Hiện nay kinh tế nước ta đang trên con đường hội nhập. Việc gia nhập hàng loạt các tổ chức kinh tế mang tầm khu vực và thế giới. Đặc biệt là việc gia nhập WTO đang được xúc tiến, đem lại những cơ hội và thách thức lớn cho tất cả các ngành hay cho cả nền kinh tế nói chung. Chúng ta đã có những đIều chỉnh cơ bản và chiến lược mục đích là tăng tính hội nhập và đem lại nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế. Và thuế là một trong những ngành có nhiều có nhiều cảI cách nhất. Với những chấn chỉnh liên tục và toàn diện ở tất cả các loại thuế nhằm hoàn thiện dần các chính sách thuế, để thuế thực sự đáp ứng được những đòi hỏi, yêu cầu mới của nền kinh tế. Giúp thuế càng phát huy tốt vai trò chủ đạo của mình.
54 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp chống thất thu thuế giá trị gia tăng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ tài khoản, phụ trách chung kế hoạch thu thuế, phụ trách đội thanh tra, đội hành chính- tổ chức.
04 đồng chí Chi cục phó trực tiếp phụ trách các đội thuế phường , chợ, đội nghiệp vụ và đội thu thuế trên khâu lưu thông.
21 đồng chí đội trưởng. Các bộ phận chức năng của Chi cục bao gồm.
- 01 đội hành chính tổ chức: thực hiện chức năng giúp ban lãnh đạo điều hành công tác tổ chức cán bộ, đảm bảo cơ sỏ vật chất kĩ thuật cho việc thưc hiện nhiệm vụ của toàn chi cục.
- 01 đội kế hoạch nghiệp vụ, thực hiện chức năng tham mưu cho lãnh đạo về việc phân bổ kế hoạch, xác đinh mức thuế ấn định, nhận xét đánh giá quy mô của từng phường, chợ để tham mưu cho ban lãnh đạo duyệt bộ thuế, tính thuế, phát hành thông báo thuế, đối chiếu số thu kho bạc, thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế, quản lý và cấp phát sổ sách kế toán, ấn chỉ, hoá đơn.
- 01 đội thanh tra kiểm tra: thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tình hình thực hiện luật thuế của các ĐTNT, xử lý những hiện tượng vi phạm, kiểm tra sổ sách kế toán , hoá đơn của các ĐTNT, kiểm tra việc chấp hành các chế độ thu, nộp thuế của các đội thuế, bộ phận tính thuế.
- 01 đội buôn chuyến.
- 18 đội thuế phường: thực hiện nhiệm vụ quản lý thu tất cả các loại thuế phát sinh trong phạm vi phường, chợ được phân công quản lý.
Chi cục thuế quận Hai Bà Trưng phải quản lý số lượng ĐTNT rất đông, phạm vi rộng vì vậy để theo dõi, chỉ đạo, quản lý thuế một các sâu sát, chặt chẽ, ban lãnh đạo đã phân công cho mỗi đồng chí Chi cục phó trực tiếp quản lý, điều hành một số đội thuế phường, chợ. Ngoài phần theo dõi quản lý thu, mỗi đồng chí còn kiêm nhiệm một số công tác khác đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi cục. Thực tế hoạt động cho thấy cách thức tổ chức quản lý của chi cục là tương đối hợp lý phù hợp với tình hình quản lý thu thuế. Kết quả là, mặc dù còn bỡ ngỡ với hai luật thuế mơi nhưng từ năm 2000 đến nay nam nào chi cục cũng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy vậy cán bộ thuế trong toàn chi cục vẫn tiếp tục học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm đê đáp ứng với tình hình quản lý thu thuế của chi cục và đòi hỏi thách thức mới.
2.1.2. Tình hình quản lý thuế ở chi cục thuế thời gian qua.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta, các khu vực kinh tế và nhất là khu vực kinh tế cá thể đã đem lại một nguồn thu quan trọng và ngày càng tăng cho ngân sách Nhà nước.
Với đặc điểm phát triển kinh tế xã hội, quận Hai Bà Trưng là quận có số thu trọng điểm của thành phố Hà Nội, trong đó thuế công thương nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng tăng qua các năm. Nếu so sánh trong thành phố Hà Nội thì số thu từ khu vực ngoài quốc doanh của quận Hai Bà Trưng lớn thứ hai, chỉ sau quận Hoàn Kiếm. Trên phạm vi Chi cục quản lý thì thuế ngoài quốc doanh chiếm một tỷ trọng lớn nhất, chiếm khoảng 80% trong tổng số thuế. Số thu từ khu vực này ngày một tăng qua các năm. Cụ thể:
Thuế ngoài quốc doanh qua các năm.
Đơn vị: 1000đ
Năm 2004
Năm 2005
Tuyệt đối
Tỷ trọng
Tuyệt đối
Tỷ trọng
Thuế NQD
198.568.000
100%
209.680.000
100%
Trong đó VAT
37.688.000
19%
47.025.000
22.5%
Nhìn vào bảng trên ta thấy số thu từ khu vực ngoàI quốc doanh năm 2005 tăng so với năm 2004 là 11.112.000.000đ (tăng 5,6%), trong đó số thu từ VAT cũng chiếm tỷ trọng khá cao: 19% năm 2004 và 22.5% năm 2005 đIều đó thể hiện rõ tầm quan trọng của khu vực kinh tế này.
Từ năm 1999, khi áp dụng luật thuế GTGT, các ĐTNT GTGT theo phương pháp khấu trừ như công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, tổ sản xuất… được chuyển lên Cục thuế Hà Nội quản lý. Chi cục chỉ quản lý các đối tượng là cơ sở sản xuất kinh doanh công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thu các loại thu từ thuế nhà đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, lệ phí và thu khác. Và nguồn thu VAT của chi cục thì tập chung chủ yếu ở khu vực cá thể.
Báo cáo thực hiện thu khu vực cá thể trên địa bàn quận HBT
Năm 2005
Đơn vị: 1000đ
Stt
Loại thuế
Thực hiện
1
GTGT
47.025.000
2
TNDN
55.256.000
3
Môn bài
14.568.000
4
Tiêu thụ đặc biệt
3.588.000
5
Thuế khác
2.399.000
Cộng
122.836.000
Việc quản lý nguồn thu từ khu vực kinh tế cá thể là một công việc hết sức khó khăn do đặc điểm của khu vực này là số cơ sở sản xuất kinh doanh đông, phân tán, ý thức chấp hành luật pháp của các đối tượng còn thấp… mà luật thuế GTGT tuy áp dụng được vài năm nhưng vẫn còn mới, nên khó tránh khỏi hiện tượng thất thu thuế GTGT ở khu vực này, đòi hỏi chi cuch thuế hải có những biện pháp hữu hiệu tăng cường chống thất thu thuế.
2.2.Tình hình thất thu và chống thất thu thuế GTGT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
2.2.1.Tình hình thất thu trong việc quản lý ĐTNT.
Theo quy định của pháp luật, tất cả các đối tượng muấn đứng ra tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải đăng kí kinh doanh và đăng ký nộp thuế. Song trên thực tế, đối tượng tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần xã hội và nhất là ở khu vực cá thể cứ có vốn, có địa điểm là họ có thể đứng ra kinh doanh, buôn bán nên sự hiểu biết của nhiều người về chính sách thuế còn thấp, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, xu hướng chạy theo lợi nhuận là phổ biến. Vì vậy mà hiện tượng kinh doanh mà không đăng ký dinh doanh, đăng ký nộp thuế còn diễn ra rất nhiều và nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ dẫn đến thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý ĐTNT, ngay từ đầu mỗi năm, Chi cục thuế đã chỉ đạo cho các đội thuế phường, chợ tạo điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh được đăng ký kê khai nộp thuế. Trên cơ sở đó kiểm tra, kiểm soát số hộ thực kinh doanh trên địa bàn phường đăng ký kinh doanh nộp thuế ở chi cục là bao nhiêu. Từ đó đề ra những biện pháp cụ thể, phấn đấu đưa 100% các hộ sản xuất kinh doanh vào diện quản lý thuế.
