PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính thiết thực của đề tài
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, tự do hóa kinh tế và hội nhập quốc tế là một
vấn đề thời sự quan trọng của mỗi nước, nhất là các nước đang trong giai đoạn phát triển. Mỗi nước phải nhận thức đúng đắn và phải thiết lập các thể chế phù hợp, tuân thủ các quan hệ kinh tế quốc tế cùng những cam kết mang tính toàn cầu, qua đó cùng tạo nên một nền kinh tế đa dạng, hợp tác và cùng phát triển. Hội nhập đang đem đến nhiều cơ hội lớn lao nhưng cũng là thách thức không kém phần cam go cho nền kinh tế đất nước.
Thực tế cho thấy, trong khoảng thời gian những năm gần đây, khối NHTMCP
đã có những bước tiến ngoạn mục, đóng một vai trò không nhỏ vào sự phát triển chung của ngành ngân hàng và nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, khi mà cánh cửa hội nhập đang đến “gõ cửa” từng doanh nghiệp và lộ trình của nó đang ngày một rút ngắn về thời gian thì các Ngân hàng thương mại nói chung và khối các NHTMCP nói riêng đang phải đối mặt với những thách thức nhất định. Thách thức về tiềm lực tài chính, công nghệ, năng lực, kinh nghiệm quản trị, chất lượng sản phẩm dịch vụ Đây chính là vấn đề thời sự, luôn được Nhà nước quan tâm và chỉ đạo sâu sát, NHNN Việt Nam đã đưa ra nhiều biện pháp để thực hiện những chủ trương, chỉ đạo của Nhà nước nhằm giúp các Ngân hàng thương mại mở rộng quy mô hoạt động, hiệu quả kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và hòa nhập tốt với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Một trong những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTMCP Việt Nam trong thời gian tới là tăng vốn tự có. Với nền kinh tế thị trường, vốn tự có là cơ sở hình thành pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vốn tự có còn là yếu tố có ý nghĩa quyết định sống còn đến sự hình thành và phát triển lâu dài của ngân hàng. Giai đoạn từ năm 2006 cho đến nay đã chứng kiến việc đua nhau tăng vốn của các ngân hàng thương mại, nhất là khối các NHTMCP trong nước.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, mặc dầu vốn tự có bình quân của các NHTMCP
có tăng nhưng kết quả việc tăng vốn vẫn chưa đáp ứng hết được những mong đợi của các ngân hàng. Việc tăng vốn tự có nhanh trong một khoảng thời gian ngắn mà không kèm theo những thay đổi chưa chắc đã giúp các NHTMCP nâng cao vị thế và tạo ra những ảnh hưởng tốt đến các quyết định của thị trường, ngược lại có thể tạo thêm nhiều nguy cơ rủi ro tiềm ẩn lớn hơn.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “BIỆN PHÁP GIA TĂNG VỐN TỰ CÓ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM”.
Luận văn xin được đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết đồng thời nâng cao hiệu quả của việc gia tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tập trung vào các nội dung sau:
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về vốn tự có của ngân hàng thương mại, nắm bắt
được chức năng, thành phần cơ bản của vốn tự có của ngân hàng thương mại.
Hiểu được hoạch định nhu cầu vốn của ngân hàng và cách thức tăng vốn tự có
của ngân hàng thương mại.
- Tìm hiểu và phân tích thực trạng quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP tại
Việt Nam. Trên cơ sở đó rút ra ưu điểm và hạn chế trong kết quả đạt được, phân tích các nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó của quá trình tăng vốn tự có.
- Đưa ra các giải pháp, đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là xem xét quá trình tăng vốn tự có của
các NHTMCP tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, đánh giá những mặt được và chưa được để đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quá trình tăng vốn tự có.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng kết hợp với lịch sử; phương pháp so sánh phân tích; phương pháp thống kê kết hợp với các lý luận khoa học để làm rõ và xác định được bản chất vấn đề cần nghiên cứu từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp để giải quyết vấn đề.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận văn đã nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và các NHTMCP nói riêng khi hội nhập kinh tế thế giới. Qua đó luận văn phân tích thực trạng, nêu lên những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả quá trình tăng vốn của các NHTMCP. Dựa trên lý luận khoa học cùng với những nghiên cứu của bản thân, tư duy của nhiều nhà kinh tế để có thể đưa ra các giải pháp đề xuất giúp cho các NHTMCP nâng cao hiệu quả quá trình tăng vốn tự có, qua đó khẳng định vị thế của mình trong thời kỳ phát triển và hội nhập.
6. Kết cấu của luận văn
Bố cục của luận văn được bố trí gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vốn tự có của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng và kết quả đạt được của quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam
Chương 3: Biện pháp gia tăng vốn tự có của các NHTMCP tại Việt Nam
83 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1756 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp gia tăng vốn tự có của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống thông tin - phản hồi... đều phải tăng và đòi hỏi tốt
hơn trước là những áp lực đầu tiên.
Các nghiệp vụ ngân hàng hiện tại còn quá đơn giản và chưa đa dạng. Hầu hết
các ngân hàng thương mại cổ phần vẫn chỉ phát triển các sản phẩm truyền thống liên
quan đến nghiệp vụ tín dụng, nhận gửi và thanh toán. Hệ thống dịch vụ ngân hàng
thương mại trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu
- 59 -
cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động
vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng
là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
Dạo quanh các chi nhánh và phòng giao dịch của một số ngân hàng đã “bành
trướng” quá nhanh trong thời gian qua, có thể thấy rõ sự chuệch choạc của đội ngũ
nhân viên khi người thì mặc đồng phục, người thì mặc quần áo như sắp đi... cắm trại;
giao dịch thì chậm chạp, sai hỏng thường xuyên xảy ra.
Khi cổ đông góp vốn, đồng tiền của họ phải được sử dụng hiệu quả nhất. Huy
động vốn thì rất nhanh nhưng nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đã chưa chuẩn bị
kế hoạch sử dụng lượng vốn huy động này trong kế hoạch kinh doanh sắp tới có hiệu
quả, đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả và đem lại nhiều lợi nhuận cho các cổ đông nhất.
Với sức hấp dẫn của cổ phiếu ngân hàng hiện nay, việc huy động thêm vốn là
điều không khó. Vấn đề là làm sao khi mở rộng quy mô phải đảm bảo chất lượng
nguồn nhân lực để không ảnh hưởng tới khả năng phục vụ khách hàng, trình độ quản lý
kinh doanh chưa cao, tính chuyên nghiệp trong hoạt động ngân hàng thương mại hiện
đại còn thấp. Năng lực quản lý và lãnh đạo không theo kịp với sự phát triển về qui mô.
Chất lượng đội ngũ cán bộ thấp, số lượng cán bộ dư thừa, năng suất lao động thấp đã
gây cản trở nhất định cho việc xây dựng một hệ thống ngân hàng thương mại hiện đại.
Đồng thời bài toán duy trì tỷ lệ cổ tức cao cũng là yêu cầu không hề dễ đối với ban
điều hành.
Mở rộng mạng lưới của các ngân hàng là điều dễ thấy, ai cũng tập trung ở thành
phố lớn. Chỉ một đoạn ngắn vài trăm mét trên các đường phố ở TP. HCM có thể thấy
cách vài số nhà lại có một chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng hoạt động, thậm chí
4-5 phòng giao dịch ngân hàng còn mở nằm cạnh nhau để cùng chia sẻ thị phần, song
tại các tỉnh lại rất thiếu vắng. Đây chính là mảnh đất còn khá màu mỡ cho các ngân
hàng khẳng định chỗ đứng trước khi các “ông lớn” ngân hàng nước ngoài xuất hiện.
Đặc biệt, việc mở rộng mạng lưới không đi liền với việc mở rộng dịch vụ cung cấp.
