng từđơn giản đến phức tạp với trình độ cơ khí hoá, tựđộng hoá ngày càng cao nên ý nghĩa của khái niệm công nghiệp hoá cũng ngày càng mở rộng ra. Vì vậy, khi có một quan niệm đúng về công nghiệp hoá sẽý nghĩa đối với khoa học và hoạch định chính sách trong thực tiễn. Công nghiệp hoá là quá trình rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh khó phân biệt về thời gian, vềđịnh tính hay định lượng. Do vậy, tuỳ theo cách nhìn khác nhau mà người ta có những quan niệm khác nhau về công nghiệp hoá và bản chất của nó.
Quan niệm đơn giản nhất cho rằng "Công nghiệp hoá làđưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp" [32]. Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoáở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, các nước này chỉ chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, nên sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, mà không phải làđối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá. Quan niệm giản đơn trên đây có những mặt chưa hợp lý. Trước hết, nó không cho thấy mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá cần thực hiện. Thứ hai, nội dung quan niệm này gần nhưđồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ ba, quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy, quan niệm này được vận dụng rất hạn chế trong thực tiễn.
Quan niệm phổ biến ở Liên Xô trước đây cho rằng "công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp". Đó là sự phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành chế tạo cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xãhội ngày càng lớn. Quan niệm trên xuất phát từ thực tiễn của Liên Xô khi triển khai công nghiệp hoá. Liên Xôđã có một số tiền để ban đầu là công nghiệp đã phát triển triển đến trình độ nhất định dưới chủ nghĩa tư bản trước đây, dù trong thời kỳ nội chiến (1918-1920) công nghiệp có bị tàn phá nặng nề. Bên cạnh đó, trong thời kỳ tiến hành công hoá (1926-1940), Liên Xô bị chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện nên sự trợ giúp từ bên ngoài hầu như không có. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát triển Liên Xô phải tiến hành công nghiệp hoá với nhịp độ nhanh, phải tập trung cao độ phát triển công nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục vụ nông nghiệp nhằm bảo đảm các nhu cầu trong nước, đồng thời góp phần tăng nhanh tiềm lực quốc phòng. Quan niệm này, nhiều năm trước đây được coi là hợp lý vàđược áp dụng ở một số nước XHCN và các nước đang phát triển nhằm xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ. Thực tế, việc sao chép một cách máy móc mô hình công nghiệp hoá của Liên Xôđã không đem lại kết quả như mong muốn ở những nước này.
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quocó (UNIDO) đãđưa ra định nghĩa sau đây (vào năm 1963): "Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội" [15]. Khái niệm này nói lên rằng công nghiệp hoá là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự tăng trưởng kinh tế mà còn cả sự tiến bộ xã hội. Đồng thời quá trình công nghiệp hoá trong điều kiện ngày nay cũng gắn liền với quá trình hiện đại hoá nền kinh tế, trong mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài với ý tưởng dung hoà nhiều ý kiến khác nhau, nên nó mang tính chất một phương hướng thực thi hơn là một khái niệm.
186 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3707 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bài học kinh nghiệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Hàn quốc và áp dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Vì vậy, trong giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ít nhất là khoảng 10 - 15 năm phát triển những ngành có lợi thế đó sẽ đem lại cả hiệu quả về kinh tế cả về xã hội. Bởi vì những ngành này có thể nhanh chóng tạo đà cho phát triển công nghiệp, tạo ra nhiều việc làm và có thêm nguồn thu nhập, nguồn tích lũy lớn hơn để chuẩn bị cho việc phát triển các tiềm lực công nghiệp lớn hơn ở giai đoạn tiếp theo mà hiện đại hóa sẽ là trọng tâm.
Nói như vậy không có nghĩa là trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa chỉ tập trung vào những ngành thu hút được nhiều lao động và tận dụng tài nguyên thiên nhiên mà khi khoa học kỹ thuật đã ngấm sâu vào nền kinh tế thế giới và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì cần tranh thủ nắm bắt kịp thời cơ phát triển ngay một số ngành công nghiệp hiện đại, trong đó chưa phải là trọng tâm, chưa phải là hướng ưu tiên chính của chính sách công nghiệp, hơn nữa ta cũng cần lựa chọn hết sức thận trọng, xuất phát từ khả năng hiệu quả và nhu cầu thị trường chứ không phải là duy ý chí, từ mong muốn chủ quan. Cơ cấu công nghiệp và công nghệ nhị nguyên hay (công nghệ 2 tầng) tuy không phải là cái ta mong muốn xét về mặt phát triển dài hạn, nhưng nó là một thực tế tồn tại ở hầu hết các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Vấn đề là nếu không phủ nhận được nó thì cần chấp nhận nó, đồng thời tìm cách rút ngắn thời gian tồn tại của nó, đó là giải pháp phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa nhanh. Sự chuyển biến cơ cấu kinh tế cũng có sự thay đổi theo hướng tăng cường, sử dụng những lợi thế mới nhưng vẫn tiếp tục phát huy những lợi thế vốn có. Tuy nhiên, do khả năng phát triển của các lợi thế vốn có nhanh hơn nhiều nên cơ cấu kinh tế sẽ thay đổi theo hướng tăng mạnh tỷ trọng của những ngành công nghiệp tiên tiến hơn và các ngành dịch vụ tăng cao. Sự phát triển sẽ làm nảy sinh khuynh hướng mới là trong công nghiệp hóa, hiện đại cơ cấu kinh tế không chỉ chuyển dịch từ nông nghiệp sang công - nông nghiệp như sự chuyển dịch cổ điển, mà chuyển sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp hoặc có ít nền kinh tế chuyển dịch sang cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
Từ thực tế cho thấy, cách quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những thay đổi căn bản. ở nước ta thời gian qua, việc đổi mới tư duy đã đưa tới những thay đổi cơ bản về chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phương thức tiến hành. Đối với Việt Nam để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và rút ngắn tiến trình công nghiệp hóa, qua kinh nghiệm của Hàn Quốc, chúng tôi thấy nước ta cần và có thể thực hiện chiến lược hỗn hợp giữa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Trong tình hình hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta có thể thực hiện ngay chiến lược hướng vào xuất khẩu, đồng thời với việc thực hiện có lựa chọn và có điều chỉnh một số chính sách và biện pháp cần thiết để vừa bảo hộ hợp lý, vừa nâng cao sức cạnh tranh cũng như hiệu quả của các ngành công nghiệp non trẻ trong nước.
Nhìn chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở xây dựng một chiến lược công nghiệp với bước đi rõ ràng dựa trên cơ sở công nghệ hiện đại, tiên tiến.