Để thực hiện tốt 2 luật thuế GTGT và TNDN chi cục thuế Hai Bà Trưng dưới sự chỉ đạo của Cục thuế Hà Nội và với sự phối hợp của các ngành các cấp có liên quan, đã tiến hành ra soát lại các cơ SXKD, cấp đăng ký mã số thuế cho các ĐTNT. Và mấy năm vừa rồi, thông qua công tác rà soát các đối tượng kinh doanh, cấp mã số thuế chi cục thuế đã đưa thêm được rất nhiều hộ vào quản lý thu thuế (năm 2004 đã đưa thêm 655 hộ), và đến cuối năm 2005 chi cục đã cấp mã số thuế cho 17855 đối tượng SXKD trong đó số thực tế quản lý là 17246 đối tượng.
Sở dĩ đạt được kết quả này là do chi cục nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý ĐTNT đối với việc đảm bảo nguồn thu cho NSNN, đồng thời đảm bảo công bằng trong xã hội. Ban lãnh đạo chi cục đã nhắc nhở các cán bộ quản lý cần bám sát địa bàn được phân công, phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp có liên quan như: UBND phường, đội tư vấn thuế phường, ban quản lý thuế chợ… để nắm rõ tình hình những hộ mới ra SXKD mà chưa đăng ký kinh doanh để kịp thời thông báo, quy định về thuế. Đồng thời rà soát những hộ có đăng ký kinh doanh nhưng chưa đăng ký nộp thuế để đưa vào diện quản lý. Bên cạnh đó, để tránh hiện tượng giảm, mất ĐTNT do nghỉ giả kinh doanh, chi cục thuế đã tăng cường công tác kiểm tra hộ xin nghỉ hẳn, giảI thể bằng cách thực hiện tốt, chặt chẽ quy trình quản lý đối với hộ nghỉ như: phảI có đơn nghỉ kinh doanh đã được hội đồng tư vấn thuế phường xác nhận, danh sách hộ nghỉ kinh doanh được kiểm tra thường xuyên. Đối với những hộ “nghỉ giả” (có đơn xin nghỉ nhưng vẫn kinh doanh) đều bị xử phạt theo pháp luật. Tuy nhiên, cho dù việc thực hiện quản lý ĐTNT có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số nguyên nhân khác dẫn đến bỏ sót ĐTNT, gây thất thu cho NSNN.
Tuy việc rà xoát ĐTNT để cấp mã số thuế được tiến hành khá tốt song do địa bàn quận có nhiều hộ SXKD nhỏ, không thường xuyên, có tính mùa vụ, sự biến động ngành nghề, địa đIểm, thời gian kinh doanh lại diễn ra không thường xuyên nên bỏ sót hộ quản lý và ghi thu là việc khó tránh khỏi.
Để thấy rõ tình hình thất thu về số hộ, ta nghiên cứu bảng sau:
Tình hình quản lý ĐTNT ở chi cục Hai Bà Trưng
Qua các năm
Năm
Số hộ
kinh
doanh
Số hộ quản
lý thuê
% quản
lý/kinh doanh
Số hộ
ghi thu
% ghi
thu/quản
lý
2004
16.865
15.231
90%
12.869
76,3%
2005
17.885
16.763
93,7%
14.566
81,4%
Theo số liệu ở bảng ta thấy, trong năm 2005 chi cục đã có nhiều tiến bộ trong việc quản lý ĐTNT, tỷ lệ đối tượng nộp thuế so với số lượng hộ thực kinh doanh đạt 93,7% tăng 3,7% so với năm 2004. Đạt kết quả này là do có nhiều bám sát địa bàn, phát hiện các hộ mới ra SXKD hoạc các hộ kinh doanh mà không đăng ký kinh doanh để đưa vào diện quản lý. Song vẫn còn tình trạng hộ không đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế mà thực tế vẫn kinh doanh. Những hộ này chủ yếu là những hộ kinh doanh sớm tối, không có địa đIểm ổn định hoạc những hộ SXKD phân tán, hoạt động tại nhà, ngõ, xóm rất khó phát hiện.
Còn về phần “nghỉ giả” của các hộ thì sao? Việc xin nghỉ giả kinh doanh hết sức phức tạp, nó không chỉ ảnh hưởng đến nhiệm vụ thu của chi cục và sự công bằng giữa các hộ kinh doanh mà còn là một kẽ hở cho các hộ SXKD trốn lậu thuế. Chi cục đã đưa hộ nghỉ kinh doanh vào theo dõi trên sổ sách để nắm bắt tình hình.
Tình hình nghỉ kinh doanh ảnh hưởng rất lớn đến số thu hàng tháng của chi cục, đặc biệt là thuế GTGT. Vì thuế GTGT được thu hàng tháng, sự biến động về số hộ trong tháng gây tình trạng thất thu vì thực tế có những hộ báo nghỉ kinh doanh nhưng vẫn kinh doanh hoạc kinh doanh ngầm dưới dạng khác để được miễn thuế. Hầu hết những hộ này thuộc ngành thương nghiệp vì ngành này không phức tạp, dễ dàng di chuyển địa đIểm kinh doanh, số hộ kinh doanh trong ngành phát sinh thường xuyên, khó quản lý, theo số liệu đIều tra của cơ quan quản lý thị trường thì trong năm 2005, mặc dù đã kiểm tra, phát hiện và xử phạt rất nhiều trường hợp những cơ sở kinh doanh “nghỉ giả” song trung bình hàng tháng có 337 số hộ xin nghỉ, nhưng thực tế có khoảng 15% trong vẫn hoạt động kinh doanh.
Trong tổng số thuế GTGT thất thu, số thất thu từ hộ nghỉ giả thường khá cao. Ta có thể ước tính số thuế GTGT thất thu do nghỉ giả thông qua bảng sau:
Ước tính số thuế GTGT thất thu do hiện tượng “nghỉ giả”
Chỉ tiêu
Năm 2005
Số hộ ghi thu bình quân tháng
16.540
Số hộ nghỉ kinh doanh bình quân tháng
337
Tỷ lệ nghỉ giả
2,1%
Số hộ nghỉ giả bình quân tháng
32
Số thuế GTGT ghi thu bình quân hộ/năm
1.367.660
Số thuế GTGT ghi thu bình quân hộ/tháng
115.940
Số thuế GTGT thất thu do nghỉ giả bình quân/tháng
3.452.350
Số thuế GTGT thất thu do nghỉ giả bình quân/năm
37.617.860
Qua việc phân tích đánh giá tình hình thất thu do quản lý ĐTNT chưa tốt, ta có thể rút ra nhận xét: mặc dù chi cục thuế đã có nhiều cố gắng song nhìn chung tình hình bỏ sót ĐTNT, hiện tượng “ghỉ giả” còn phổ biến gây ra một khối lượng thất thu khá lớn, chi cục thuế đã tìm hiểu nguyên nhân:
- Về mặt chủ quan:
+ Trong công tác quản lý, còn có cán bộ chưa nhận thức đúng trách nhiệm của mình, chưa đI sâu đI sát tình hình biến động trên địa bàn mình phụ trách. Vì vậy chưa theo dõi được sát tình hình các hộ sản xuất mới ra SXKD, chuyển địa đIểm kinh doanh, thay đổi tên chủ…
+ Đội thuế, cán bộ thuế còn nể nang, chưa cương quyết trong việc xử lý sai phạm.
+ Lực lượng quản lý, kiểm tra còn quá mỏng trong khi phảI quản lý số lượng ĐTNT lớn, hoạt động của cán bột thuế phảI làm việc đơn lẻ, phân tán gây khó khăn cho công tác quản lý.
+ Trình độ nghiệp vụ: kinh nghiệm của một số cán bộ còn hạn chế, tinh thần đối với công việc chưa cao, chưa đI sâu vào thực tế hoạt động SXKD.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Do ý thức chấp hành pháp luật của các đối tượng kinh doanh chưa cao, có xu hướng chạy theo lợi nhuận. Nhiều người còn cố tình lẩn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của cán bộ thuế, cố tình trốn, lách thuế bằng nhiều thủ đoạn.