- 60 -
Hiện nay, nghiệp vụ chủ yếu vẫn là huy động vốn và cho vay, vì thế các ngân hàng
đang dồn nhau vào chỗ khó, bởi lượng tiền gửi trong dân không tăng là bao mà chi
nhánh và phòng giao dịch của ngân hàng lại tăng nhiều thì tất yếu phải có nơi “ế
khách”.
2.4.2. Sự tăng thêm của hàng tỷ cổ phiếu ngân hàng ra thị trường
Đây là câu hỏi không dễ trả lời, nhất là trong bối cảnh thời “vàng son” của các
ngân hàng dường như không còn; thị trường tài chính – tiền tệ đang gặp nhiều khó
khăn; nhà đầu tư vô vọng tìm kiếm niềm tin với thị trường chứng khoán đang bị thất
lạc đâu đó. Tính đến cuối tháng 3/2008, cả nước có 33 ngân hàng TMCP đô thị, với
tổng vốn điều lệ 45.144 tỷ đồng. Làm một phép tính: nếu các ngân hàng đều lấy mức
tăng bình quân khoảng 80% vốn hiện có, thì năm 2008, các ngân hàng TMCP đô thị sẽ
phát hành thêm khoảng 36.000 tỷ đồng, cũng có nghĩa là có thêm 3,6 tỷ cổ phiếu
(mệnh giá 10.000 đồng) được đổ ra thị trường. Con số này trên thực tế có thể còn lớn
hơn, bởi các ngân hàng tăng vốn khá mạnh tay (Ngân hàng TMCP Á Châu có kế hoạch
tăng vốn từ 5.805,7 tỷ đồng hiện tại lên 6.355 tỷ đồng vào cuối năm 2008, mức tăng
lên đến 141% so với thời điểm đầu năm 2008; Eximbank trình Đại hội đồng cổ đông
thông qua kế hoạch tăng vốn từ 2.800 tỷ đồng lên 7.400 tỷ đồng, mức tăng 164%;
Ngân hàng TMCP Đông Á có kế hoạch tăng vốn từ 1.600 tỷ đồng lên 3.400 tỷ đồng,
tăng 112%...). Vấn đề đặt ra là, ai sẽ sở hữu hàng tỷ cổ phiếu phát hành thêm của các
ngân hàng thương mại cổ phần?.
Trước hết các ngân hàng sẽ phải trông vào khối nhà đầu tư nước ngoài bởi họ có
lợi thế về vốn. Trong bối cảnh nhà đầu tư trong nước đang chịu sức ép tâm lý khá lớn
do thị trường chứng khoán đi xuống, đồng thời nguồn vốn được xác định cũng đã eo
hẹp, thì ngân hàng nhắm đến khối nhà đầu tư nước ngoài là tất yếu. Ngược lại, các nhà
đầu tư nước ngoài cũng đang “nhòm ngó” để sở hữu cổ phiếu ngân hàng trong nước
với giá rẻ. Họ sẽ cố gắng sở hữu trên 10% vốn của các ngân hàng trong nước để có
chân trong hội đồng quản trị, trước khi có những toan tính tiếp theo.
- 61 -
Kế đó, các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng không bỏ lỡ cơ hội vươn
cánh tay vào những NHTMCP đang có nhu cầu tăng vốn. Tiêu chí lựa chọn của họ là
những NHTMCP đã “cắm chân” được ở những địa bàn mà họ chưa vươn tới và những
ngân hàng có dữ liệu khách hàng tốt, tiềm năng.
Cuối cùng, các cổ đông sẽ là đối tượng tiếp theo có cơ hội nắm thêm cổ phiếu
ngân hàng với chính sách chia cổ tức bằng cổ phiếu cho các cổ đông hiện hữu hoặc
phát hành thêm với giá ưu đãi thu hút nhà đầu tư mới.
Như vậy, xét về mặt trung hạn, nhu cầu dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ
bán lẻ sẽ còn rất lớn, vì doanh nghiệp ngày càng khó huy động vốn trên thị trường
chứng khoán, nên phải trông cậy vào kênh ngân hàng. Vì thế, trong giai đoạn này, ngân
hàng có thể gặp khó khăn, cổ phiếu ngân hàng sẽ kém hấp dẫn.
2.4.3. Vốn tự có tăng nhanh nhưng thu nhập không tăng nhanh tương ứng làm
nản lòng các nhà đầu tư
Ngân hàng tăng vốn điều lệ quá nhanh, mà lợi nhuận không tăng nhanh tương
ứng, thì giá trị trên mỗi cổ phiếu sẽ giảm. Theo tính toán, giả sử năm 2008, ACB nêu
kế hoạch lợi nhuận trước thuế là 2.500 tỷ đồng, dự kiến thu nhập trên đầu cổ phiếu
khoảng 3.400 đồng; với STB, nếu đạt lợi nhuận như kế hoạch, thì thu nhập sẽ khoảng
2.900 đồng/cổ phiếu... Mức thu nhập này của các ngân hàng là quá thấp so với đa số cổ
phiếu được xem là hạng trung và nhỏ trên sàn. Chẳng hạn, Công ty Việt Hàn (VHG) có
vốn điều lệ 250 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế năm 2007 là 86 tỷ đồng. Năm 2008, VHG
nêu chỉ tiêu giữ nguyên vốn điều lệ, còn lợi nhuận sau thuế là 110 tỷ đồng. Nếu đạt kế
hoạch đó, thì thu nhập của VHG là 4.400 đồng/cổ phiếu, cao hơn rất nhiều so với ACB
và STB. Chính nguyên nhân này làm cho giá cổ phiếu ngân hàng trở nên kém hấp dẫn
các nhà đầu tư.
2.4.4. Thị trường tài chính tiền tệ trong nước còn nhiều bất cập
Hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng tự do hóa tài chính đang làm tăng áp lực
cạnh tranh đồng thời gia tăng rủi ro lãi suất, tỷ giá, chu chuyển vốn của thị trường tiền
- 62 -
tệ. Do đó, hệ thống tài chính trong nước sẽ phải đối mặt với bất ổn và khủng hoảng có
thể đến từ thị trường quốc tế.
Hệ thống doanh nghiệp, khách hàng chủ yếu của ngân hàng, hiện có sức cạnh
tranh yếu. Bên cạnh đó, lý do công nghệ yếu, năng lực cạnh tranh thấp đã làm giảm
hiệu quả kinh doanh và tăng khả năng bị tổn thương của hệ thống ngân hàng.
Với Việt Nam, mặc dù các thị trường bộ phận của thị trường tiền tệ hoàn chỉnh
đã xuất hiện, nhưng qui mô, hiệu quả và tính cạnh tranh còn yếu. Sự liên kết giữa các
thị trường tiền tệ bộ phận chưa chặt chẽ, thiếu công cụ, công nghệ kỹ thuật về thanh
toán, giao dịch dẫn đến quy trình kiểm soát và khuôn khổ thể chế chưa hiệu quả.
Đáng nói hiện nay, tình trạng ''độc canh" tín dụng vẫn còn phổ biến ở nhiều
ngân hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các ngân hàng
thương mại Việt Nam, nơi mà các hoạt động phi tín dụng và dịch vụ phụ chưa phát
triển. Hầu hết các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại mới chỉ ở giai đoạn thứ nghiệp
hoặc triển khai thí điểm.
Gần như mỗi ngân hàng vẫn có một nhóm khách hàng thân quen riêng và địa
bàn riêng, ngại sự thay đổi và chưa mạnh dạn ''mạo hiểm'' với thị trường. Các chuyên
gia dẫn chứng, sự chia lẻ và thiếu gắn kết của thị trường thẻ ATM đang là một ví dụ
điển hình cho sự thiếu gắn kết và ''ngại hy sinh lợi ích'' của các ngân hàng Việt Nam.
Thị trường vốn và thị trường tiền tệ nội địa còn đang ở giai đoạn phát triển ban
đầu và được đặc trưng bởi tính cạnh tranh thấp. Thị trường bị chia cắt thiếu sự liên kết,
hỗ trợ giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ, phát triển chưa đồng bộ ngay cả giữa
các thị trường tiền tệ bộ phận; qui mô nhỏ và tính linh hoạt thấp. Rủi ro thị trường đối
với các ngân hàng thương mại được nhân đôi khi mà thể chế thị trường các yếu tố sản
xuất còn chưa hình thành hoặc đã có nhưng chưa phát triển, đặc biệt là thị trường bất
động sản và thị trường vốn.