Một nhiệm vụ vô cùng quan trọng khác Nhà nước cần thực hiện cấp bách để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là việc cải cách thể chế ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN. Sau 15 năm chuyển đổi sang cơ chế mới, vai trò kinh tế của Nhà nước đã chuyển dần từ trực tiếp sang gián tiếp, vai trò định hướng và trọng tài trong thị trường là chủ yếu. Tuy vậy, việc khắc phục bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu lực, nặng về tuân theo mệnh lệnh hành chính, ít làm theo pháp luật… còn nhiều vấn đề cần phải làm:
Thứ nhất, đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính thực sự trên thực tế. Muốn vậy cần phải thường xuyên củng cố, kiện toàn bộ máy Nhà nước để bộ máy này ngày càng gọn nhẹ, linh hoạt, vững mạnh, trong sạch hiệu quả và tin cậy. Thực hiện công khai và dân chủ, công bằng trong phân bổ ngân sách, đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước. Đổi mới hơn nữa cơ chế, chính sách quản lý vốn, quản lý tài sản Nhà nước, thống kê, kế toán và kiểm toán. Cải tiến một bước chế độ tiền lương sao cho công chức có thu nhập chủ yếu là lương và sống thực sự bằng lương. Kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật để cơ quan này thực sự trong sạch, vững mạnh không còn hiện tượng lạm dụng chức quyền, bao che, tiếp tay và trực tiếp tham gia vào các hành vi vi phạm pháp luật. Thường xuyên coi trọng và tăng cường công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, chuyên môn cho đảng viên, cán bộ công chức quan việc quản lý, kiểm tra ở cả công sở và nơi cư trú. Kịp thời xác định và xử lý nghiêm minh các vụ tham nhũng, lạm dụng chức quyền ở mọi nơi, mọi cấp, mọi cương vị; thủ trưởng các cơ quan phải là người gương mẫu và chịu trách nhiệm về vấn đề này của cơ quan mình. Những người có công tâm, dũng cảm và kiên quyết chống tham nhũng phải được bảo vệ và noi gương; các tổ chức và cá nhân bao che, làm ngơ và tiếp tay cho tham nhũng, cũng như những người lợi dụng chống tham nhũng để gây bè phái, gây rối, bôi xấu và thanh trừng lẫn nhau cần phải bị nghiêm trị.
Thứ hai, cải thiện hơn nữa mối quan hệ giữa Nhà nước và cộng đồng kinh doanh để huy động giới doanh nhân tham gia vào quá trình ra quyết định, thực chi chính sách, đánh giá kết quả thực hiện, dự báo nhu cầu và uốn nắn những sai lệch của chính sách quản lý vĩ mô trong cuộc sống. Trong cơ chế thị trường ở nước ta Nhà nước phải là người trọng tài đích thực hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế chứ không phải nâng đỡ, o bế thành phần này, những doanh nghiệp này mà gây tổn hại cho thành phần khác hoặc những doanh nghiệp khác. Việc Nhà nước thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe và tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào việc ra quyết định là rất cần thiết. Hàng năm Thủ tướng đã có những cuộc gặp gỡ thường kỳ với giới doanh nghiệp trong mấy năm gần đây là một bước tiến lớn trong việc tăng cường quan hệ giữa Nhà nước và cộng đồng kinh doanh. Nhưng để triển khai những ý kiến giải quyết của Thủ tướng trong thực tế đòi hỏi các bộ, các ngành, các nhà quản lý Nhà nước các cấp phải năng động, kịp thời hơn nữa trong khâu ban hành các chính sách và văn bản hướng dẫn. Đã có không ít những giải quyết khúc mắc để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các nhà lãnh đạo cấp cao bị "bỏ quên" do các cấp, các ngành không có văn bản pháp qui triển khai.
Thứ ba, Nhà nước phải đặt mục tiêu ổn định cơ sở pháp lý và chế độ sở hữu lên hàng đầu để tạo ra môi trường kinh doanh năng động và phát triển. Không có nhà đầu tư nào dám bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh trong điều kiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về chế độ sở hữu không ổn định. Sở dĩ chúng ta chưa thực sự "khơi trong, hút ngoài" được nguồn vốn đầu tư một phần rất quan trọng là do chưa ổn định cơ sở pháp lý về chế độ sở hữu. Chính vì sự thiếu rõ ràng và thiếu ổn định của cơ sở pháp lý và chế độ sở hữu mà dẫn đến tình trạng "cha chung không ai khóc", "thừa tiền trong dân, nhưng thiếu vốn đầu tư", "vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam chậm dần"… trong những thời gian gần đây.
Ngoài ra, còn cần một loạt biện pháp quan trọng về tài chính, tiền tệ để khai thông huyết mạch trong việc huy động vốn, đảm bảo sản xuất kinh doanh, kiểm soát lạm phát. Muốn vậy, giá cả phải được quy định bởi thị trường, không bị méo mó do bao cấp, do độc quyền; giá cả phải thực sự là ngọn hải đăng của hoạt động sản xuất kinh doanh; in tiền bổ sung cho thị trường ít hơn và thực hiện lãi suất thực tế dương thực sự để tăng thu hút vốn trong nước và tăng hiệu quả sử dụng vốn; thực hiện thu chi ngân sách hợp lý, tránh bội chi ngân sách; thuế quan cần phải là động lực thúc đẩy xuất khẩu, kích thích đầu tư và bảo vệ được các ngành công nghiệp non trẻ của đất nước…
3.3.2. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH bền vững và hội nhập quốc tế với việc hình thành những ngành trọng điểm và mũi nhọn
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là do tác động của nhiều nhân tố, như cơ chế, chính sách, khoa học công nghệ… trong đó, khoa học công nghệ đóng vai trò rất to lớn. Kinh nghiệm Hàn Quốc mấy thập kỷ qua đã chứng minh điều đó. Hàn Quốc đã thành công trong chuyển dịch cơ cấu ngành và nâng cấp công nghiệp, tiến tới phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao dựa trên cơ sở xây dựng một chiến lược công nghệ đúng đắn, với những bước đi rõ ràng dựa vào công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến. Suy cho cùng đó là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại, làm chuyển biến cơ cấu ngành sản xuất, cơ cấu lao động xã hội, cơ cấu sản phẩm xuất nhập khẩu theo hướng tăng tỷ trọng và hàm lượng công nghệ cao trong sản xuất. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gắn bó chặt chẽ và chịu tác động trực tiếp của khoa học công nghệ. Do ảnh hưởng của khoa học công nghệ, sự chuyển dịch cơ cấu ngành không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi cả về lượng và chất để hướng tới cơ cấu ngành phù hợp với nền kinh tế hiện đại.
Trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ, cùng xu hướng cạnh tranh trong hội nhập tăng lên, để phát huy lợi thế so sánh, giành giật lợi thế trong thương mại quốc tế, việc điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế nói chung, cơ cấu ngành kinh tế nói riêng sao cho phù hợp với bối cảnh và tình hình mới ở trong nước và quốc tế theo xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đảm bảo hội nhập có kết quả là quá trình có tính qui luật phổ biến ở tất cả các nước, song trong mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển, quá trình này cũng có những đặc điểm riêng đòi hỏi các chủ thể phải có những nhận thức đúng đắn để có các biện pháp phù hợp tác động vào quá trình đó. Ở nước ta hiện nay, vẫn trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra còn chậm vì nó diễn ra trong bối cảnh bước vào chuyển đổi cơ chế quản lý. Trong giai đoạn này, một số yếu tố của cơ chế mới từng bước được hình thành song cần có thời gian để củng cố, nhiều yếu tố ở tầm quản lý chiến lược còn chưa được định hình rõ nét. Trong hoàn cảnh đó có thể cần những giải pháp và bước đi quá độ để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, miễn là các giải pháp và bước đi phải đảm bảo đúng hướng theo lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đáng chú ý đó là khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay. Khi ta cần thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sớm hình thành cơ cấu mới tích cực để hội nhập lại thiếu nguồn lực cơ bản cho sự phát triển: vốn, trình độ công nghệ kỹ thuật thấp kém, lao động trình độ thấp… Các khó khăn bất cập ấy xảy ra thường xuyên trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu là điều tất yếu đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp và sự điều chỉnh thích ứng.
Mặt khác, Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi toàn cầu hóa, khu vực hóa đời sống kinh tế đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hóa và hợp tác giữa các quốc gia làm cho lực lượng sản xuất quốc tế hóa ngày càng cao. Đặc điểm này đòi hỏi các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung và khai thác lợi thế so sánh của mình.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong hoàn cảnh ấy có sự tác động lớn khoa học công nghệ. Thực tế tiến bộ khoa học công nghệ không chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới đẩy nhanh sự phát triển của một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế, làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mà còn tạo ra những nhu cầu mới đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp mới với công nghệ tiên tiến có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai.
Đồng thời, khi mở cửa hội nhập, tiến bộ khoa học công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao, chi phí thấp, do vậy có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Sự gia tăng xuất khẩu là phù hợp với xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thời gian qua ở nước ta cho thấy nhân tố khoa học công nghệ tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào hai yếu tố. Chính sách khoa học công nghệ của Nhà nước; những hạn hẹp về vốn đầu tư để đổi mới công nghệ kỹ thuật. Do vậy, Nhà nước cần có những chính sách và giải pháp tích cực để tạo lập nền công nghệ thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu ngành kinh tế.
Do vậy, để cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong điều kiện hội nhập đáp ứng được những yêu cầu phát triển lâu dài của đất nước, khắc phục tình trạg nền kinh tế dễ lâm vào tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài, cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập phải được tiến hành trên cơ sở của chiến lược hội nhập với sự tính toán chu đáo, toàn diện các mục tiêu chiến lược, với bước đi phù hợp trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng và các nguồn lực phát triển của nền kinh tế nước ta.
Hai là, việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng hội nhập phải theo hướng khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta nhằm tham gia có hiệu quả và phân công lao động quốc tế. Lợi thế của nền kinh tế nước ta phải xem xét trên quan điểm động trong không gian và thời gian để lựa chọn được những ngành, những lĩnh vực, sản phẩm, có tính bền vững tương đối và phù hợp với sự năng động của thị trường thế giới.
Ba là, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập phải tính đến yêu cầu phát triển bền vững, lâu dài, việc đáp ứng giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Bốn là, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập phải nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của các hoạt động kinh tế đối nội và đối ngoại của nước ta
Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là cải biến cơ cấu hiện tại, tiến tới một cơ cấu hợp lý, đa ngành, trong đó hình thành các ngành trọng điểm, mũi nhọn, phát triển bền vững nhằm khai thác tốt nội lực, tham gia có hiệu quả vào phân công hợp tác quốc tế. Khi xác định các ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn phải chú ý các vấn đề sau:
- Coi trọng tính bền vững của sự phát triển: Đó là sự phát triển dựa trên cơ sở khai thác các lợi thế và phải dựa vào nội lực của đất nước có trình tự hợp lý, có tính tới các yêu cầu hội nhập và tạo sự phát triển bền vững. Vấn đề này rất quan trọng, vì các ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm sẽ tạo nên xương sống phát triển nền kinh tế đất nước trước mắt cũng như lâu dài.
- Lựa chọn ngành trọng điểm, mũi nhọn phải dựa trên hệ thống tiêu chuẩn phù hợp. Tuy nhiên, những tiêu chuẩn này không cố định, sẽc ó bổ sung hay sửa đổi trong sự biến động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, cơ cấu ngành sẽ phân loại thành: ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn và ngành kinh tế thông thường. Cách phân chia như vậy có tính chất ước lệ và có thể có thay đổi gắn với điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn phát triển. Những ngành thông thường sẽ nhiều hơn, các ngành trọng điểm sẽ ít hơn và các ngành mũi nhọn đôi khi chỉ là con số một vài ngành.
- Đối với ngành kinh tế trọng điểm: Đó là những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
+ Sự phát triển các ngành này sẽ là nền tảng và sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác của nền kinh tế quốc dân theo định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gồm: điện lực, xi măng, sắt thép, dầu khí, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
+ Những ngành có vị trí quan trọng trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những ngành đang có tỷ trọng lớn trong GDP của toàn bộ nền kinh tế. Xét về lâu dài, các ngành này vẫn còn điều kiện và khả năng phát triển gồm: cơ khế chế tạo, công nghệ thông tin, các ngành công nghệ cao…
+ Ngành kinh tế trọng điểm cũng là những ngành có khả năng phát huy ưu thế đất nước, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế cũng như góp phần thực hiện hội nhập nền kinh tế nước ta với nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới, gồm: khai thác, chế biến nông sản có khả năng tận dụng lao động dồi dào và cần ít vốn.
- Các ngành mũi nhọn: Đó là các ngành kinh tế có vai trò quyết định trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Là ngành có tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội so với các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước và là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh, có điều kiện phát triển tốt. Sản phẩm của ngành này đang đáp ứng nhu cầu tương đối lớn và có tính ổn định tương đối.
+ Là ngành khai thác thế mạnh đặc biệt của đất nước, tạo vị thế vững chắc và có khả năng cạnh tranh cao, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao cho đất nước; Là những ngành đi vào mũi nhọn của tiến bộ khoa học công nghệ, đi vào xu hướng công nghệ tương lai phù hợp trào lưu phát triển của thời đại.
+ Là những ngành thay thế nhập khẩu, hướng về xuất khẩu tạo sự cạnh tranh cho sản phẩm của ta trên thị trường thế giới.
Với những yêu cầu trên, những ngành kinh tế mũi nhọn của ta đến năm 2020 là công nghiệp hóa điện tử, tin học, dệt may, chế biến cây công nghiệp đặc sản khai thác chế biến dầu khí ngành sử dụng công nghệ sinh học, ngành khai thác chế biến thủy sản.
Sau khi xác định các ngành trọng điểm, mũi nhọn trong cơ cấu ngành, Nhà nước cần có những chính sách, giải pháp thích hợp về vốn, công nghệ… tạo đà cho các ngành phát triển.