+ Số lượng ĐTKD có quy mô rất nhiều, hoạt động không ổn định, thường xuyên thay đổi địa đIểm… cũng làm ảnh hưởng đến tình hình quản lý ĐTNT, gây thất thu cho NSNN.
+ Chế độ quản lý còn rườm rà, một đơn vị muốn ra kinh doanh phảI đăng ký với 2 cơ quan, gây phiền hà cho người ĐKKD.
NgoàI ra công tác cấp phát ĐKKD chưa phát huy được hiệu quả, chưa xử lý nghiêm minh các ĐTKD kinh doanh mà không ĐKKD. Việc phối hợp, trao đổi thông tin giữa các phòng kế toán quận (nơI cấp phát ĐKKD) và chi cục thuế còn chưa thường xuyên, chặt chẽ cũng là nguyên nhân gây nên hiện tượng thất thu cho NSNN.
Qua phân tích tình hình quản lý ĐTNT ở chi cục thuế quận Hai Bà Trưng, ta nhận thấy tình hình thất thu thuế nói chung và thất thu thuế GTGT nói riêng trong quản lý ĐTNT còn rất lớn, mỗi năm có thể lên đến hàng trăm triệu.
Tuy nhiên đây mới chỉ là tình hình thất thu về việc quản lý ĐTNT trên địa bàn cả dạng quản lý được và dạng chưa quản lý được xảy ra chủ yếu ở ngành thương nghiệp và ăn uống. Và nó đã gây một số lượng thuế không nhỏ cho NSNN. Song bên cạnh đó số thuế thất thu do việc quản lý không sát căn cứ tính thuế xảy ra không kém phần nghiêm trọng. Để đạt được số thu sát với thực tế, công tác quản lý căn cứ t tính thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nừu quản lý căn cứ tính thuế không chặt chẽ, sát thực tế sẽ gây ra thất thu thuế lớn, không giảI quyết tốt được mối quan hệ giữa lợi ích của ĐTNT của nhà nước, đồng thời nó gây mất công bằng xã hội mà một trong những nhiệm vụ quan trọng của thuế là đảm bảo công bằng xã hội.
2.2.2.Tình hình thất thu về căn cứ tính thuế:
Ta biết, các thành phần kinh tế nhất là thành phần kinh tế cá thể (đối tượng quản lý chủ yếu của chi cục), có nhiều loại khác nhau, mức độ quy mô, tính chất kinh doanh cũng khác nhau, trình độ các chủ SXKD còn hạn chế. Hầu hết các hộ SXKD chưa thực hiện hoạc thực hiện chưa tốt chế độ sổ sách kế toán, nên hiện nay ở khu vực kinh tế này chủ yếu áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp nên việc tính thuế GTGT phải nộp vẫn dựa trên doanh thu của các hộ SXKD. Vì vậy quản lý tốt doanh thu sẽ là việc quan trọng trong nhiệm vụ chống thất thu thuế GTGT. Hơn nữa việc sử dụng hoá đơn khi mua hàng hoá chưa trở thành thói quen của người dân. Do đó việc xác định đúng căn cứ tính thuế GTGT là rất khó khăn, đòi hỏi cán bộ thuế phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, đi sâu nắm bắt được tình hình SXKD của các hộ SXKD trên địa bàn, tốc độ lưu chuyển hàng hoá của từng ngành trên thị trường. Từ đó có căn cứ để kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế một cách chính xác. Tuỳ theo từng loại hình, quy mô sản xuất kinh doanh và mức độ thực hiện sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ mà yêu cầu về quản lý doanh thu sẽ khác nhau. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, căn cứ tính thuế sẽ là doanh thu mà hộ kê khai. Còn đối với những đối tượng mà không thực hiện tốt hoạc không thực hiện chế độ sổ sách thì căn cứ tính thuế sẽ là doanh thu do cơ quan thuế ấn định.
+ Thất thu trong quản lý doanh số ấn định.
Cơ quan thuế phải ấn định doanh thu tính thuế cho những hộ không hạch toán được đầu ra, đầu vào. Số lượng hộ này ở quận Hai Bà Trưmg là rất lớn chiếm 81,3% trên tổng số hộ.
Doanh thu tính thuế được ấn định trong một thời gian nhất định (3,6,12 tháng) tuỳ theo quy mô kinh doanh và mức độ thực hiện chế độ sổ sách kế toán của hộ SXKD, nếu trong thời gian ổn định thuế, nếu có số có bổ sung ngành nghề, mặt hàng kinh doanh thì phải khai báo với cơ quan thuế tính lại số thuế phải nộp.
Theo quy định, hộ mới ra kinh doanh hoạc sắp hết thời hạn ổn định thuế phải kê khai doanh số bình quân tháng, cán bộ thuế căn cứ vào kê khai của hộ SXKD kết hợp với điều tra doanh số trọng điểm của từng ngành, từng điạ bàn để xác định doanh số điển hình làm căn cứ tham khảo khi xác định doanh số chung của các hộ hàng tháng.
Mứ doanh số ấn định thông qua hội đồng tư vấn thuế phường, chợ tham gia ý kiến cho từng hộ. Sau đó thực hiện công khai hoá mức doanh số dự kiến cho các hộ mới ra SXKD và các hộ phải điều chỉnh doanh số khi hết hạn ổn định thuế, nếu không có ý kiến thắc mắc của hộ kinh doanh thì mức doanh số này được lãnh đạo chi cục duyệt và làm căn cứ tính thuế.
Việc quản lý doanh thu đối với phương pháp ấn định là rất phức tạp, để có được một mức doanh thu ấn định hợp lý, sát với thực tế phải thực hiện qua nhiều bước, nhiều bộ phận cùng tham gia xem xét. Nhưng nếu thực hiện tốt sẽ đem lại hiệu quả cho việc quản lý doanh thu, đồng thời tạo tâm lý ổn định cho các ĐTNT. Trong quy trình ấn định doanh thu, việc kiểm tra của cán bộ thuế là rất quan trọng vì đối tượng nộp thuế chạy theo lợi nhuận, luân tìm cách giấu doanh số, hạ thấp doanh số nên chỉ căn cứ vào phần kê khai của ĐTNT sẽ có sự chênh lệch lớn gữa doanh số ấn định và doanh số thực tế. Cán bộ thuế yêu cầu cung cấp thông tin, số liệu cần thiết cho việc xác định doanh thu, đồng thời quan sát,ghi chép các yếu tố liên quan đến số thu: lưu lượng khách hàng, phương tiện chở hàng, hệ thống kho tàng, số lượng hàng hoá têu thụ … trong thời điểm kiểm tra. Sau đó so sánh đối chiếu với các hộ kinh doanh cùng ngành nghề, quy mô trên địa bàn. Nếu thực hiện tốt việc kiểm tra sẽ đảm bảo thu đúng , thu đủ vào NSNN, tránh được hiện tượng thất thu.
Do đặc điểm của thành phần kinh tế cá thể trên địa bàn quận rất phức tạp, việc thực hiện sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ còn kém, chi cục áp dụng thu theo phương pháp ấn định là chủ yếu. Vì vậy, việc xác định doanh số ấn định chính xác, sát với thực tế và được tiến hành thường xuyên kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình thực hiện nhiệm vụ thu của chi cục. Chính vì vậy việc điều chỉnh doanh số phải đựơc tiến hành một cách thường xuyên để đảm bảo công bằng giữa các hộ SXKD. Mức điều chỉnh lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế, tốc độ lưu chuyển hàng hoá trên thị trường và tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của ĐTNT. Thông thường mức điều chỉnh được xác định dựa trên biên bản kiểm tra doanh số thực tế của cán bộ thuế. Song việc điều chỉnh doanh số rất khó khăn, tâm lý chung của các đối tượng nộp thuế là không muấn bị điều chỉnh mức doanh thu lên cao vì động chạm đến lợi ích của họ. Hơn nưa trên địa bàn quận nhiều hộ kinh doanh lớn được thuộc các lĩnh vực: kinh doanh vật liệu xây dựng, điện máy, mua bán xe máy… chỉ bày bán tại quầy với số lượng nhỏ nhưng trên thực tế lại đi thuê kho chứa hàng ở nơi khác, phân tán để tránh sự kiểm soát của cơ quan thuế. Chính vì vậy việc điều tra doanh số là rất khó khăn trong khi đội ngũ cãn bộ thuế còn ít, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các ban ngành có liên quan. Vì vậy dẫn đến hiện tượng thất thu NSNN.