- 63 -
2.4.5. Những biến động kinh tế trong nước và thế giới
Kinh tế thế giới đang phải đối mặt với những khó khăn, dự báo không mấy được
sáng sủa mà gần đây chính là sự khủng hoảng của thị trường tài chính và hệ thống ngân
hàng Mỹ đã làm các nhà đầu tư cảm thấy lo lắng. Thời gian qua, đã có những thông tin
cho thấy cổ đông không mấy mặn mà với lộ trình tăng vốn của các ngân hàng do lợi
nhuận của các ngân hàng được dự báo sẽ kém vì những khó khăn chung của nền kinh
tế trong nước và thế giới
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Chương II nêu lên thực trạng và kết quả đạt được của quá trình tăng vốn tự có
tại các NHTMCP trong thời gian vừa qua. Trong những năm trở lại đây, hàng loạt các
NHTMCP lần lượt tăng vốn tự có. Vấn đề tăng vốn tự có gần như trở thành một trào
lưu trong ngành ngân hàng tại Việt Nam. Nhờ vào quá trình này, quy mô vốn tự có,
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng tăng lên, thu hút được nhiều hơn các nhà đầu tư
nước ngoài và hệ thống NHTMCP đã có sự tăng trưởng ngoạn mục, đạt được những
thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn nhiều yếu tố còn
hạn chế khác như nhiều ngân hàng đã tăng vốn một cách quá mức trong thời gian ngắn,
các ngân hàng khó khăn trong việc sử dụng vốn tăng thêm,…làm giảm hiệu quả của
quá trình tăng vốn tự có. Nguyên nhân của những hạn chế phải nói đến là mặc dù vốn
tự có của các ngân hàng đã tăng nhưng quy mô vẫn còn nhỏ so với khu vực và trên thế
giới, thêm vào đó là sự không đồng bộ giữa việc tăng vốn tự có và chất lượng hoạt
động, do thị trường tài chính tiền tệ nước ta còn nhiều bất cập,…Như vậy, để quá trình
tăng vốn tự có của các NHTMCP thực sự có hiệu quả thì cần phải có nhiều giải pháp
tích cực. Các giải pháp này sẽ được phân tích kỹ ở chương III – Biện pháp gia tăng vốn
tự có của các NHTMCP tại Việt Nam.
- 64 -
CHƯƠNG III
BIỆN PHÁP GIA TĂNG VỐN TỰ CÓ
CỦA CÁC NHTMCP TẠI VIỆT NAM
3.1. Dự báo xu hướng thúc đẩy việc mở rộng quy mô vốn tự có của các NHTMCP
Thứ nhất, ngành ngân hàng có tiềm năng tăng trưởng. Mặc dù gặp nhiều khó khăn
trong năm 2008 nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn được nhiều tổ chức đánh giá có tốc
độ tăng trưởng tốt trong những năm tới. Theo dự báo của WB, tốc độ tăng trưởng GDP
trong năm 2008 sẽ giảm xuống 6,5%-7% tuy nhiên vẫn đạt mức bình quân 8% trong
giai đoạn 2008 - 2012. Riêng khối NHTMCP, thị phần tăng nhanh đặc biệt trong năm
2006 và 2007 cho thấy sự phát triển nhanh chóng và sức cạnh tranh ngày càng mạnh
mẽ của khối này trên thị trường. Đây là yếu tố quan trọng cho sự phát triển của hệ
thống Ngân hàng. Do đó, hệ thống Ngân hàng sẽ phải tập trung hơn vào việc tăng năng
lực tài chính và nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đảm bảo an toàn hệ thống.
Thứ hai, hoạt động ngân hàng bán lẻ và ngân hàng đầu tư có tiềm năng tăng
trưởng mạnh. Trong xu thế hội nhập, với mức độ sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng
cá nhân tại Việt Nam còn thấp nên việc phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ là một
trong những chiến lược trọng tâm của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời
gian tới. Hoạt động Ngân hàng đầu tư hiện đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Các
ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào các mảng nghiệp vụ
truyền thống như huy động vốn và cho vay, các nghiệp vụ Ngân hàng đầu tư như môi
giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành và các nghiệp vụ chứng khoán phái sinh chủ yếu được
thực hiện tại các Công ty chứng khoán. Tuy nhiên, một số ngân hàng lớn với định
hướng phát triển thành tập đoàn tài chính đã có định hướng phát triển mảng hoạt động
này thông qua việc thành lập các Công ty chứng khoán trực thuộc Ngân hàng.
- 65 -
Thứ ba, ngành ngân hàng có mức độ cạnh tranh cao. Áp lực cạnh tranh giữa các
khối ngân hàng thương mại và khối NHTMCP đang tăng lên mạnh mẽ và đã có sự
chuyển dịch thị phần khá nhanh từ các khối khác sang khối NHTMCP trong thời gian
gần đây. Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng, đặc biệt đối với hoạt động ngân hàng
truyền thống sẽ gia tăng mạnh. Ngoài ra, sự xâm nhập thị trường của các đối thủ mới
ngày càng nhiều sẽ tạo áp lực lên năng lực cạnh tranh của các NHTMCP trong nước.
Thứ tư, nền kinh tế thế giới suy giảm, đang phải đối mặt với nhũng thách thức
nhất định như giá dầu, giá lương thực tăng cao; lạm phát gia tăng ảnh hưởng tới tốc độ
tăng trưởng của các nước trên thế giới. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính trầm
trọng của Mỹ sẽ kéo theo những cú sốc tài chính cho nền kinh tế thế giới khiến cho hệ
thống ngân hàng phải nhìn nhận lại khả năng của mình một cách thận trọng hơn, trong
đó củng cố vốn tự có là vấn đề tất yếu.
Thứ năm, trong tương lai, NHNN chắc chắn sẽ phải kiểm soát chặt chẽ hơn quy
mô về vốn tự có cũng như hoạt động của các ngân hàng. Sẽ tiếp tục tăng cường hoạt
động giám sát đối với các ngân hàng và phải có hành động nhanh chóng để ngăn chặn
một cuộc khủng hoảng ngân hàng có hệ thống - trong trường hợp có ngân hàng nào
lâm phải tình trạng tài chính nguy cấp.
Những xu hướng dự báo trên cho thấy việc tăng vốn tự có để nâng cao năng lực
tài chính của các NHTMCP là một xu hướng chắc chắn không thể nào tránh khỏi và
các giải pháp để gia tăng hiệu quả quá trình tăng vốn ấy luôn là những đòi hỏi bức bách
cần phải được giải quyết trong giai đoạn hiện nay và sắp tới của nền kinh tế đất nước.
3.2. Giải pháp từ phía các NHTMCP
3.2.1 Cân nhắc kỹ việc phát hành cổ phiếu
Thị trường chứng khoán hơn một năm qua đã giúp cho rất nhiều doanh nghiệp
huy động thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đó là lợi ích rất lớn mà doanh
nghiệp được hưởng. Hiệu quả sử dụng vốn bổ sung để mở rộng mạng lưới dịch vụ,
- 66 -
nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, phát triển năng lực đội ngũ chắc còn phải chờ
một thời gian nữa mới biết. Trong lúc thị trường chứng khoán đang nhộn nhịp, thặng
dư vốn cổ phần có được thông qua phát hành cổ phiếu ngân hàng tăng vốn điều lệ là lợi
ích rõ ràng. Tuy vậy, không chỉ có toàn cái hay, cũng có điểm dở của nó. Vì thặng dư
vốn cổ phần cao đi liền với đòi hỏi cổ tức cao từ cổ đông. Chưa kể tới tình huống,
người mua cổ phiếu ngân hàng với mục tiêu ngắn hạn khi không đạt được lợi nhuận kỳ
vọng, chỉ còn nguồn thu cổ tức sẽ rất chặt chẽ với nguồn thu này. Qui mô vốn lớn cũng
dễ dàng đưa tới hiệu suất sử dụng trên từng đồng vốn thấp. Khi này, mục tiêu tăng vốn
để củng cố năng lực cạnh tranh không đạt. Thêm vào đó là việc huy động vốn dần dần
trở nên quá đà, một phần cũng từ sự “nuông chiều”, “dễ dãi” của nhà đầu tư và cả thị
trường chứng khoán.