3.3.3. Chính sách và giải pháp về khoa học công nghệ
Để tăng khả năng cạnh tranh trong hội nhập kinh tế, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là nước đi sau nên ta có lợi thế với bước đi tắt về công nghệ. Từ thực tế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, các nước đi sau không cần phải "phát minh" lại, mà chỉ cần biết lựa chọn, tiếp thu, thích nghi và làm chủ công nghệ, có sẵn qua chuyển giao công nghệ. Từ đó cho thấy, về công nghệ Việt Nam có thể rút ngắn thời gian và giảm tới mức thấp nhất có thể về độ "mạo hiểm" của quá trình áp dụng công nghệ mới. Bên cạnh đó về mặt kinh tế, ta ít phụ thuộc hơn vào những công nghệ tiêu tốn nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm môi trường. Như vậy, ngày nay để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa có rất nhiều những giải pháp công nghệ mà không nhất thiết theo bước đi tuần tự của những nước đi trước. Có những công nghệ ta không phải tự tìm kiếm sáng tạo mà chỉ cần nắm bắt công nghệ phù hợp nhất đã có trên thế giới.
Ngày nay, cùng với phân công lao động quốc tế, còn có sự phân công công nghệ trên phạm vi quốc tế và quốc gia. Từ kinh nghiệm Hàn Quốc, con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, không thể là sự sao chép một cách máy móc cách làm của những nước đi trước, dù họ có thành công hay không thành công.
Việc tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài bằng nhiều hình thức: mua phát minh, sáng chế, mua máy móc thiết bị, du nhập công nghệ qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Theo kinh nghiệm Hàn Quốc, để tiếp nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài có hiệu quả, Hàn Quốc biết lựa chọn công nghệ phù hợp với năng lực của nền kinh tế và cũng biết nội địa hóa công nghệ một cách có hiệu quả.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, theo chúng tôi thấy cần xây dựng hệ thống công nghệ không chỉ là hai tầng mà là nhiều tầng: Công nghệ trình độ thấp, trung bình có khả năng thu hút nhiều lao động; đồng thời chú ý công nghệ tiên tiến, hiện đại trong những khâu, những sản phẩm, những ngành mà ta có điều kiện và lợi thế; khuyến khích công nghệ sạch, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng; hạn chế các công nghệ thải, lạc hậu, tiêu tốn nguyên liệu, năng lượng dễ gây ô nhiễm môi trường.
Công nghệ có vai trò rất to lớn đối với phát triển kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhưng cần phải xác định rõ cơ cấu công nghệ và quan hệ giữa các loại hình công nghệ. Cụ thể là:
- Quan hệ giữa công nghệ truyền thống thủ công và công nghệ hiện đại
- Quan hệ giữa công nghệ nghiên cứu chế tạo trong nước với công nghệ nhập từ nước ngoài.
- Quan hệ giữa công nghệ rẻ hơn, nhưng ô nhiễm môi trường hơn với công nghệ đắt tiền ít gây ô nhiễm môi trường.
Mặt khác, phải kết hợp giữa tuần tự và nhảy vọt trong phát triển công nghệ. Khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, lao động dư thừa, vốn hạn hẹp, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa có chủ trương kết hợp nhiều trình độ công nghệ, vừa tận dụng công nghệ sẵn có và từng bước hiện đại hóa công nghệ truyền thống, đồng thời lựa chọn từng mặt, từng khâu trong một số ngành để đi tắt vào công nghệ hiện đại. Đó là sự kết hợp giữa bước đi tuần tự với nhảy vọt trong lộ trình phát triển.
Sự phát triển của công nghệ phải gắn liền với chính sách công nghệ quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nội dung chính sách công nghệ quốc gia là hướng vào xây dựng nền tảng công nghệ, thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Thực tế cho thấy, phải đến khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường trong một nền kinh tế mở, với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới cũng như trong nước, chúng ta mới thấy hết được chính sách và cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã kìm hãm việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất ở nước ta, cùng sự lạc hậu của các ngành sản xuất. Khắc phục sự lạc hậu về công nghệ không chỉ trong thời gian dài, mà còn đòi hỏi cả nguồn vốn lớn. Để thúc đẩy đổi mới công nghệ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Nhà nước cần tác động tích cực vào quá trình ấy bằng cơ chế, chính sách:
-Tạo quyền chủ động cho chủ thể kinh doanh lựa chọn, mua bán công nghệ, kể cả việc trực quan hệ với bạn hàng nước ngoài. Quyền chủ động đó không chỉ làm cho các quyết định trong lĩnh vực này được thực hiện nhanh chóng, mà điều quan trọng là được chính xác hơn, thiết thực hơn đối với các cơ sở sản xuất.
- Tạo nhu cầu bức thiết đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Khi kinh doanh trong cơ chế thị trường, cạnh tranh khiến cho các doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước cần ưu tiên các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận, áp dụng công nghệ mới bằng:
+ Ưu đãi xem xét cấp đất xây dựng cơ sở sản xuất mới hoặc mở rộng cơ sở sản xuất hiện có.
+ Ưu tiên vay vốn ngân hàng để đầu tư và phát triển cơ sở sản xuất mới, mua sắm công nghệ thiết bị mới.
+ Tạo điều kiện ra nước ngoài tiếp cận thị trường, nghiên cứu học tập công nghệ mới.
+ Thông qua hợp tác đầu tư với nước ngoài, các ngành cũng có điều kiện tiếp thu công nghệ mới.
Ở nước ta hiện nay, một số chủ doanh nghiệp và đầu tư chưa thật sự yên tâm sản xuất kinh doanh, thiếu sự đầu tư thích đáng cho phát triển công nghệ. Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy sự an tâm từ phía người đầu tư (cả trong và ngoài nước) là một yêu cầu quan trọng đối với sự phát triển của khoa học công nghệ cho quá trình công nghiệp hóa, hướng tới cơ cấu kinh tế mới có hiệu quả hơn. Như vậy, để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc ứng dụng khoa học học công nghệ vào sản xuất phải khuyến khích được cả những nhà khoa học và những nhà sản xuất. Thực tế ấy đúng như đồng chí Đỗ Mười đã nói: "Muốn cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát triển thì trước hết phải tìm ra động lực cho sự phát triển của bản thân khoa học và công nghệ. Động lực này nằm ở lợi ích của những người nghiên cứu, phát minh và ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ, bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị xã hội" [81].
3.3.4. Chú trọng khai thác lợi thế so sánh, kết hợp tốt hướng ngoại và hướng nội, lấy thị trường nước ngoài làm trọng tâm
Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện mở cửa đã dẫn tới thành công nhanh chóng. Suốt trong thời gian từ những năm 60 đến nay, Hàn Quốc vẫn lấy thị trường nước ngoài làm mục tiêu trọng tâm cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy, từ những năm cuối 70 đến đầu thập kỷ 80, khi tiềm lực kinh tế đất nước tăng lên, mức thu nhập, mức sống dân cư đã tăng lên, bên cạnh chính sách tự do hóa nhập khẩu, Hàn Quốc trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa không buông lỏng sự quan tâm đến thị trường nội địa.
Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và từng bước mở cửa nền kinh tế. Định hướng thị trường đã trở thành mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong mở cửa, mức đọ tự do hóa và tốc độ tăng trưởng kinh tế có liên quan tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên, mở cửa và tự do hóa một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi mới cho phát triển kinh tế, mặt khác cũng nảy sinh nhiều thách thức khi khả năng công nghiệp trong nước còn yếu kém.
3.3.4.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng ra thị trường thế giới
Trong điều kiện kinh tế thị trường thế giới đầy biến động, cạnh tranh quốc tế ngày càng diễn ra gay gắt, khi công nghiệp của ta còn non yếu để thành công khi hướng ra thị trường thế giới, kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy Nhà nước phải có các chính sách và biện pháp phù hợp, tích cực làm cho hoạt động xuất khẩu có lợi hơn so với việc kinh doanh cùng những mặt hàng đó tại thị trường nội địa. Thông thường nó dựa trên cơ sở khai thác tối đa những lợi thế so sánh và nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn. Do vậy:
- Việc khai thác được lợi thế so sánh vốn có của mình là quan trọng, nhưng theo chúng tôi việc xây dựng được lợi thế so sánh trong giai đoạn khác nhau của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn quan trọng hơn. Hiện nay, ta đang có lợi thế so sánh của ta là có tiềm năng đất nước, rừng biển, tài nguyên và lao động. Vì vậy, công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, việc phát triển các ngành nghề phục vụ xuất khẩu phải hướng vào giải quyết công ăn việc làm cho số đông lao động, đưa tiềm năng sức lao động vào sản xuất và khai thác tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bằng cách đó ta có thể tạo ra khối lượng sản phẩm lớn cho xuất khẩu, giá trị xuất khẩu của các đơn vị sản phẩm không cao, nhưng nếu xuất với khối lượng lớn thì ta vẫn tạo được kim ngạch xuất khẩu cao.
Hoạt động xuất khẩu ở nước ta trong thời gian qua đã có những tiến bộ và kết quả nhất định, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng hiện có và nhu cầu đặt ra với tăng trưởng kinh tế. Những hạn chế ấy do những nguyên nhân nội tại và những nhân tố khách quan từ bên ngoài chi phối. Cụ thể:
+ Điểm xuất phát của quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta còn thấp, năng lực sản xuất của các ngành, nhóm ngành kinh tế quốc dân còn yếu kém, lại phân bổ phân tán.
+ Sự tìm kiếm lợi thế của nước đi sau ở thị trường nước ngoài vẫn còn nhiều lúng túng và yếu kém.
+ Sự đổi mới cơ cấu sản phẩm diễn ra chậm chạp, chất lượng, giá thành sản phẩm chưa chứng tỏ ưu thế trước các đối tượng cần cạnh tranh. Hạn chế này do công nghệ của ta thấp và lạc hậu.
+ Sự tiếp nhận thông tin thị trường, thông tin về công nghệ kỹ thuật còn nhiều hạn chế.
Do vậy, khi xác định cơ cấu sản phẩm để tập trung cho các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu phải khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, phù hợp với tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa và hội nhập. Thực tế, cần:
+ Tiếp tục nhập công nghệ có chọn lọc để đổi mới hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng lực và trình độ của toàn bộ nền kinh tế.
+ Tăng tỷ tọng sản phẩm chế biến trong tổng giá trị sản phẩm xuất khẩu, đồng thời giảm mạnh xuất khẩu nguyên liệu thô, sản phẩm sơ chế. Muốn vậy, điều cốt yếu là tạo ra vốn để đổi mới công nghệ, kỹ thuật.
+ Chú trọng các sản phẩm thủ công, mỹ nghệ độc đào có khả năng xuất khẩu vào thị trường một số nước trên thế giới.
+ Mở rộng các quan hệ hợp tác gia công cho nước ngoài
+ Khai thác tối đa các thị trường ngách ở các nước, nhất là những mặt hàng đơn giản giá rẻ cho người có thu nhập thấp, những mặt hàng mà các nước không muốn hoặc không chú ý sản xuất.
- Xây dựng một hệ thống thể chế chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng hội nhập quốc tế. Thời gian qua cho thấy, các chính sách kinh tế vĩ mô của nước ta tuy đã coi trọng xuất khẩu, nhưng vẫn còn mang nặng tính chất thay thế nhập khẩu. Điều này thể hiện ở chỗ đồng tiền Việt Nam luôn được giữ ở mức giá cao, thuế nhập khẩu cao đã không khuyến khích xuất khẩu. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu còn hạn chế, đồng thời còn thiếu sự nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình thị trường thế giới, những hiểu biết có tính thông lệ trong quan hệ thương mại quốc tế.
Do vậy, việc đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô không chỉ là khuyến khích xuất khẩu mà còn phải theo hướng hội nhập và mở cửa, cụ thể:
+ Phải có chính sách tỷ giá linh hoạt, thích hợp, tỷ giá phải để cho thị trường xác định. Nhà nước điều chỉnh tỷ giá theo hướng luôn hạ thấp giá đồng Việt Nam so với giá thực tế ở mức độ thích hợp. Chính sách tiền tệ như vậy sẽ thúc đẩy và khuyến khích các hoạt động xuất khẩu.
+ Chính sách thuế quan, phí thuế quan phải được đổi mới theo hướng hạ thấp dẫn và dần dần đi tới xóa bỏ theo những cam kết với các tổ chức kinh tế quốc tế như AFTA, APEC…
+ Chính sách xuất nhập cảnh, thuế thu nhập của người nước ngoài phải thay đổi phù hợp tạo ra những điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và kinh doanh ở nước ta.
+ Chính sách tín dụng phải tập trung cao hơn cho những hoạt động kinh tế đối ngoại. Vốn đầu tư của Nhà nước cần tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng, cho sản xuất hàng xuất khẩu. Nếu tập trung đầu tư có hiệu quả cho các hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ tạo ra động lực tăng trưởng cho nền kinh tế phát triển.
+ Tạo quyền chủ động cho các chủ thể kinh doanh lựa chọn, mua bán công nghệ, kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng người nước ngoài. Khuyến khích nước ngoài đầu tư góp phần tăng cường năng lực công nghệ qua hợp tác đầu tư.
+ Tăng cường năng lực hoạt động của các tham tán thương mại ở nước ngoài để giúp các doanh nghiệp trong nước nắm bắt thông tin về thị trường ngoài nước.
3.3.4.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng vào thị trường trong nước
Hướng hoạt động phục vụ nhu cầu trong nước cũng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Nó phù hợp với những yêu cầu bức bách trong sự phát triển kinh tế - xã hội và những hạn chế chưa khắc phục ngay được trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Điều đó có thể thấy được ở nhiều phương diện:
- Thu thập quốc dân bình quân đầu người ở nước ta còn thấp, sức mua trên thị trường còn tăng chậm.
- Một số ngành công nghiệp của ta do hạn chế về công nghệ, chất lượng không cao, nếu xuất ra thị trường nước ngoài sẽ khó khăn, nhưng lại có khả năng tiêu thụ khối lượng lớn ở thị trường trong nước.