Trong những năm qua, công tác quản lý doanh thu ấn định trên địa bàn đẫ đạt được những kết quả khích lệ. Năm 2005 chi cục thuế đã tiến hành điều chỉnh doanh số ấn định cho 3213 lượt hộ với:
- Tổng mức doanh thu cũ 22.304.341.000
- Tổng mức doanh thu mới 28.156.326.000
- Tổng thuế cũ 2.081.982.000
- Tổng thuế mới 2.721.867.000
Doanh thu tăng 5.851.985.000
Thuế tăng 639.885.000
Chi cục đã có nhiều cố gằng trong việc khảo sát điều chỉnh doanh số ấn định. Chi cục thuế đã tổ chức khảo sát địa bàn dựa trên chỉ tiêu điều chỉnh từng quý, từng tháng của Cục thuế giao. Cái khó khăn hơn là : do mức thu nhập của hộ cá thể còn thấp nên việc ra soát, điều chỉnh doanh thu còn nhiều khó khăn, và gặp phải nhiều phản đối quyết liệt từ phía người nộp. Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng vẫn còn nhiều hộ chưa được điều chỉnh doanh số cho sát với thực tế, việc xác định lại doanh thu và mức thuế khởi điểm đối với các hộ mới ra sản xuất kinh doanh còn thấp hơn nhiều so với thực tế quy mô kinh doanh. Trong năm chi cục đã xác định lại doanh thu tới 3-4 lần nhưng nhìn chung mức doanh thu ấn định vẫn còn thấp hơn so với thực tế. Cá biệt có một số hộ sản xuất kinh doanh lớn hơn như: vật liệu xây dựng, ăn uống, bia hơi…, mức doanh thu khoán mới chỉ đạt 30- 40% so với doanh thu thực tế.
Theo điều tra của đội kiểm tra điển hình, tình hình thất thu doanh thu ấn định của một số hộ thuộc ngành nghề khác nhau của chi cục thuế trong năm 2004 như sau:
Bảng kết quả điều tra doanh số điển hình
Đơn vị: 1000đ
Tên hộ
Ngành
nghề
Doanh
số ấn
định
Doanh
số điều
tra
Phần trăm ấn
định/ điều tra
Lê Phú Hà
Bia hơi
30.620
36230
84%
Trần Bích thảo
Bi-a,tennis
22.058
29.131
75%
Vũ Thi Lan
Gội đầu
3000
4000
75%
Trần Văn Nam
BánVLXD
11.000
13.000
84%
Cộng
66.678
82.361
15.683
81%
Theo kêt quả điều tra trên ta thấy doanh số ấn định chỉ đạt 81% so với doanh thu điều tra, tình hình này gây một lượng thất thu không nhỏ cho NSNN. Thưc ra, doanh thu ở đây mới chỉ là dựa trên số liệu điều tra của cục thuế chứ thực tế doanh thu của các hộ có thể lớn hơn rất nhiều so với doanh số điều tra. Do vậy số thuế thất thu rất nhiều.
Nguyên nhân chính của việc xác định không đúng doanh số ấn định là:
- Do việc ấn định doanh thu thường mang tính chủ quan của cán bộ thuế, phụ thuộc vào trình độ nghiệp vụ, kinh nghiêm quản lý và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ thuế.
- Việc tự kê khai doanh số của các hộ SXKD còn mang tính hình thức, việc kiểm tra của cán bộ thuế chưa thường xuyên, còn có trường hợp cán bộ thuế còn dựa vào số thu do chi cục thuế giao xuống để đIều chỉnh doanh thu mà không quan tâm đến tình hình thực tế kinh doanh trên địa bàn mình phụ trách, nên mặc dù doanh số ấn định thường tăng 30% so với doanh thu kê khai nhưng vẫn chỉ bằng khoảng 80% so với doanh thu thực tế.
- Số lượng cơ sở SXKD trên địa bàn quận rất lớn, địa đIểm phân tán, quy mô, ngành nghề biến động liên tục. Do đó cán bộ thuế gặp rất nhiều khó khăn, số lượng cán bộ còn ít, một cán bộ phảI đảm nhận một số lượng lớn cơ sở SXKD trên một địa bàn rộng nên việc kiểm tra, giám sát còn khó khăn.
Chính vì những lý do trên mà doanh thu ấn định mới chỉ đạt khoảng 81% so với thực tế. Do vậy việc thất thu về doanh số là khá phổ biến và là vấn đề đáng lưu tâm không riêng của ngành thuế mà còn của các ngành có liên quan.
+ Thất thu trong quản lý doanh thu kê khai.
Các hộ SXKD có thực hiện sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ hàng tháng sẽ tự kê khai, tự tính thuế GTGT và nộp tờ khai chi cục thuế. Dội thuế tiến hành kiểm tra phát hiện những lỗi sai, để nếu có ghi sai phảI liên hệ với ĐTNT để đIều chỉnh.
Qua hơn năm năm thực hiện luật thuế GTGT,nhưng thực tế kiểm tra của cơ quan thuế đã phát hiện nhiều cơ sở chưa đúng việc việc ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán, cố tình khai man trốn thuế. Việc kiểm tra, quan sát là rất khó khăn. Đối tượng phục vụ chủ yếu của khu vực này là người tiêu dùng, họ chưa có thói quen đòi hoá đơn khi mua hàng hoá lên người bán thường che giấu doanh số bán bằng cách không phát hoá đơn khi bán hoạc thoả thuận với khách hàng ghi hoá đơn thấp hơn giá bán thực tế để trốn thuế. Hiện tượng trốn thuế ảnh hưởng lớn đến số thu NSNN, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật và do đó ưu đIểm của việc áp dụng luật thuế GTGT là hạn chế trốn lậu thuế không phát huy được.
Để ngăn chặn tình trạng kê khai không đúng thực tế, không nhậnđược tờ khai, đội thuế tiến hành kiểm tra kỹ lưỡng nội dung tờ khai ( đặc biệt chú ý kiểm tra doanh số đầu ra, đầu vào) để đảm bảo tính hợp pháp của tờ khai. Trong khi kiểm tra tờ khai, bằng kinh nghiệm quản lý của mình, nếu cán bộ quản lý thu có nghi ngờ về việc khai không đúng thực tế sẽ chyển tổ kiểm tra đề nghị tiến hành kiểm tra thực tế.
Nhứng ĐTNT theo phương pháp này nếu chưa nộp tơ khai hoạc đã nộp tờ khai nhưng chưa đúng chỉ tiêu, không đủ căn cứ tính thuế thì cơ quan thuế tiến hành ấn định mức thuế GTGT cho hộ đó. Khi ấn định thuế, phảI đIều tra, xác định doanh thu kinh doanh của đối tượng, và tham khảo mức thuế của các ĐTNT khác có cùng ngành nghề, quy mô kinh doanh để mức thuế ấn định sát với thực tế.
Thời gian qua, chi cục đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý các đối tượng này, Chi cục đã thường xuyên kiểm tra việc tiến hành ghi chép sổ sách chứng từ, phát hiện những hộ trốn thuế, truy thu thuế.
Trong vàI năm vừa rồi, công tác quản lý các hộ nộp thuế theo phương pháp kê khai ở chi cục đã có nhiều tiến bộ do chi cục đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động ĐTNT hiểu và thực hiện chế độ sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ khi mua bán hàng hoá. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc kê khai nộp thuế của ĐTNT vá sử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm kê khai doanh số thực tế phát sinh.