Đứng từ góc độ đầu tư, khi giá cổ phiếu đang tăng thì cổ đông (ở đây không kể
đến dân “lướt sóng”) rất dễ dàng chấp nhận việc tăng vốn của doanh nghiệp mà không
quan tâm mấy đến hiệu quả sử dụng vốn tăng thêm đó. Đứng từ góc độ chủ doanh
nghiệp, đây là cơ hội quá lớn để thu hút thêm tiền vốn mà không phải trả lãi vay. Đứng
từ góc độ quản lý thị trường, Ủy ban Chứng khoán đã “dễ dãi” khi chỉ bắt công ty công
bố bản cáo bạch mà không bắt buộc họ phải công bố bản báo cáo khả thi của việc sử
dụng vốn.
Vậy rủi ro là gì? Đó là rủi ro “loãng giá cổ phiếu” do doanh nghiệp phát hành quá
mức, cũng như rủi ro cho chính doanh nghiệp do sau này phải dành thêm rất nhiều tiền
để trả cổ tức do số cổ phiếu tăng lên quá nhanh và quá nhiều.
Khi thị trường chứng khoán “đảo chiều”, nhà đầu tư còn gánh thêm rủi ro do việc
“cắt lỗ không thành công” do cổ phiếu mới phát hành chưa kịp về đến tài khoản để bán
đi. Do đó, họ sẽ không chấp nhận việc công ty phát hành thêm cổ phiếu, cho dù chỉ để
trả cổ tức.
Các chi tiết của việc phát hành thêm cổ phiếu cần được các NHTMCP cân nhắc
thận trọng cho phù hợp với tình hình mới. Lãnh đạo các NHTMCP cũng cần minh bạch
- 67 -
và công khai nhiều thông tin hơn cho các cổ đông để họ tin tưởng vào tương lai của
ngân hàng cũng như giá trị cổ phiếu.
Bân cạnh đó, các NHTMCP cần phải thay đổi chiến lược tăng vốn tự có của mình.
Các ngân hàng thương mại nên có một chiến luợc tăng vốn điều lệ phù hợp hơn trong
điều kiện hiện nay, có thể nhận thấy rằng việc các ngân hàng nên tăng vốn có lộ trình
nhất định và nên sử dụng cả hai phương thức tăng vốn là phát hành thêm cổ phiếu kết
hợp với việc sử dụng nguồn thặng dư phát hành cổ phần của năm trước nhằm giảm
khối lượng cung hàng ra thị trường chứng khoán trong thời điểm này.
3.2.2 Chọn cổ đông chiến lược là các tập đoàn ngân hàng nước ngoài và đa
dạng hóa danh mục các đối tác chiến lược
Việc các NHTMCP chọn cổ đông chiến lược là các tập đoàn ngân hàng nước
ngoài được xem như một nước cờ đôi, với một mũi tên trúng nhiều đích.
Nước cờ chọn cổ đông chiến lược là một tập đoàn ngân hàng hàng đầu của nước
ngoài được đánh giá cao. Bởi không chỉ cho phép bản thân NHTMCP đó tăng thêm
tiềm lực về tài chính, quản trị điều hành và công nghệ, mà còn cho phép NHTMCP có
thể học hỏi, được hỗ trợ thêm kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ và quản trị ngân
hàng cũng như cách thức đáp ứng tốt hơn các nhu cầu dịch vụ, đặc biệt là thanh toán
quốc tế, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền, kiều hối, đầu tư,... cho các khách hàng vì các
tập đoàn ngân hàng nước ngoài luôn là những ngân hàng có kinh nghiệm lâu năm và
hiệu quả hoạt động cao. Hiện nay mới chỉ có một số NHTMCP đã thực hiện điều này
như ở bảng sau cho thấy:
- 68 -
BẢNG 3.1 ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC CỦA MỘT SỐ NHTMCP TẠI VIỆT NAM
Nguồn: BVSC (Số liệu tính đến 08/2008)
Ngân hàng Nhà đầu tư chiến lược % cổ phần
ACB Standard Chartered Bank 15
Sacombank ANZ 10
Techcombank HSBC 20
Eximbank Sumitomo Mitsui bank 15
Oricombank BNP Paribass 10
Southern Bank United Overseas bank 10
VP Bank OCBC 10
Habubank Deutsche Bank AG 10
Ngoài ra, các NHTMCP khi phát hành cổ phiếu thường thường chỉ chọn có 1-2 cổ
đông là tập đoàn lớn trong nước, điều này sẽ làm hạn chế hiệu quả hoạt động của ngân
hàng. Do đó, việc đa dạng hóa danh mục các đối tác chiến lược với nhiều lĩnh vực hoạt
động khách nhau, là các tập đoàn kinh doanh có hàng trăm nghìn khách hàng cá nhân
và thể nhân khác nhau trong cả nước sẽ cho phép ngân hàng có thêm nhiều cơ hội thực
hiện việc cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ đa dạng và tiện ích mà đại đa số các
NHTMCP hiện nay đang hướng tới khi hoạt động.
3.2.3 Xây dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở tình hình thực tế, sử dụng
vốn tăng thêm có hiệu quả
Hội đồng Quản trị cần cân nhắc kỹ trước khi phát hành cổ phiếu ra ngoài, bởi vì
đi kèm với nó là sự pha loãng trong sở hữu và quyền kiểm soát. Trong các phương án
tăng vốn để các ngân hàng tiến hành tăng vốn tự có, không có phương án nào là tối ưu
hoàn toàn và phương án này tốt cho thời kỳ này nhưng chưa chắc đã hiệu quả cho các
giai đoạn khác.
- 69 -
Trong khoảng thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến việc tăng vốn một cách ồ
ạt của các NHTMCP và cũng có những giai đoạn gần như là một cuộc chạy đua của
các NHTMCP. Tất nhiên, trong cuộc chạy đua này cũng có những ngân hàng buộc phải
thay đổi do những điều kiện mang tính chất bắt buộc cần phải đáp ứng nhưng bên cạnh
đó, cũng có những ngân hàng tham gia vào cuộc chơi bởi những lý do không chính
đáng và nhu cầu chưa cần thiết khác. Do đó, để quá trình tăng vốn tự có đạt hiệu quả
cao và đóng góp vào sự phát triển của các ngân hàng một cách bền vững thì bản thân
các NHTMCP cần xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh trên cơ sở tình hình
thực tế.
Ngoài ra, sau khi thực hiện quá trình tăng vốn tự có, các NHTMCP còn phải quan
tâm đến hiệu quả của việc tăng thêm vốn bởi sự tăng lên của lượng bao giờ cũng đòi
hỏi sự thay đổi tương ứng về chất. Nếu các ngân hàng không sử dụng lượng vốn tăng
thêm một cách có hiệu quả thì e rằng chính lượng vốn tăng thêm đó lại trở thành gánh
nặng cho chính bản thân ngân hàng.