- Chuyển sang những ngành công nghiệp hiện đại không chỉ là vấn đề thời gian mà cả vấn đề vốn, công nghệ.
- Lực lượng lao động trong xã hội dồi dào, nhiều người chưa có việc làm, phát triển những ngành công nghệ thấp, thu hút nhiều lao động là rất cần thiết.
Do vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trọng tâm hướng ra thị trường nước ngoài là vấn đề mang tính qui luật, còn hướng vào thị trường trong nước là tùy thuộc vào thu nhập, việc làm của dân cư, vào khả năng hiện có của công nghệ. Như vậy, bên cạnh khu vực công nghiệp hiện đại hướng mạnh ra thị trường nước ngoài, thì khu vực công nghiệp truyền thống, công nghiệp nông thôn chủ yếu tìm chỗ đứng của mình ở thị trường trong nước. Việc sản xuất hàng hóa tiêu dùng, tư liệu sản xuất cho nhu cầu trong nước để thay thế nhập khẩu bao hàm cả ý nghĩa kinh tế - xã hội. Trước hết là phát triển mạnh công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp chế biến ở nông thôn để một mặt là đảm bảo đời sống và việc làm cho hơn 70% dân tố đất nước, mặt khác giữ vững được thị trường rộng lớn cả về diện tích và dân số trong nước.
Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa có khả năng vươn lên chiếm lĩnh thị trường trong nước, Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tác động sau:
+ Thông qua hàng rào bảo hộ mậu dịch ở mức còn có thể để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng mà công nghiệp trong nước có khả năng sản xuất.
+ Tăng cường đầu tư mọi mặt (vốn, khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo…) để chuyển nông thôn từ cơ bản là sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa: tác động để chuyển biến tâm lý, tập tục của người nông dân theo cơ chế mới; chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất của vốn và đất đai; hỗ trợ lớn của Nhà nước về cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục nông thôn để tiếp nhận có hiệu quả tác động của công nghiệp vào nông nghiệp.
+ Phục hồi các lành nghề, tăng cường đưa khoa học công nghệ vào mọi loại sản phẩm, phát triển công nghiệp nông thôn giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, tạo sự phân công lao động tại chỗ. Trên cơ sở đó, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao năng suất lao động và giá trị thu được trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
+ Chú trọng phát triển các loại hình doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ để thích ứng với những biến động của kinh tế thị trường cần ít vốn nên dễ huy động, tạo cơ hội cho nhiều người tham gia đầu tư.
+ Khuyến khích cải tiến kỹ thuật, đa dạng hóa sản phẩm, tăng chất lượng, giảm giá thành nhằm thu hút và khuyến khích sự tiêu dùng với khách hàng trong nước.
+ Chống tình trạng hàng hóa nhập lậu tràn lan từ nước ngoài. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ hàng nhập khẩu, chỉ nhập khẩu hàng hóa phục vụ thúc đẩy xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là, việc nhập khẩu tập trung vào các loại thiết bị máy móc, các loại nguyên liệu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, kiên quyết không nhập hàng hóa mà trong nước có khả năng sản xuất.
Nhìn chung, hướng hoạt động trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần kết hợp nhịp nhàng giữa xuất khẩu và nhập khẩu, chỉ mở rộng nhập khẩu khi nhu cầu phát triển xuất khẩu tăng lên.
3.5. HUY ĐỘNG VỐN CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, Việt Nam muốn thành công trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải huy động và tận dụng được mọi nguồn lực, cả nguồn lực tự nhiên, các nguồn lực vật chất, các nguồn lực vốn đầu tư cả trong và ngoài nước, nguồn lực con người. Đa dạng hóa, đa phương hóa trong kinh tế đối ngoại đòi hỏi trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ta phải biết phát huy cả nội lực và nguồn lực bên ngoài. Có thể nói với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, thì nội lực và ngoại lực ngày càng gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau. Các nguồn vốn, công nghệ bên ngoài một khi đã được du nhập và sử dụng thì chúng trở thành nội lực của đất nước. Với một quốc gia dù giàu tài nguyên thiên nhiên, kể cả lao động, đất đai, rừng, biển, những cái đó tuy vô giáo nhưng không được sử dụng thì cũng không thể xem chúng là nội lực thực tế, mà chỉ là nội lực tiềm năng. Chỉ khi nào đó được đưa vào khai thác sử dụng thì khi ấy mới trở thành nội lực thực tế Do vậy, tư duy tách rời một cách máy móc nội lực với ngoại lực là tư duy không thực tế.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, vốn đầu tư nước ngoài luôn là nguồn lực quan trọng cần khai thác cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời sự lạm dụng vốn nước ngoài luôn tiềm tàng nguy cơ khủng hoảng. Do vậy, vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là làm thế nào vừa thu hút được nguồn vốn nước ngoài phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lại vừa tránh được sự lệ thuộc về kinh tế. Do vậy, quan điểm của Đảng ta cho rằng nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng [81]. Xuất phát từ quan điểm đó, Việt Nam cần phải có những chính sách và biện pháp hiệu quả để khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút vốn nước ngoài. Tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của ta còn thấp, do đó những năm trước mắt vẫn phải tìm biện pháp thu hút vốn nước ngoài, thúc đẩy sản xuất, tạo ra tích lũy, từ đó tăng nguồn vốn trong nước, dần đưa nguồn vốn này lên vai trò quyết định.
3.3.5.1. Huy động nguồn vốn trong nước
Huy động vốn trong nước phải dựa vào sức của toàn dân, cùng với vốn ngân sách, tự đầu tư trong dân là nguồn vốn vô cùng quan trọng. Khi nhu cầu đầu tư phát triển tăng lên, để huy động được nguồn vốn trong nước Nhà nước cần có những chính sách và giải pháp đồng bộ để khuyến khích các thành phần kinh tế yên tâm tập trung cho đầu tư phát triển sản xuất, không để vốn chết trong bất động sản, trong vàng, ngoại tệ. Do vậy cần:
- Chú trọng kiềm chế lạm phát, thực hiện tốt luật đầu tư trong nước khuyến khích tiết kiệm trong nhân dân, tăng cường tích lũy của các doanh nghiệp để tái đầu tư.
- Đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Đây là hình thức mở rộng xã hội hóa tư liệu sản xuất, nhằm thu hút nguồn vốn trong dân cư từ mọi thành phần kinh tế cho phát triển sản xuất. Muốn vậy cần thiết phải quan tâm thỏa đáng lợi ích của Nhà nước, của người quản lý doanh nghiệp và của công nhân lao động.