Tuy nhiên trong thực tế vẫn có hộ cố tình kê khai doanh số thực tế thấp hơn thực tế kinh doanh. Tuy chi cục đã có nhiều cố gắng trong công tác đIều tra, giám sát việc thực hiện ghi chép sổ sách của những hộ sản xuất kinh doanh nhưng do số lượng công việc nhiều mà số cán bộ còn ít nên việc kiểm tra còn chưa được thường xuyên, kỹ lưỡng. Bên cạnh đó, số hộ SXKD hoạt động dưới hình thức môI giới hay tay ba do hàng hoá mua của cơ sở này song khi vận chuyển lại giao ngay cơ sở khác nên cán bộ thuế rất khó phát hiện doanh thu trống lậu. Hiện tượng “ mất hoá đơn” giả để che giấu doanh thu còn phổ biến, việc ghi chép sai hoá đơn còn nhiều mà việc kiểm tra, đối chiếu giữa liên 1 và liên 2 đã giao cho khách hàng còn rất khó khăn đối với cán bộ quản lý thuế.
Vì thuế GTGT là luật thuế mới nên dù đã cố gắng trong việc quản lý các hộ kê khai nhưng vẫn còn tình trạng kê khai sai nhằm trốn lậu thuế.
Để thấy rõ tình hình thất thu này, ta xem xét kết quả đIều tra doanh thu đIển hình của một số hộ sau:
Kết quả đIều tra doanh số kê khai ở một số hộ đIển hinh
Năm 2004
Đơn vị: 1000 đ
Tên hộ KD
Ngành nghề
Doanh
thu kê
khai
Doanh
thu điều
tra
% chênh
lệch
Nguyễn Bích Vân
Lê Quôc Tuấn
Phan Kim Dũng
Nguyễn Kim Phụng
Vàng bạc
Bán đIện thoai
Bán VLXD
98.400
65.870
37.780
12.540
121.170
74.100
43.425
14.010
23%
12,5%
15%
11,7%
Cộng
214.594
252.705
17,8%
Qua số liệu đIều tra trên, ta thấy doanh số đIều tra so với doanh số kê khai còn chênh loch 17,8%. Như vậy tình hình thất thu về doanh số kê khai trên toàn quận vẫn còn nhiều. Nhưng đây mới chỉ là con số đIều tra, trên thực tế, lượng thất sẽ còn lớn hơn nhiều.
Vì vậy cần tăng cường các biện pháp quản lý doanh số kê khai, xử phạt thật nghiêm các trường hợp cố tình kê khai sai doanh số thấp hơn thực tế. Đặc biệt đối với các hộ SXKD nộp theo phương pháp khấu trừ, cần kiểm tra chặt chẽ hoá đơn đầu vào, phát hiện sử dụng hoá đơn giả, nếu có đIều kiện so sánh với liên 1 ( kết hợp với cục thuế, Tổng cục thuế, các nghành có liên quan).
2.2.3. Tình hình thất thu nợ đọng.
Hiện tượng nợ đọng thuế hàng năm không những không động viên đầy đủ kịp thời mà còn gây thất thu cho NSNN.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hiện tượng nợ đọng thuế là khó tránh khỏi. Một mặt là do cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn thua lỗ. Mặt khác do ý thức chấp hành luật pháp của một số đối tượng còn thất, cố tình dây dưa trốn thuế.
Ta biết rằng, để thực hiện thu đúng, thu đủ, thu kịp thời số thuế phảI nộp vào ngân sách nhà nước, chi cục phảI chỉ đạo đồng thời công tác của các bộ phận: ghi thu thuế, ra thông báo thuế, đôn đốc thu nộp thuế vào kho bạc tránh tình trạng nợ đọng thuế, dây dưa, cố tình trốn thuế của các hộ cá thể hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận.
Những năm gần đây công tác đôn đốc thu nộp thuế ở chi cục chuyển biến tích cực hơn trước. Chi cục coi công tác đôn đốc thu nộp hàng tháng là trọng tâm quản lý, chi cục đã chỉ đạo tuyệt đối không để nợ đọng sang tháng sau nên tỷ lệ nợ đọng hạn chế thấp nhất, dưới 3% so với số thuế ghi thu.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong công tác đôn đốc thu nộp song ở vàI năm vừa rồi tình hình nợ đọng tuy có giảm đI rất nhiều so với trước nhưng hầu hết ở các chợ phường vẫn còn tồn tại: tính đến cuôI năm 2004, số thuế GTGT tồn đọng là 132.455.000đ, trong đó ngành thương nghiệp nợ đọng nhiều nhất là 4,2% so với ghi thu là do các hộ kinh doanh làm ăn kém hiệu quả và tự nghỉ bỏ kinh doanh, đồng thời cán bộ quản lý, chưa đI sâu đI sát thực tế nên không kịp thời báo cáo với ban lãnh đạo chi cục, gây nợ đọng lưu qua các tháng. Mặt khác còn có một số hộ chây ỳ trong việc nộp thuế làm giảm thu cho NSNN.
Chi cục đã phối hợp với công an phường, hội đồng tư vấn thuế phường, chợ, ban quản lý các chợ đã tiến hành xử lý cưỡng chế, thu hồi nợ đọng đối với các hộ dây dưa, chây ỳ. Kêt quả là trong năm 2005 đã thu hồi được 1.951 lượt hộ với với số thu thuế thu hồi là 143.298.000đ.
Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng có nhiều. NgoàI yếu tố khách quan từ phía đối tượng nộp thuế, còn yếu tố chủ quan từ phía chi cục.
- Còn có cán bộ quản lý chưa đôn đốc triệt để các đối tượng nộp thuế vào ngân sách kịp thời, chưa nghiêm khắc xử lý các trường hợp cố tình dây nợ tiền thuế.
- Số thuế nợ chủ yếu rơI vào những hộ buân bán nhỏ, khó thu và những hộ đã nghỉ hẳn, không còn khả năng đòi.
- Việc quản lý thu nộp thuế hiện nay vãn còn nhiều khó khăn do các đối tượng kinh doanh chưa nhận thức được nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN, nên không chấp hành nghiêm chỉnh chính sách thuế, vẫn còn có trường hợp đe doạ, hành hung người thi hành công vụ, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, cấp liên quan.
- Xử phạt còn chưa nghiêm minh, mức tiền phạt còn thất cho nên không có tình răn đe.
2.2.4.Công tác miễn giảm thuế.
Chính sách miễn giảm thuế của nhà nước mang tính chất khuyến khích hỗ trợ các đối tượng SXKD còng gặp khó khăn, góp phần đảm bảo cuộc sống, khuyến khích phát triển SXKD. Song nếu thực hiện không tốt công tác này sẽ là một kẽ hở để các đối tượng SXKD trốn thuế, gây thất thu cho nhà nước.
Theo quy định, những hộ sản xuất kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định đối với công chức nhà nước thì được miễn giảm thuế GTGT và thu nhập doanh nghiệp.
Các đối tượng này phảI làm đơn gửi đến chi cục thuế để xin miễn thuế. Chi cục lập danh sách các hộ xin miễn thuế, gửi xuống tổ thanh tra để tổ kiểm tra phối hợp với đội thuế phường kiểm tra xác minh số thu nhập thực tế mà hộ kinh doanh đạt được trong quá trình kinh doanh. Sau đó đội kiểm tra gửi kiết quả kiểm tra lên chi cục. Chi cục trưởng sẽ duyệt các hộ đủ tiêu chuẩn được miễn giảm thuế.
Nhìn chung công tác miễn giảm thuế ở chi cục Hai Bà Trưng đã làm đúng theo quy trình, hạn chế được thắc mắc giữa các hộ nộp thuế. Trong năm 2005 chi cục đã thông báo miễn thuế cho 2463 đối tượng sản xuất kinh doanh thuộc diện có thu nhập thấp.
Song do việc xác định mức thu nhập được miễn thuế còn mang tính chất chủ quan của cán bộ thuế nên rất dễ gây ra hiện tượng đối tượng nộp thuế trốn thuế. Hơn nữa trong thực tế do tình hình sản xuất kinh doanh thay đổi liên tục, số hộ được miễn thuế ở chi cục thuế đông, số cán bộ ít nên không thể đI sâu, đI sát kiểm tra thường xuyên tình hình hoạt động kinh doanh nên không nắm bắt được mức độ, phạm vi hoạt động của hộ thay đổi, quy mô sản xuất kinh doanh lớn hơn theo thời gian để đưa vào bộ sổ thu thu, dẫn đến tình trạng bỏ sót hộ quản lý, gây thất thu cho NSNN.