Như vậy, về các quy trình kỹ thuật khi phát hành cổ phiếu và trái phiếu phải tuân
theo Luật Chứng khoán và sự đồng ý của NHNN. Khi đã đủ điều kiện cổ phiếu được
niêm yết trên thị trường chứng khoán để được giao dịch rộng rãi, thông tin minh bạch
và phản ánh đúng giá trị. Đẩy mạnh việc phát hành các chứng chỉ tiền gởi, huy động
nguồn tiền gởi và tiết kiệm của khách hàng trên thị trường tiền gửi đồng thời nên chú
trọng huy động nguồn vốn vay trên thị trường liên ngân hàng. Đẩy nhanh phát hành
các công cụ nợ và trái phiếu dài hạn phù hợp với thông lệ quốc tế và đủ điều kiện niêm
yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Chủ động tiếp cận thị trường tài chính quốc tế, đặc
biệt là nguồn vốn uỷ thác đầu tư, vay thương mại, ODA, vay ưu đãi…
Bên cạnh đó, các NHTMCP còn phải nâng cao chất lượng và hình thức huy động
vốn vay trên thị trường tài chính như: triển khai huy động chứng chỉ tiền gởi, tín phiếu,
trái phiếu ở nhiều nơi, nhiều ngân hàng thương mại khác nhau; thực hiện cơ chế
chuyển nhượng dễ dàng các chứng chỉ tiền gởi, trái phiếu, kỳ phiếu…; phát triển các
- 70 -
dịch vụ hiện đại như E-banking, Internet Banking, Home Banking, Phone Banking; xây
dựng phong cách văn minh hiện đại.
Một yếu tố rất quan trọng không thể thiếu là chú ý tăng cường đào tạo và đào tạo
lại đội ngũ cán bộ ngân hàng; bên cạnh việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, các
NHTM phải tăng cường việc đào tạo và đào tạo lại về nghiệp vụ chuyên môn, trình độ
ngoại ngữ, kỹ thuật cho cán bộ nhân viên của mình, qua đó phát huy được tính năng
của máy móc, thiết bị, năng lực, khả năng làm việc của cán bộ chuyên trách để việc
kinh doanh, giao dịch trên thị trường thanh toán luôn an toàn và đạt hiệu quả cao.
3.2.4. Cân đối quyền lợi của các cổ đông khi thực hiện chính sách chia cổ tức
bằng cổ phiếu
Việc tăng vốn điều lệ thông qua hình thức chia cổ tức bằng cổ phiếu hay phát
hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông từ thặng dư vốn và lợi nhuận giữ lại sẽ giúp cho
chính ngân hàng gia tăng vốn tự có; tuy nhiên điều này cần phải được cân nhắc một
cách thận trọng và không phải là thích hợp trong bất kỳ hoàn cảnh nào của nền kinh tế.
Ưu điểm của việc phát hành cổ phiếu này là tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông là
không thay đổi, do đó ngân hàng đó sẽ có mức độ ổn định nhất định. Còn nếu trả cổ tức
bằng tiền mặt sau đó lại huy động bằng cách phát hành mới thì ngân hàng sẽ có thêm
những cổ đông mới và có thể có ảnh hưởng sự ổn định của ngân hàng. Đứng dưới góc
độ cổ đông thì khi chia cổ tức bằng cổ phiếu hoặc phát hành cổ phiếu thưởng thì cổ
đông có thêm cổ phần mà nắm giữ. Nhưng khi ngân hàng công bố phát hành cổ phiếu
thưởng lấy từ lợi nhuận giữ lại và từ thặng dư vốn thì đồng nghĩa với việc chuyển một
phần hay toàn bộ số dư (kế toán) từ tài khoản thặng dư vốn và lợi nhuận giữ lại sang tài
khoản vốn điều lệ. Kết quả của nghiệp vụ này là sự tăng lên của vốn điều lệ (và tăng số
lượng cổ phiếu), giảm số dư kế toán của lợi nhuận giữ lại và thặng dư vốn mà giá trị
doanh nghiệp vẫn không thay đổi. Nói cách khác, giá trị của vốn cổ đông không thay
đổi, tỷ lệ sở hữu của cổ đông trong doanh nghiệp không thay đổi. Sự thay đổi duy nhất
là số lượng cổ phiếu lưu hành tăng lên.mặc dù số nắm giữ thêm này, về nguyên lý phải
- 71 -
làm giảm giá trị số đang nắm giữ, do giá trị ngân hàng đâu có thay đổi chỉ nhờ việc
chia tách cơ học này. Tuy vậy, do tâm lý đám đông đầu tư muốn nắm giữ cổ phần ngân
hàng nào đó, sự khao khát này khiến cho cứ có thêm cổ phiếu là người ta mua, và có
xu hướng mua tới mức giá hiện tại, mặc dù ta biết rõ là giá trị đã bị pha loãng qua số cổ
phần mới bổ sung như thế nào.
Nếu trong thời gian thị trường chứng khoán tăng giá, cầu chứng khoán lớn hơn
cung, tức là lượng cầu cổ phiếu chưa được đáp ứng thì việc tăng số lượng lưu hành của
cổ phiếu làm cho người muốn mua có cơ hội mua hơn và người muốn bán sẵn lòng bán
một phần trong số cổ phiếu tăng lên của mình. Kết quả là cầu cổ phiếu được thỏa mãn,
giá cổ phiếu tăng, điều này đã xảy ra như trước đây. Ngược lại, nếu trong thời điểm
cung cổ phiếu vượt cầu thì việc tăng số lượng cổ phiếu sẽ càng làm lệch sự mất cân đối
cung cầu, hậu quả là giá trị cổ phiếu không những không tăng mà giảm, tổng giá trị thị
trường của 1 cổ đông sẽ giảm sau khi được chia cổ phiếu thưởng. Đây là chuyện đã xảy
ra trong tháng 6 vừa qua đối với cổ phiếu của nhiều NHTMCP. Do vậy việc cân nhắc
chính sách như thế nào cần phải đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, tạo sự an tâm cho
chính các cổ đông của ngân hàng trong việc đưa ra các quyết định đầu tư vào hoạt động
ngân hàng.
3.2.5. Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tự có tăng thêm rõ
ràng và chi tiết hơn
Khi trình lên NHNN phương án tăng vốn đều lệ của mình, các NHTMCP thường
đề cập đến các mục tiêu như thực hiện chiến lược phát triển ngành Ngân hàng tại Việt
Nam, đáp ứng các Quy định pháp lý mang tính chất bắt buộc. Bên cạnh đó, còn nhằm
chú trọng xây dựng một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, ứng dụng công nghệ hiện
đại và mô hình quản trị tiên tiến, làm cơ sở để các Ngân hàng có khả năng cung cấp
dịch vụ ngân hàng chất lượng cao và thỏa mãn tối đa các nhu cầu của khách hàng .
- 72 -
Tuy nhiên, để lý giải việc tăng vốn của ngân hàng là để mở thêm chi nhánh, tuyển
thêm nhân sự, đào tạo cải thiện năng lực đội ngũ... thì các NHTMCP có thể đặt câu hỏi
hiệu quả việc này thế nào? Nếu cần 1 phép đo hiệu quả ,thử tính:
• Một chi nhánh mở thêm cần bao nhiêu vốn đầu tư?
• Chi nhánh mở mới tạo ra bao nhiêu lợi nhuận?
• Một đơn vị vốn huy động mới tạo thêm bao nhiêu lợi nhuận cho ngân hàng?
• V.v…
Nếu có thể làm một vài so sánh không gian, thời gian, hay giữa các ngân hàng, sẽ
biết thêm nhiều yếu tố phản ánh được tính hiệu quả của việc tăng vốn đó và trên cơ sở
này điều chỉnh các phương án cho phù hợp.
Đặc biệt, các ngân hàng phải đánh giá hiệu quả kinh doanh dự kiến trên cơ sở vốn
điều lệ mới. Trong đó nêu rõ các chỉ tiêu dự kiến gồm: mức tăng trưởng Tổng tài sản
có, tín dụng, huy động tiền gửi của khách hàng, tiền gửi và vay của các TCTD khác,
các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, tỷ suất lợi nhuận...
Đồng thời, các ngân hàng phải đánh giá khả năng quản trị, điều hành, kiểm soát
của Hội đồng quản trị, Ban điều hành và hệ thống kiểm soát nội bộ đối với quy mô vốn
và quy mô hoạt động sau khi thay đổi vốn điều lệ.