- Mở rộng và phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Đây là vấn đề được Hàn Quốc rất quan tâm ngay ở những năm đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở nước ta hiện nay, tỷ số doanh nghiệp có đủ tư cách pháp lý và uy tín để phát hành chứng khoán không nhiều, nhưng cần sớm hình thành khung pháp lý đầy đủ cho việc phát hành chứng khoán doanh nghiệp. Riêng trái phiếu kho bạc là loại chứng khoán có chất lượng cao vì được Nhà nước đảm bảo, hiện nay chủ yếu vẫn là trái phiếu ngắn hạn với nhu cầu thấp. Việc phát hành phải đảm bảo hoàn vốn và lãi dựa vào hiệu quả của vốn đầu tư, nếu không sẽ là gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước. Do vậy, cùng với việc soạn thảo hệ thống pháp luật, cần đào tạo đội ngũ cán bộ cho lĩnh vực này.
- Thực hiện triệt để chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng. Để làm được điều đó, bên cạnh việc cơ cấu lại các khoản chi ngân sách, phải kiên quyết tinh giảm biên chế, thực hiện kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tài chính, ngân hàng, chống thất thoát vốn, cần áp dụng chế độ đấu thầu cho các dự án đầu tư để đảm bảo hiệu quả đầu tư, sử lý nghiêm các trường hợp gây thất thoát tài chính…
3.3.5.2. Thu hút nguồn vốn nước ngoài
Trong điều kiện cạnh tranh thu hút vốn rất gay gắt ở khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần có giải pháp mạnh mẽ hơn để tiếp tục là nơi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút tài trợ ODA quốc tế. Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Nhà nước cần có những giải pháp cụ thể:
- Có qui hoạch tổng thể các vùng, các ngành để có kế hoạch gọi vốn đầu tư. Các dự án dự định cần được chuẩn bị kỹ càng trước khi phía đối tác đến Việt Nam. Thực tế cho thấy khả năng và sự chuẩn bị của các đối tác Việt Nam để tham gia hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều hạn chế. Các bộ ngành và địa phương cần khẩn trương quy hoạch, xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư thông qua các hội thảo quốc tế và vận động đầu tư ở nước ngoài.
- Hoàn thiện môi trường đầutư: Cần có sự nghiên cứu để không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, cải cách hành chính, đơn giản thủ tục đầu tư và thực hiện tốt các ưu đãi về thuế, tín dụng, cơ sở hạ tầng đối với các khu vực được ưu tiên khuyến khích phát triển.
- Chính sách đất đai phù hợp và có tác dụng hấp dẫn đầu tư nước ngoài: hoàn thiện và cụ thể hóa 3 quyền của nhà đầu tư về đất đai (chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp); tăng cường hiệu lực của pháp luật về đất đai, tránh phiền hà trong đền bù, giải phóng mặt bằng do "lệ làng" của các địa phương; tăng cường hiệu quả công tác giải quyết các vấn đề đất đai như thủ tục cấp đất, đền bù, giải phóng mặt bằng; đảm bảo quyền sử dụng đất lâu dài của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Chính sách thuế và ưu đãi tài chính cần hoàn thiện theo hướng ổn định và thích hợp với thông lệ quốc tế, có ưu việc so với các nước trong khu vực; thống nhất giá đầu vào và dịch vụ (điện, nước, cước vận tải, bưu điện, hàng không, các loại phí…) của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước; giải quyết nhanh việc hoàn thiện, chuyển lợi nhuận thuận tiện, góp vốn và trao đổi ngoại tệ dễ dàng…
- Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm cần khuyến khích đẩy mạnh mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu và xúc tiến thương mại. Định hướng tiêu thụ sản phẩm theo khuôn khổ pháp lý thích hợp tránh cạnh tranh không lành mạnh về giá, tránh bán hàng kém chất lượng, tránh đầu cơ và bán phá giá…
3.3.5.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Cần kết hợp tốt giữa vốn trong nước và vốn ngoài nước. Nguồn vốn đầu tư phát triển cần được quản lý, sử dụng có hiệu quả dựa trên cơ sở sắp xếp bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư. Trong đó, nguồn đầu tư ưu tiên vào những ngành, những lĩnh vực trọng điểm nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Trong điều kiện trình độ phát triển còn thấp, nguồn vốn hạn hẹp, để hiệu quả sử dụng vốn cao cần phải lựa chọn những chỉ tiêu tạo ra đột phá. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, cho nghiên cứu phát minh và ứng dụng triển khai, cho giáo dục đào tạo nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong giai đoạn hiện nay. Trong những lĩnh vực này, yêu cầu vốn lớn, lâu đem lại hiệu quả lại có rủi ro cao nên cần phải sử dụng nguồn đầu tư của Nhà nước. Còn các lĩnh vực sản xuất kinh doanh Nhà nước không cần phải đầu tư bằng ngân sách mà chỉ cần cơ chế chính sách thuận lợi để các thành phần kinh tế khác đảm nhận, Nhà nước chỉ đóng vai trò người chỉ đường, hướng dẫn, tạo điều kiện môi trường an toàn và thuận lợi, tạo cơ hội tiếp cận công nghệ và thị trường… Để đạt mục tiêu trên, Nhà nước cần có những biện pháp tăng cường hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa để giải quyết căng thẳng về vốn ngân sách và tạo cơ hội thu hút nguồn vốn từ dân cư, đồng thời tăng cường hiệu quả sử dụng vốn, công nghệ và thiết bị hiện có.
3.3.6. Phát triển và sử dụng nguồn lực con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Ngày nay, trong thời đại văn minh trí tuệ, thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, không thể nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà lại thiếu nguồn lực con người tương xứng, thiếu những nhà khoa học và những chuyên gia kỹ thuật, quản lý giỏi. Như vậy, nói tới nguồn lực con người ở đây không chỉ là vấn đề số lượng, mà tương ứng với nó là vấn đề chất lượng dựa vào khả năng chuyên môn của lực lượng lao động. Kinh nghiệm của Hàn Quốc đã thành công trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy, đối với tất cả các nước có hoàn cảnh và điều kiện tương tự như Việt Nam, các nguồn lực tự nhiên tuy đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu, nhưng rõ ràng là chúng không đủ đảm bảo cho sự cất cánh của nền kinh tế. Thực tế Hàn Quốc bị chiến tranh tàn phá nặng nề, họ thành công trong hiện đại hóa đất nước không phải nhờ sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên, thậm chí có thể nói là nước rất nghèo tài nguyên thiên nhiên. Vì thế, sự tiến bộ của Hàn Quốc trước hết và chủ yếu là nhờ nguồn lực con người. Xét từ nhiều góc độ khác nhau, điều này hoàn tòa có thể giải thích được. Như chúng ta biết, một mặt con người muốn duy trì sự sống của mình, con người phải dựa vào tự nhiên, khai thác các khả năng của tự nhiên. Nhưng mặt khác, chính sức lao động của con người mới là cái quyết định việc biến các khả năng đó của tự nhiên thành của cải tiêu dùng phục vụ xã hội, bởi vì bản thân các nguồn lực tự nhiên không thể tự tham gia vào các quá trình xã hội và cũng không tự trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Lịch sử cho thấy, không ít nước giàu tài nguyên thiên nhiên, thuận lợi cho phát triển kinh tế và các nước đó phát triển nhanh và trở nên giàu có. Họ đã biết kết hợp được cái thiên nhiên ban tặng với tài năng lao động sáng tạo của dân tộc. Tuy vậy, không ít quốc gia tuy giàu, thậm chí rất giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng chưa trở thành nước phát triển hoặc chưa hoàn thành giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Nguyên nhân tình trạng này là do họ thiếu nguồn nhân lực tương xứng, họ quá thỏa mãn với nhu cầu hàng ngày của con người nên con người không nỗ lực vươn lên. Chính sự dựa dẫm, ỷ lại vào tài nguyên thiên nhiên làm mất tính năng động và ý chí vươn lên của con người trong phát triển.