Để công tác xet miễn thuế được theo đúng quy trình, yêu cầu đặt ra cho chi cục là phảI kiểm tra xác định đúng thu nhập của các hộ xin miễn thuế và kiểm tra thường xuyên tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, quy mô kinh doanh của các hộ này và kịp thời đưa vào quản lý thu thuế nếu thu nhập của các hộ đó tăng, tránh thất thu cho NSNN.
2.3.Công tác thanh tra kiểm tra chống thất thu thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra là một khâu quan trọng trong công tác chống thất thu thuế. Làm tốt công tác này không những giảm tỷ lệ thất thu, tăng thu cho NSNN, góp phần vào việc hoàn thành kế hoạch thu hàng năm mà còn uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời những sai phạm của ĐTNT trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Xử lý nghiêm minh các ĐTNT có hành vi vi phạm cố tình trốn thuế, có ý nghĩa răn đe giáo dục đối với các đối tượng nộp thuế, từ đó góp phần tăng cường kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật thuế. Và cũng trong công tác thanh tra, kiểm tra đành giá đúng được kết quả đã đạt được và những mặt còn tồn tại trong nội bộ ngành thuế, góp phần củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức chi cục.
Nhận thức đựơc tầm quan trọng cuả công tác thanh tra, kiểm tra trong những năm vừa qua, chi cục đã quan tâm chú trọng đến việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra cả về ĐTNT lẫn thanh tra nội bộ chi cục thuế. Đội thanh tra của chi cục đã hoạt động hiệu quả và đạt được những thành tích nhất định.
Những năm vừa rồi công tác thanh tra kiểm tra có phần nặng nề hơn khi đất nước tiến hành hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới và tiến hành các chiến lược phát triển kinh tế. Tổ thanh tra của chi cục thường xuyên kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ của các cơ sở SXKD nộp thuế theo phường pháp khấu trừ và theo phương pháp kê khai doanh thu.
Tổ thanh tra của chi cục hoạt động dưới hai hình thức:
- Kiểm tra định kỳ: mỗi qúy, đội thanh tra kiểm tra định kỳ một lần. Trong thời gian khoảng một tháng kiểm tra toàn diện từ công tác đăng ký kinh doanh đến loại hình kinh doanh, quản lý ĐTNT, tình hình thu nộp thuế nhằm giúp lãnh đạo chi cục có những biện pháp xử lý kịp thời trong việc hướng dẫn các đối tượng nộp thuế kinh doanh đúng ngành nghề, mặt hàng đăng ký. Phát hiện và đưa vào quản lý những hộ phát sinh có biện pháp xử lý kiêm quyết đối với những cơ sở không chấp hành chế độ chính sách của doanh nghiệp.
- NgoàI ra tổ kiểm tra còn tổ chức các cuộc kiểm tra đột xuất cả ĐTNT lẫn các cán bộ quản lý thu, đấu tranh kịp thời với cán bộ thuế trong việc quản lý doanh thu ấn định, ngăn chặn hiện tượng thất thu do va chạm, do thông đồng với ĐTNT dưới nhiều hình thức để giảm doanh thu, giảm mức thuế.
Những năm qua tuy nhiệm vụ thanh tra chống thất thu rất nặng nề song tổ kiểm tra của chi cục đã phối hợp của các tổ khác đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
- Về chống thất thu trong quản lý ĐTNT: đội kiểm tra đã phát hiện với đội thuế phường, với sự giúp đỡ của UBND các phường, ban quản lý chợ… tiến hành rà soát lại các cơ sở SXKD không đăng ký nộp thuế và các cơ sở SXKD mới ra kinh doanh để đưa vào diện quản lý.
Kết quả năm 2005 đã phát hiện đưa thêm 655 cơ sở vào quản lý, cấp mã số thuế. NgoàI ra đội kiểm tra còn lập danh sách các cơ sở có đơn xin nghỉ kinh doanh, tăng cường kiểm tra đột xuất các hộ này. Trong năm tổ kiểm tra đã kiểm tra được 1523 lượt cơ sở có đơn xin nghỉ kinh doanh, phát hiện 46 hộ xin nghỉ giả, truy thu và xử phạt 21.405.000đ.
Tăng cường kiểm tra giám sát các đối tượng kinh doanh sớm tối, kinh doanh không thường xuyên, trong năm chi cục đã tận thu được 3328 lượt hộ kinh doanh vãng lai, số thuế GTGT thu được 58.245.000đ. ngoàI ra còn thu được 158 hộ cho thuê cửa hàng, cửa hiệu số thuế: 135.428.000đ. Thu trong giữ xe đạp, xe máy được 30đIểm, số thuế: 18.534.00đ.
- Chống thất thu về doanh thu mức thuế.
Hàng năm, hiện nay thất thu về doanh thu mức thuế khá phổ biến, gây thất thu lớn cho NSNN, ảnh hưởng đến nhiệm vụ thu thuế của chi cục. Trong năm chi cục đã chú tâm đến kiểm tra, kiểm soát doanh thu mức thuế, kết quả là:
+ Về doanh số kê khai: quan công tác kiểm tra thường xuyên việc chấp hành sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ trong năm đã phát hiện xử lý 1.893 hộ, truy thu thuế và xử phạt hành chính số thuế GTGT là: 24.133.000đ.
+Về doanh số ấn định: trong năm đã đIều chỉnh doanh số ấn định cho 2998 lượt hộ với mức thuế tăng 18,4%.
NgoàI ra chi cục thuế còn phối hợp với phòng kinh tế quận thu 1126 hộ kinh doanh vận tảI 6.234.000đ. Thuế xây dựng nhà tư nhân, một khả năng thu lớn rất phức tạp khó thu. Chi cục phối hợp với UBND các phường và các phòng ngành trong quận nên kết quả trong năm được cục thuế Hà Nội đánh giá là chi cục đứng đầu trong công tác khai thác nguồn thu từ thuế xây dựng.
Tóm lại công tác thanh tra kiểm tra tại chi cục đã đạt kết quả tốt, góp phần giúp chi cục hoàn thành nhiệm vụ thu các năm.
Chương 3. Một số giải pháp tăng cường công tác chống thất thu thuế GTGT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Ngay từ năm 1999, năm đầu tiên áp dụng hai luật thuế mới ( thuế GTGT va thuế TNDN), toàn ngành thuế đã thực hiện tốt hai nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu NSNN và tổ chức triển khai hai luật thuế mới. Luật thuế GTGT là loại thuế mới, mặc dù đựơc ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của chính phủ, các Bộ, các địa phương bám sát tình hình sản xuất kinh doanh, phát hiện khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải pháp hữu hiệu tháo gỡ khó khăn trong khi thực hiện., song công tác thu thuế những năm qua vẫn còn nhiều khuyết điểm chưa hợp lý, tính công bằng chưa cao, chưa tác động tốt đến việc cơ cấu lại nền kinh tế nên tính khuyến khích hay hạn chế trong kinh tế chưa mạnh. Về hành chính, thuế chưa thật đơn giản, rõ ràng, còn duy trì các hình thức thu, nộp lạc hậu. Từ đó dẫn đến tình trạng trốn lậu thuế nhiều, gây thất thu lớn cho NSNN ở mọi lĩnh vực, mọi khu vực, và trầm trọng nhất là ở khu vực kinh tế cá thể.
Đến vài năm nay, để đáp ứng với sự đòi hỏi của quá trình hội nhập nền kinh tế và nhất là việc gia nhập WTO trong một thời gian ngắn tới. Ngành thuế đã được giao nhiệm vụ khá nặng nề đòi hỏi toàn ngành phải phấn đấu hoàn thành dự toán thu, tiếp tục triển khai và cải cách thuế. Trong tình hình này, công tác chống thất thu thuế càng trở lên quan trọng.
Qua phân tích, đánh giá tình hình thất thu thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua em xin đề xuất một số ý kiến về phương hướng và biện pháp nhằm khắc phục tình trạng đó.