3.2.6 Các NHTMCP nhỏ nên hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp
Trước đòi hỏi bức bách của hội nhập và sự cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, các ngân hàng nội địa đã mạnh tay hơn trong đầu tư cho nhân lực, công
nghệ, mạng lưới, nhưng hoạt động và lợi nhuận chủ yếu vẫn trông ở tín dụng. Doanh
thu, lợi nhuận từ mảng dịch vụ chưa thể bằng một nửa mảng tín dụng. Trong khi đó
những đề án thành lập ngân hàng mới ngày một nhiều.
Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và sự lên giá của cổ phiếu ngân hàng
trong khoảng thời gian trước đây đã khiến cho phong trào “nơi nơi, ngành ngành lập
ngân hàng” lan rộng. Không ít tổng công ty đã và vẫn đang kiên trì với đề án lập ngân
hàng chuyên ngành, công ty tài chính, công ty chứng khoán. Lợi nhuận của một số
- 73 -
ngân hàng tăng vọt không phải từ nghiệp vụ truyền thống tiền tệ, mà từ kinh doanh
chứng khoán. Các khoản lợi nhuận từ chứng khoán đó rõ ràng là không bền vững một
khi thị trường tài chính biến động thất thường.
NHNN có thể dùng những rào cản kỹ thuật để kéo dãn thời điểm cấp phép thành
lập chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam, song sự chậm trễ nào cũng
có giới hạn. Tính đến cuối năm 2007, NHNN đã tiếp nhận 5 hồ sơ xin thành lập ngân
hàng con 100% vốn nước ngoài và 19 hồ sơ xin cấp phép thành lập chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong số đó có 3 hồ sơ xin thành lập chi nhánh đã được
chấp thuận nguyên tắc là Commonwealth Bank (Australia), IBK (Hàn Quốc) và Fubon
(Đài Loan). Như vậy, mặc dù rào cản ra nhập thị trường ngân hàng rất khắt khe nhưng
thị trường ngân hàng vẫn thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức lớn, đặc biệt là các tổ
chức nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, công nghệ ngân hàng hiện đại và thương
hiệu quốc tế. Do đó trong thời gian tới sự cạnh tranh trên thị trường ngân hàng sẽ ngày
càng gay gắt. Ngoài ra còn có sự cạnh tranh tiềm tàng từ các tổ chức tài chính khác.
Hoạt động của các ngân hàng hiện chịu sự cạnh tranh nhẹ từ các tổ chức tài chính
không phải là ngân hàng như các Công ty tài chính, đặc biệt là các công ty tài chính
thuộc các Tập đoàn, Tổng công ty (đối với hoạt động thu xếp vốn vay, tín dụng, huy
động vốn); các công ty Chứng khoán có quy mô lớn (đối với các hoạt động ngân hàng
đầu tư như bảo lãnh phát hành, tư vấn sáp nhập, đầu tư …). Tuy nhiên trong tương lai
nếu các mô hình này thành công, đây sẽ là những đối thủ cạnh tranh trực tiếpvới các
ngân hàng trên từng mảng hoạt động, đặc biệt là sự cạnh tranh từ các công ty Chứng
khoán độc lập có quy mô lớn lên hoạt động ngân hàng đầu tư. Bên cạnh đó nguồn tin
mới nhất cho biết có thể Việt Nam sẽ mở cửa sớm hơn lĩnh vực chứng khoán cho đầu
tư nước ngoài. Việc thành lập công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán 100% vốn
nước ngoài có thể không phải đợi đến tháng 1/2009 như cam kết WTO, mà có khả
năng sớm hơn. Điều này buộc các ngân hàng, vốn đang “thò” một chân vào mảng
chứng khoán phải tăng tốc đầu tư chiều sâu nếu không muốn bị “bật” khỏi cuộc chơi.
- 74 -
Thời gian tới cuộc đua nâng vốn của ngân hàng, như vậy, sẽ còn tiếp tục, nhưng
khó có thể tăng với tốc độ vượt bậc như năm qua. Chính điều này là một trong những
yếu tố tiếp tục tạo sức hấp dẫn nhất định cho cổ phiếu ngân hàng, loại sức hút dần đi
vào ổn định và phân loại theo đẳng cấp TCTD.
Như vậy cần nhận thức được rằng, việc sáp nhập các ngân hàng nội địa để tạo ra
những ngân hàng đủ mạnh về tiềm lực tài chính, cạnh tranh ngang ngửa với ngân hàng
nước ngoài là một xu hướng mang tính tất yếu và không thể nào tránh khỏi. Số lượng
ngân hàng vừa và nhỏ sẽ giảm đáng kể. Sáp nhập giúp các ngân hàng nâng cao hiệu
quả hoạt động, duy trì mức lợi nhuận và giảm được cạnh tranh trong ngành.
3.3. Kiến nghị về phía NHNN và cơ quan Chính Phủ
3.3.1. Cơ cấu lại hệ thống NHTMCP
Trong những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến việc ra đời của hàng loạt
NHTMCP và hiện nay, các NHTMCP đang tích cực tham gia vào các hoạt động kinh
tế. Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng, các NHTMCP ở nước ta có quy mô và các ngân
hàng đều “na ná” nhau về các dịch vụ cung ứng, về cơ cấu tổ chức và thậm chí cả về
phương châm phục vụ khách hàng. Chính điều này làm cho hệ thống NHTMCP phát
triển rộng nhưng chưa sâu, do đó, NHNN nên có những quy định cơ cấu lại hệ thống
NHTMCP. Một trong những biện pháp đó là nâng quy mô vốn điều lệ tối thiểu cao
hơn, khi đó những ngân hàng yếu kém, quy mô nhỏ không theo kịp sẽ bị loại khỏi cuộc
chơi, các NHTMCP sẽ phải thực sự quan tâm đến năng lực tài chính và chất lượng hoạt
động của mình.
3.3.2. Thắt chặt việc cấp phép thành lập ngân hàng mới
Nhiều điều kiện cấp phép mới được áp dụng như kể từ ngày 01/04/2007, theo cam
kết gia nhập WTO, Việt Nam chính thức cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn
nước ngoài. Ngành ngân hàng là ngành có tính đặc thù và được đánh giá là có mức độ
cạnh tranh cao nên việc thành lập ngân hàng mới phải đáp ứng những quy định khắt
- 75 -
khe. Tuy nhiên, sức hấp dẫn về tiềm năng tăng trưởng và lợi nhuận của ngành ngân
hàng đã khiến nhiều tổ chức trong và ngoài nước tham gia thành lập ngân hàng mới.
Tính đến tháng 5/2008, hệ thống các TCTD Việt Nam bao gồm có 5 ngân hàng
thương mại nhà nước, 6 ngân hàng liên doanh, 36 ngân hàng thương mại cổ phần, 44
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 10 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính và
998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Điều này chứng tỏ, Việt Nam đang có nhiều ngân
hàng. Thế nhưng, thực tế, có những ngân hàng không hoạt đúng theo tiêu chuẩn của
ngân hàng, mà phần lớn chỉ là những đơn vị cho vay thế chấp, không khác các tiệm
cầm đồ. Trong khi đó, chức năng của hệ thống ngân hàng phải là cung cấp tài chính
cho nền kinh tế phát triển ổn định và thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước để
kiềm chế lạm phát. Năm 2007, tín dụng ngân hàng tăng trưởng rất mạnh nhưng không
phải cho vay để sản xuất kinh doanh mà chủ yếu là cho vay để đầu cơ. Chính lượng
tiền quá lớn được đầu cơ vào chứng khoán, bất động sản đã đẩy giá lên một cách phi
lý. Khi mất tính thanh khoản, các ngân hàng buộc phải huy động vốn bằng mọi giá.