Nói như vậy để thấy rằng, các quốc gia ngoài những điều kiện tự nhiên thuận lợi hay khó khăn thì sự phát triển nhanh không thể thiếu nguồn nhân lực tưonưg ứng, mà điều quan trọng mang ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội là mặt chất lượng lao động trong nguồn lực con người. Tài nguyên thiên nhiên qua khai thác có thể cạn kiệt, nhưng tri thức con người không khi nào cạn. Chất lượng của nguồn nhân lực lao động phải nói đến khả năng trí tuệ, đến trình độ am hiểm tự nhiên, khoa học kỹ thuật, đến kỹ năng thực hành và hàm lượng trí tuệ trong lao động. Thực tiễn trong sản xuất ở nước ta giai đoạn vừa qua cũng cho thấy, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vai trò của công nghiệp rất lớn, nhưng vai trò của con người cũng không xem nhẹ. Vì mọi giai đoạn của quá trình phát triển ở mọi điều kiện sản xuất, kinh doanh, nhân tố con người vẫn là quyết định. Do quan niệm có phần không đầy đủ về nguồn lực lao động nên trong những năm qua từ đào tạo đến bố trí sắp xếp sử dụng lao động và việc bảo đảm quan hệ tương ứng giữa trình độ công nghệ đưa vào áp dụng với trình độ lao động đều chưa được chúng ta xử lý đúng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, dẫn đến thực trạng:
+ Một số thiết bị hiện đại nhập về nhưng chưa sử dụng được do không làm chủ được công nghệ và công nhân không đủ trình độ vận hành thiết bị nên sản phẩm làm ra không đạt yêu cầu chất lượng mong muốn , công suất sử dụng máy móc quá thấp chỉ đạt 30 - 50%.
+ Thiết bị giống nhau ở hai cơ sở nhập về nhưng sản phẩm với chất lượng khác nhau do trình độ nhân lực trong sản xuất rất khác nhau.
Từ đó cho thấy để có sản phẩm được thị trường chấp nhận có công nghệ tốt chưa đủ mà còn đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực có khả năng nắm bắt bí quyết công nghệ và bộ máy quản lý kinh doanh đủ sức nắm bắt nhu cầu thị trường, có khả năng tổ chức dây chuyền sản xuất nội bộ phù hợp với yêu cầu chế tạo sản phẩm mới. Thời gian qua, hệ thống đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề còn nhiều lỏng lẻo, chưa khoa học, đôi khi chưa thực sự gắn với yêu cầu lao động của xã hội và chất lượng còn hạn chế nên việc tăng cường công tác giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhận thức rõ vấn đề quan trọng này, Đảng ra đã coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu" và nêu ra yêu cầu là làm sao cho người lao động phải có "trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến, gắn với một nền khoa học công nghệ hiện đại" [81]. Yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của nhiều nước trên thế giới đối với nhiệm vụ đào tạo nguồn lực con người.
Xác định như vậy, Nhà nước cần thực thi một số chính sách và biện pháp để thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
- Tập trung cho giáo dục đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng của nguồn nhân lực con người. Giáo dục đào tạo phải đi trước một bước, phải đổi mới giáo dục trên cơ sở kế thừa tất cả những gì là giá trị của giáo dục truyền thống; còn coi trọng việc trang bị kiến thức, học vấn khoa học, công nghệ nhưng không được lãng quên, coi nhẹ, việc giáo dục nhân cách, ý thức công dân. Nói tóm lại, giáo dục cần định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội, công nghệ kỹ thuật và phát triển năng lực bản thân con người. Giáo dục - đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học công nghệ phải đóng góp xứng đáng vào phát huy nguồn lực con người. Trong điều kiện nước ta hiện nay, hình thức và nội dung giáo dục đào tạo có mốt số vấn đề cần chú ý:
+ Đa dạng hóa các hình thức đào tạo.
+ Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy với việc gắn lý luận với thực tiễn, gắn học với hành.
+ Việc mở rộng qui mô đào tạo phải gắn liền với chất lượng, hiệu quả đào tạo và yêu cầu của thị trường lao động xã hội.
+ Điều chỉnh cơ cấu đào tạo để có tương quan hợp lý giữa các cấp học, các ngành nghề và giữa các vùng kinh tế của đất nước.
+ Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng chọn lọc nhân tài cho đất nước.
Khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập thì nội dung, phương pháp giáo dục đào tạo phải có những thay đổi căn bản mới đáp ứng được những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Khi ấy giáo dục đào tạo - khoa học công nghệ sản xuất - thị trường (cả trong và ngoài nước) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa là tiền đề cho nhau, vừa thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Về sử dụng nguồn nhân lực, cần có những biện pháp đồng bộ nhằm bố trí sử dụng hợp lý nguồn sức lao động, đặc biệt là lao động trí tuệ hiện có, tránh sử dụng không đúng chỗ hay không sử dụng có hiệu quả lao động chất xám hiện có, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác sử dụng nguồn nhân lực và tham gia đóng góp vật chất cho quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
Nguồn lực con người cần được xem xét với tư cách vừa là chủ thể, vừa với tư cách là khách thể. Nghĩa là trong thực tế không chỉ xem con người là đối tượng khai thác, mà còn coi là đối tượng phục vụ, là trọng tâm của mọi chính sách cần phải hướng tới. Nói cách khác không nên xem con người chỉ như là công cụ, trái lại con người cần được đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa dạng, cao hơn trong khuôn khổ được pháp luật bảo vệ để họ có thể phát huy ở mức cao nhất tiềm năng vốn có của mình.
Như vậy, Nhà nước cần tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng nhằm gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu bức bách trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Tóm lại trong chương 3, luận án đã làm rõ quá trình đổi mới nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khái quát những nét chủ yếu về thực trạng quá trình này ở nước ta trước và sau 1986 để thấy được thành công và hạn chế trong công nghiệp hóa ở nước ta. Từ những nghiên cứu, làm rõ một số đặc điểm tương đồng, khác biệt giữa Hàn Quốc và Việt Nam khi bước vào một công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luận án đề cập đến khả năng vận dụng một số kinh nghiệm của Hàn Quốc vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Luận án đã mạnh dạn nêu ra những suy nghĩ của tác giả trong sáu vấn đề lớn để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta từ những kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV Kinh nghiem CNHHDH cua Han Quoc.docx