3.1. Về chính sách nhà nước.
3.1.1. Về chính sách thuế.
- Qua nghiên cứu ở chương 2, ta thấy có hiện tượng cơ sở đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký nộp thuế hoạc đăng ký chậm gay thất thu một lượng thuế khá lớn. Hiện nay, cơ quan đăng ký cấp phát đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý ĐTNT độc lập với nhau nên việc nắm bắt ĐTNT ra kinh doanh chưa kịp thời, mỗi hộ kinh doanh khi muốn đủ điều kiện để được kinh doanh và đóng góp đúng quy định của pháp luật phải làm thủ tục khai báo với hai cơ quan, nên chăng, giao việc cấp phép đăng ký kinh doanh cho cơ quan thuế đảm nhận, như vậy vừa giảm bớt được thủ tục hành chính, gây phiền hà cho người kinh doanh, vừa thuận lợi cho việc quản lý các đối tượng mới kinh doanh để đưa vào quản lý thuế kịp thời tránh thất thu cho NSNN.
- Cơ sở nộp thuế theo phương pháp trực tiếp phải nộp thuế cao hơn so với cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, vì theo phương pháp trực tiếp thì: số thuế phải nộp = ( giá bán – giá mua) x thuế suất. Trong hiệu số này bao gồm cả về khấu hao cơ bản. Còn phương pháp khấu trừ thuế đã loại trừ khấu hao. Cần nghiên cứu để tạo ra sự bình đẳng giữa hai phương pháp.
- Về thuế suất thuế GTGT trước đây là áp dụng (5,10,20%), lên ảnh hưởng tới việc sản xuất kinh doanh đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trốn thuế. Nhưng hiện nay nhà nước ta đã xây dựng một khung thuế suất đã khá hợp lý với các mức là (0,5,10%) và đang tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng với đòi hỏi mới của nền kinh tế. Một mặt khuyến khích được xuất khẩu, sản xuất kinh doanh trong nước. Mặt khác giảm thiểu hiện tượng trốn lậu thuế gây thất thu cho NSNN.
3.1.2.Một số biện pháp khác.
Nhà nước cần có các biện pháp tăng cường hướng dẫn sử dụng hoá đơn chứng từ trong mua bán trong mua bán hàng hoá, xử lý nghiêm khắc đối với những kẻ in và sử dụng hoá đơn chứng từ giả, truy thu và phạt nặng những người cố tình viết sai hoá đơn trốn thuế. Ngoài ra cần tích cực tuyên truyền cho người dân hiểu và ý thức được quyền và nghĩa vụ trong việc sử dụng hoá đơn khi mua hàng. Tăng cường đội ngũ kiểm tra, thanh tra.
Cần phải có các văn bản quy định rõ ràng trách nhiệm của các ban ngành, các đơn vị có liên quan trong việc thi hành luật thuế như: quản lý thị trường, ngân hàng, viện kiểm sát … để giúp đỡ ngành thuế thực hiện tốt nhiệm vụ.
3.2. Một số biện pháp cụ thể.
Việc thất thu thuế nói chung và thuế VAT nói riêng ở địa bàn quận Hai Bà Trưng là vấn đề mang tinh thời sự nóng bỏng. Các nguồn thu
VAT phát sinh thường xuyên từ địa bàn phường nên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chi cục thuế quận với chính quyền các phường nhằm đảm bảo nhiệm vụ được giao là chống thất thu có hiệu quả về số lượng cơ sở SXKD, về doanh thu, mức thuế, về nợ đọng dây dưa…
+ Về đối tựơng nộp thuế
- Để nắm chắc tình hình các cơ sở SXKD, tình hình chống thất thu về số hộ quản lý, các hộ thuế phường phải kết hợp chặt chẽ với UBND phường, hội đồng tư vấn phường, ban quản lý chợ… đối chiếu tài liệu ĐKKD, rà soát các cơ sở SXKD qua từng số nhà liên tiếp trên đường phố, trong các dãy sạp ở chợ, nắm thêm các hộ buân bán vỉa hè, trong ngõ, hộ lưu động… xác định số hộ thực tế SXKD, hướng dẫn, đôn đốc kê khai đăng ký mã số thuế.
- Cần xây dựng một mạng lưới cộng tác viên cho công tác thuế ở các chợ, phường.
- Phối hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở trong việc tuyên truyền trên loa phát thanh phường về tình hình bỏ sót hộ trong quản lý thuế, vừa tác động đến nhận thức, tư tưởng của đối tượng kinh doanh, vừa thúc đẩy cán bộ thuế nâng cao tinh thần trách nhiệm, hạn chế tuỳ tiện, tiêu cực trong công tác hành thu, hạn chế nghi ngờ của nhân dân với chính sách thuế và cán bộ ngành thuế. Có như vậy mới có thể đưa được tất cả các hộ sản xuất kinh doanh vào diện qủn lý thuế.
- Để công tác chống thất thu vế cơ sở đạt hiệu quả, chi cục cần phát động phong trào thi đua giữa các đội và yêu cầu cán bộ quản lý địa bàn ký cam kết với chi cục về nội dung không bỏ sót cơ sở.
Trong nội dung chống thất thu về cơ sở kinh doanh, cần chú ý các dạng cơ sở sau.
Đối với những hộ buôn bán cố định, nếu chưa đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, thì cán bộ thuế phải chú ý nhắc nhở, đôn đốc buộc các hộ đăng ký nộp thuế để đưa vào sổ hộ quản lý.
Đối với những hoạt động xây dựng, sửa chữa nhà tư nhân trên điam bàn, đội thuế phường cần phối hợp với ngành xây dựng và công an đến kiểm tra từng công trình xây dựng, yêu cầu chủ thi công phải kê khai nộp thuế.
Đối với các hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại các làng truyền thống như may mặc, sản xuất đồ gốm… cần phối hợp với phường thống kê lại các số hộ và buộc các đối tượng trên phải nộp thuế.
Đối với những hộ kinh doanh vỉa hè không có địa điểm ổn định: trước măt là lập danh sách đưa vào đưa vào quản lý trong sổ bộ phụ, cần theo dõi thường xuyên, có thể thu thuế định kỳ theo tuồn để không mất nguồn thu, dần dần đưa vào bộ sổ chính để quản lý.
Đối với cơ sở cố tình chống đối hoạc núp bóng tập thể để kinh doanh, cần xử lý hành chính thông thường. Nếu vi phạm nhiều lần thì có thể truy tố trước pháp luật.
Đối với những cơ sở hoạt động buôn chuyến ta cần quản lý chặt chẽ bằng cách: cấp ĐKKD dưới hình thức kinh doanh thương mại, cấp mã số thuế đối với những đối tượng nằm trong địa phương quản lý, yêu cầu cần thực hiện mở số sách kế toán, sử dụng hoá đơn khi bán hàng và phải đăng ký với cơ quan thuế mỗi lần chuyển hàng đi, hàng về và hàng tháng nộp thuế như cơ sở kinh doanh thương mại. Còn đối với đối tượng không ĐKKD nhưng cố tình hoạt động, cần phải phạt nặng buộc đối tượng phải kê khai, xin cấp ĐKKD và đưa vào diện quản lý theo địa phương.
Đối với những cơ sở SXKD xin tạm nghỉ kinh doanh thì chỉ giải quyết khi có lý do chính đáng. Phải thường xuyên kiểm tra giám sát liên tục trong thời kỳ nghỉ kinh doanh, nếu có phát hiện cơ sở có đơn xin nghỉ mà vẫn kinh doanh thì cần xử lý thật nghiêm. Đối với những cơ sở xin nghỉ kinh doanh nhiều tháng nên tạm thu dữ ĐKKD và hoá đơn bán hàng nhằm tránh hiện tượng các hộ này sản xuất ngầm, trốn lậu thuế.
+ Một số biện pháp về chống thất thu về doanh số mức thuế.
Qua nghiên cứu thì tình hình thất thu về doanh số mức thuế ở chi cục Hai Bà Trưng còn rất nghiêm trọng cả về kê khai lẫn doanh số ấn định.
- Đối với doanh số kê khai.
Việc quản lý căn cứ tính thuế của các hộ sản xuât kinh doanh áp dụng phương pháp kê khai là quản lý trên sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ, để thực hiện tốt quản lý ĐTNT theo phương pháp kê khai đòi hỏi phải tăng cường triển khai và áp dụng tốt chế độ sổ sách hoá đơn chứng từ.