Điều này đã khiến mức lãi suất cơ bản bị đẩy lên. Lãi suất cho vay quá cao khiến các
doanh nghiệp này khó tiếp cận nguồn vốn, có vay được thì các chi phí đầu vào bị đẩy
lên, khiến cho lạm phát gia tăng. Bên cạnh đó, ở nước ta lại tồn tại nhiều ngân hàng
hoạt động không có bài bản. Nhiều ngân hàng yếu, vốn điều lệ chưa tới 1.000 tỷ đồng,
thì rất khó có thể cung ứng những dịch vụ cần thiết cho kinh tế phát triển. Trong tình
hình như hiện nay, việc cho phép thành lập thêm các ngân hàng mới có thể sẽ làm cho
tình hình thêm “rối”. Ngày 29/7/2008, Văn phòng Chính phủ đã có công văn số
4944/VPCP-KTTH thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ “yêu cầu
NHNN Việt Nam điều chỉnh tiêu chí thành lập NHTMCP trong nước cho phù hợp.
Trong khi chưa ban hành tiêu chí mới, tạm dừng chưa cho phép thành lập ngân hàng
thương mại cổ phần mới”. Đây là một động thái tích cực từ phía các cơ quan chính
quyền và phải ban hành những quy định mang tính cụ thể để đề ra phương hướng giải
quyết rõ ràng, cụ thể hơn.
- 76 -
3.3.3. Kiểm soát chặt chẽ các phương án tăng vốn mới
Khi phê duyệt các phương án tăng vốn mới từ các NHTMCP, các ngân hàng phải
nói rõ hiệu quả kinh doanh trên cơ sở vốn điều lệ mới, dự kiến mức lợi nhuận trước
thuế, kết quả xếp loại, cổ tức. NHNN sẽ xem xét những chỉ tiêu quan trọng khi duyệt
phương án tăng vốn, như tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn, tỷ lệ lợi nhuận trên
tổng tài sản có, mức tăng trưởng tín dụng và mức tăng tiền gửi từ dân cư. Một nhấn
mạnh khác là các ngân hàng phải công khai thông tin về lộ trình tăng vốn, nhất là các
nội dung như tổng mức vốn dự định tăng thêm, các đợt dự kiến phát hành, phương án
phát hành từng đợt (những đối tượng được mua, giá bán cho từng loại đối tượng, thời
điểm bán, nghĩa vụ - quyền lợi đi kèm).Cùng với việc tăng vốn, các ngân hàng phải
chứng minh có đủ trình độ năng lực và nhân sự cần thiết để quản trị, điều hành, kiểm
soát quy mô hoạt động tăng lên. Bộ phận Thanh tra ngành ngân hàng sẽ vào cuộc và hồ
sơ tăng vốn chỉ được xem xét sau khi có ý kiến của Thanh tra. Ngoài ra, phương án
phải chứng minh ngân hàng có đủ trình độ, năng lực, số lượng nhân sự cần thiết để
quản trị, điều hành và kiểm soát được quy mô hoạt động tăng lên (thể hiện qua mức
tăng tổng tài sản có dự kiến, đặc biệt là mức tăng tổng dư nợ), đảm bảo các quy định về
an toàn hoạt động.
Đối với NHTMCP, phương hướng phát triển cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
Đặt ra yêu cầu tái cơ cấu tổ chức và chuẩn mực quản lý đối với các NHTMCP, tạo
điều kiện cho những ngân hàng này hiện đại hoá công nghệ và đào tạo nâng cao trình
độ quản lý, tham gia có hiệu quả vào thị trường tiền tệ thứ cấp, nghiệp vụ tái cấp vốn
và hệ thống thanh toán của NHNN.
Sắp xếp lại hệ thống NHTMCP, giải thể hoặc sáp nhập một số NHTMCP yếu kém.
Lành mạnh hoá tài chính của các NHTMCP trên cơ sở cơ cấu lại nợ quá hạn.
- 77 -
Cơ cấu lại tổ chức, đặt biệt là các bộ phận quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ, tài sản
có, giám sát và kiểm toán nội bộ, quản lý đầu tư vốn.
Đặc biệt quan trọng là hiệu quả kinh doanh trên cơ sở vốn điều lệ mới. Căn cứ tốc
độ tăng trưởng và kết quả hoạt động của ngân hàng trong khoảng thời gian trước, đặc
biệt là năm liền kề để xây dựng kế hoạch tăng vốn phù hợp với quy mô tăng trưởng của
ngân hàng, đảm bảo tính khả thi của hiệu quả kinh doanh trên cơ sở vốn điều lệ mới.
Ngoài ra, trước khi tiến hành việc tăng vốn, các ngân hàng phải công khai thông tin
về kế hoạch tăng vốn theo đúng thời điểm và hình thức mà NHNN đã yêu cầu.
3.3.4. Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn tự có tăng thêm
Để được NHNN đồng ý cho phép tăng vốn tự có, các NHTMCP đã buộc phải giải
trình về phương án tăng vốn tự có một cách có hiệu quả và khả thi. Tuy nhiên, đó chỉ là
những phương án chưa triển khai, đang nằm trong kế hoạch. Bản thân một số
NHTMCP mặc dù vốn tự có đã tăng lên nhưng vẫn chưa triển khai phương án đó hoặc
đã triển khai nhưng hiệu quả hoặc qui mô hoạt động thì chưa hẳn là đã tăng lên so với
trước đó. Vì vậy, về phía NHNN nên tăng cường khâu kiểm tra, giám sát tình hình sử
dụng vốn tự có tăng thêm của các NHTMCP sao cho các phương án tăng vốn được
triển khai hiệu quả, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
và đặc biệt là thể hiện được vai trò của phần vốn tự có được tăng thêm đó. NHNN cũng
phải quan tâm đến việc chấp thuận cho một ngân hàng tăng vốn cho những giai đoạn
tiếp theo phải dựa trên cơ sở đánh giá việc tăng vốn điều lệ và sử dụng vốn theo
phương án của giai đoạn trước.
Nếu xem xét về hiệu quả vận hành của các NHTMCP sau khi tăng vốn tự có thì vấn
đề sở hữu đầy đủ nguồn lực con người, công nghệ, tài chính không có nghĩa là ngân
hàng đó sẽ lập tức vận hành hiệu quả. Cũng giống như nhiều ngành kinh doanh khác,
trong quãng thời gian đầu kể từ khi tăng vốn, ngân hàng phải đương đầu với không ít
thách thức. Tâm lý của công chúng vẫn dành niềm tin - yếu tố vô cùng quan trọng
- 78 -
trong quan hệ tín dụng - nhiều hơn cho các ngân hàng quốc doanh. Đồng thời, số lượng
ngân hàng tăng lên mau chóng cũng là dấu hiệu rõ ràng của cạnh tranh khốc liệt. Tiềm
năng của ngành ngân hàng rất lớn, đồng nghĩa với kỳ vọng tăng trưởng cao của các cổ
đông và áp lực lớn với bộ máy quản trị, vận hành. Bất trắc có thể xảy ra khi đội ngũ
quản lý ngân hàng chấp nhận mức rủi ro cao hơn nhằm đạt tới giới hạn tăng trưởng
“nóng” trong thời gian ngắn. Sự sáng suốt của Hội đồng quản trị, tầm nhìn dài hạn và
các quy tắc quản trị nội bộ chuẩn mực giúp hóa giải nguy cơ này.
3.1.4. Tăng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng
Theo quy định hiện hành, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài
(bao gồm cả cổ đông nước ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư
nước ngoài đó không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Mức sở
hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài không phải là TCTD và người có liên quan
của nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt
Nam. Mức sở hữu cổ phần của một TCTD nước ngoài và người có liên quan của
TCTD nước ngoài đó không vượt quá 10% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan
của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó không vượt quá 15% vốn điều lệ của một
ngân hàng Việt Nam. Trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ căn cứ đề nghị của
NHNN Việt Nam, quyết định mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó vượt quá 15%,
nhưng không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Tuy nhiên, ủng hộ quan điểm khuyến khích các cá nhân, tổ chức nước ngoài tham
gia vào các ngân hàng thương mại Việt Nam, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI)
mới đây lại tiếp tục gửi văn bản kiến nghị lên Thủ tướng, một mặt đề xuất mở rộng đối
tượng mua cổ phần ngân hàng, mặt khác đề nghị cho phép mở room lên tới 49% vốn
điều lệ, trong đó hạn mức dành cho nhà đầu tư chiến lược tối đa là 30%. Đây là vấn đề
- 79 -
cũng nên được NHNN xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng bởi vì việc nới rộng tỷ lệ sở hữu
của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các ngân hàng thu hút
và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược. Hơn nữa, với sự tham gia nhiều hơn của các nhà
đầu tư nước ngoài trong ngân hàng, cổ phiếu của ngân hàng sẽ có tính thanh khoản cao
hơn. Bản thân các ngân hàng cũng có cơ hội tăng nhanh vốn điều lệ và thu hẹp khoảng
cách với khu vực và thế giới về vốn, công nghệ cũng như trình độ quản lý.