Cán bộ thuế phải hướng dẫn cơ sở sản xuất kinh doanh phải mở sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ theo đúng quy định, tăng cường kiểm tra hoá đơn theo định kỳ. Lập biên bản xác nhận quản lý và sử dụng hoá đơn, kịp thời xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm về hoá đơn.
Tăng cường kiểm tra đột xuất việc xử dụng hoá đơn và ghi chép sổ sách, kế toán các đối tượng kinh doanh, kịp thời phát hiện và xử lý xuất bán hàng không ghi hoá đơn, bỏ ngoài sổ sách khối lượng bán hàng ra.
Đối với những hộ đăng ký nộp thuế theo phương pháp kê khai mà không thực hiện nghiêm chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ thì chi cục phải ấn định mức thuế cho đối tượng này và mức thuế ấn định phải cao và kiêm quyết xử lý phạt hành chính theo nghị định 22/CP của Chính phủ.
Cán bộ thuế cần kiểm tra việc hạch toán sổ sách, khoá sổ cuối kỳ của các đối tượng nộp thuế, đối chiếu giữa hoá đơn mua bán với sổ sách kế toán, giữa sổ sách kế toán với hàng hoá thực tế tồn kho. Có như vậy mới tránh được tình trạng trốn lậu thuế.
Hơn nữa, cán bộ thuế cần tăng cường kiểm tra việc kê khai căn cứ tính thuế của đối tượng nộp thuế từng tháng. Nếu thấy có chênh lệch giữa số liệu kê khai và số liệu quyết toán theo nguyên nhân khách quan thì yêu cầu cơ sở kê khai bổ xung kịp thời. Đối với đối tượng cố tình kê khai sai, cán bộ thuế phải tiến hằnh truy thu và xử lý phạt theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, theo quy định hàng quý, các đội thuế phải bố trí lịch kiểm tra chéo giữa các nhóm với nhau, tránh tình trạng thu khép kín nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực trong quá trình thu thuế.
- Đối với doanh số ấn đinh.
Hiện nay, hầu hết các cơ sở SXKD ở quận đều áp dụng nộp thuế GTGT theo phương pháp ấn định.
Cán bộ thuế cần kết hợp chặt chẽ với hội đồng tư vấn, các ban quản lý chợ điều tra theo dõi, chặt chẽ về tình hình biến động giá cả hàng hoá, về hoạt động sản xuất kinh doanh, về thu nhập để có tài liệu sát, đúng để giúp cho việc xác định doanh thu, mức thuế ấn định của từng cơ sở sát với thực tế kinh doanh hoạc đưa các cơ sở có thu nhập tăng lên vào diện nộp thuế, đảm bảo công bằng giữa các đối tượng kinh doanh.
Cần điều chỉnh kịp thời doanh số ấn định của những hộ kinh doanh có thay đổi lớn về quy mô, tình hình hoạt động, kể cả trong thời hạn ổn định thuế.
Việc điều điều tra doanh số ấn định phải thực hiện đúng theo quy trình, cán bộ thực hiện phải vô tư, khách quan có trách nhiệm.
Công khai ổn định mức thuế đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh là một biện pháp hiệu quả. Trước khi ổn định, mức thuế của từng hộ được đưa ra cho các tổ ngành hàng, tổ dân phố đề nghị mức thuế của từng hộ một cách công khai, dân chủ với tài liệu đầy đủ mang tính thuyết phục, với sự phân tích có tình, có lý sẽ tạo được không khí thoải mái, lành mạnh góp phần củng cố lòng tin của các hộ sản xuất kinh doanh với cán bộ thuế và chính sách thuế. Từ đó tạo thuận lợi cho việc thu thuế.
Hàng tháng, tổ thu thuế cần phối hợp với Uỷ ban nhân dân phường, phổ biến công khai qua loa đài phường về kết quả thu thuế, tình hình nợ đọng dây dưa, các trường hợp cần điều chỉnh doanh thu, các trường hợp miễn giảm thuế, các trường hợp bị xử lý vi phạm… để nhân dân được biết và tham gia góp ý kiến. Ngoài ra cần phải có chế độ biể dương, khen thưởng kịp thời những người tích cực đấu tranh.
Hàng quý Cục thuế tổ chức kiểm tra chéo giữa các quận để nhận định, đánh giá về mức độ thất thu của quận và đề ra yêu cầu trong quản lý.
3.2.2.Các biện pháp khác.
- Tập trung xử lý thật tốt quy trình nghiệp vụ và các biện pháp hành thu.
- Phân bổ kế hoạch thu năm cho từng đội, trạm, phường, chợ khi nhận kế hoạch được giao. Các đội, trạm tiến hành giao kế hoạch thu tới từng cán bộ, có chế độ thưởng, phạt thích hợp, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện kế hoạch.
- Các đội thuế phường, chợ tiến hành phân loại nợ đọng, có kế hoạch cụ thể để tập trung thu hết số nợ đọng vào NSNN. Những hộ cố tình dây dưa chây ỳ phải hoàn thiện hồ sơ để chuyển cơ quan pháp luật xử lý.
- Tăng cường lực lượng kiểm tra cho đội của chi cục, xây dựng một lực lượng thanh tra, kiểm tra có năng lực, trình độ cũng như các đạo đức nghề nghiệp để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuê.
Cán bộ kiểm tra phải có trình độ chuyên sâu, hoạt động mang tính độc lập và đầy đủ quyền hạn nhất định.
- Phải duy trì công tác kiểm tra thường xuyên, xây dựng kế hoạch kiểm tra chặ chẽ, có nội dung vi phạm, thời gian cụ thể. Hàng tháng nên tổ chức khoanh vùng, địa bàn cần kiểm tra và nội dung kiểm tra phải bao gồm tổng thể mọi mặt kể cả cán bộ nộp thuế và đối tượng nộp thuế.
- Chú trọng tới công tác đào tạo cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức.
- Sắp xếp lại cán bộ quản lý cho phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn.
- Tổ chức phong trào thi đua giữa các đội, trạm, cán bộ trong chi cục, biểu dương, khen thưởng kịp thời.
Kết luận
Hiện nay kinh tế nước ta đang trên con đường hội nhập. Việc gia nhập hàng loạt các tổ chức kinh tế mang tầm khu vực và thế giới. Đặc biệt là việc gia nhập WTO đang được xúc tiến, đem lại những cơ hội và thách thức lớn cho tất cả các ngành hay cho cả nền kinh tế nói chung. Chúng ta đã có những đIều chỉnh cơ bản và chiến lược mục đích là tăng tính hội nhập và đem lại nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế. Và thuế là một trong những ngành có nhiều có nhiều cảI cách nhất. Với những chấn chỉnh liên tục và toàn diện ở tất cả các loại thuế nhằm hoàn thiện dần các chính sách thuế, để thuế thực sự đáp ứng được những đòi hỏi, yêu cầu mới của nền kinh tế. Giúp thuế càng phát huy tốt vai trò chủ đạo của mình.
Tuy nhiên, đI sâu vào hoạt động của ngành thuế ta thấy được những vấn đề lớn còn tồn đọng trong công tác quản lý thu thuế, đặc biệt là với thuế GTGT. Chính vì vậy cần phảI có sự chỉ đạo sát sao của UBND các cấp và sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan ngành thuế và các nghành hữu quan để đảm bảo vai trò của thuế.
Chuyên đề của em trình bày đề tàI: “Biện pháp chống thất thu thuế GTGT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng” đã nêu được nhận thức chung về vai trò của thuế GTGT trong nền kinh tế thị trường, thực trạng về tình hình thất thu thuế GTGT trên địa bàn quận Hai Bà Trựng trong vàI năm gần đây. Từ đó dưa ra những biện pháp và kiến nghị của bản thân.
Với sự chuẩn bị và kiến thức còn nhiều hạn chế, chuyên đề thực tập còn có nhiều khuyếm khuyết. Em rất mong sự chỉ bảo nhiệt tình của cô giáo để bản thân em có thêm những kiến thức về lý luận và thực tiễn bổ ích .
Em xin chân thành cảm ơn.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32737.doc