Một số nhà quản lý cho rằng vấn đề tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực ngân hàng là nhạy cảm, song đây sẽ là nhu cầu thực sự nhằm hỗ trợ và
thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán Việt Nam phát
triển bền vững nếu phân tích rõ bản chất của vấn đề.
Đối với bản thân các NHTMCP trong nước, họ đều mong muốn có từ hai đến ba
nhà đầu tư nước ngoài trong danh sách cổ đông của mình nhằm nhận được những hỗ
trợ nhất định cho hoạt động của ngân hàng mình.
Nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không chỉ làm tăng tỷ lệ huy động vốn
của nhóm đối tượng này vào lĩnh vực ngân hàng, tăng cung cho thị trường chứng
khoán mà còn tăng quy mô các quỹ nước ngoài vào thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Điều này đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ nắm giữ của các nhà đầu tư tổ chức trong một
ngân hàng, làm cải thiện đáng kể tính tổ chức và tính ổn định trong cơ cấu cổ đông. Sự
hiện diện "rõ ràng" hơn của các đối tác chiến lược nước ngoài thể hiện qua tỷ lệ cổ
phần nắm giữ sẽ thu hút sự chú ý của cộng đồng kinh doanh-đầu tư mà dấu hiệu rõ nét
là những biến động giá cũng như tính thanh khoản của cổ phiếu ngân hàng trên thị
trường chứng khoán thời gian gần đây được cải thiện đáng kể.
Với nguồn lực tài chính mạnh, trình độ quản lý, thị trường tiêu thụ cũng như danh
tiếng quốc tế, không thể phủ nhận những lợi ích mà nhà đầu tư nước ngoài mang tới
khi có mối liên hệ "mật thiết" hơn với các ngân hàng thương mại trong nước. Khi tỷ lệ
sở hữu của các tổ chức trong nước và nước ngoài tăng lên thì quản trị doanh nghiệp sẽ
- 80 -
được cải thiện đáng kể, đồng thời những tổ chức này sẽ đóng vai trò nòng cốt trong các
chương trình huy động vốn của ngân hàng, nhất là sẽ cải thiện đáng kể phương thức
phát hành hiện nay và gia tăng phương thức phát hành riêng lẻ để tạo thặng dư vốn
nhiều cho ngân hàng.
Khi "đổ bộ" vào bất kỳ một doanh nghiệp Việt Nam nào thì đối tác nước ngoài hẳn
nhiên đặt kỳ vọng vào hiệu quả kinh doanh cao với khoản đầu tư của họ. Để đảm bảo,
sự chia sẻ về kinh nghiệm quản lý, điều hành, mở rộng thị trường và các quan hệ kinh
doanh luôn sẵn sàng được chia sẻ, đặc biệt với các đối tác hoạt động cùng ngành.
3.1.5. Cần có chính sách phát triển thị trường tài chính nhằm giảm đi gánh nặng
cho các ngân hàng
Một yếu điểm của thị trường tài chính nước ta là cơ cấu hệ thống tài chính còn mất
cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế
chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển
cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Tăng
trưởng kinh tế cao và bền vững đòi hỏi phải có nguồn vốn dồi dào. Vì vậy, sẽ là rất khó
khăn nếu chỉ dựa vào nguồn vốn của các ngân hàng để tài trợ cho phát triển kinh tế.
Các chuyên gia khuyến cáo, Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích phát
triển thị trường vốn nhằm giảm bớt gánh nặng cho các ngân hàng, đồng thời tăng hiệu
quả trong việc phân bổ các nguồn vốn tới các khu vực và dự án đầu tư.
Do đó, phải phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc
(bao gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh,
thị trường tập trung, thị trường phi tập trung...), vận hành theo các thông lệ quốc tế tốt
nhất, có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế.
Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước cho thị trường; mở
rộng hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức; phát triển đầy đủ
- 81 -
các định chế trung gian: đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp,... đảm bảo có đầy đủ các
yếu tố cấu thành một thị trường vốn phát triển của khu vực.
Để thực hiện những mục tiêu dài hạn đó thì trước mắt cần phải thực hiện những giải
pháp trước mắt như:
Phát triển qui mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa để đáp ứng
nhu cầu của thị trường như mở rộng qui mô và đa dạng hóa các loại trái phiếu, các
phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái
phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của
doanh nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của
quốc gia; từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn, đảm bảo bảo khả năng
quản lý, giám sát của Nhà nước; Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu
để hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt. Phát triển các định chế trung gian và
dịch vụ thị trường bằng cách tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và
năng lực tài chính cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư
chứng khoán,... Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao
tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và
bình đẳng trên thị trường; Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước
Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà
nước như hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ, đáp ứng được
yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc tế; Bổ
sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phòng ngừa và xử lý các
hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán; Nghiên
cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động chứng khoán,
khuyến khích đầu tư dài hạn, hạn chế đầu tư ngắn hạn; điều tiết lợi nhuận thu được do
kinh doanh chứng khoán, đồng thời thông quá thuế, phí, lệ phí góp phần giám sát hoạt
động của thị trường chứng khoán và từng đối tượng, thành viên tham gia; kiểm tra,
- 82 -
giám sát hàng hóa đưa ra thị trường, đảm bảo tính công khai, minh bạch; tăng cường
năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát thị trường;
Chủ động mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế như thực hiện mở cửa từng
bước thị trường vốn cho nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình hội nhập đã cam kết, đồng
thời đảm bảo kiểm soát được luồng vốn vào, vốn ra. Đảm bảo an ninh tài chính quốc
gia: thực hiện tốt việc giám sát các giao dịch vốn: Áp dụng các biện pháp kiểm soát
luồng vốn chặt chẽ; trong những trường hợp cần thiết để giảm áp lực đối với tỷ giá,
ngăn ngừa nguy cơ biến dạng và khủng hoảng trên thị trường, cần có những giải pháp
xử lý thích hợp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Như vậy, nhằm để nâng cao hiệu quả quá trình tăng vốn tự có của các NHTMCP tại
Việt Nam hiện nay thì các giải pháp phải được đặt ra từ nhiều phía. Trước hết, đó là vai
trò vô cùng quan trọng của NHNN và Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách phù
hợp và kịp thời nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi bên cạnh những biện pháp kiểm
tra, giám sát chặt chẽ để thúc đẩy hoạt động của các ngân hàng đi đúng hướng khi mà
tăng vốn tự có đang là một vấn đề mang tính thời sự của các NHTMCP trong giai đoạn
hiện nay. Về phía bản thân các NHTMCP, để việc tăng vốn tự có thật sự đem lại hiệu
quả, giúp ngân hàng nâng cao sức mạnh cạnh tranh và có thể đứng vững, phát triển
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thì ngân hàng nên thực hiện một số giải pháp
như cân nhắc kỹ việc thực hiện tăng vốn điều lệ, nên chọn cổ đông chiến lược là các
tập đoàn ngân hàng nước ngoài và đa dạng hóa danh mục các đối tác chiến lược, xây
dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở tình hình thực tế và sử dụng vốn tăng thêm có
hiệu quả vào hoạt động của ngân hàng đồng thời các ngân hàng cũng nên xem xét một
cách thận trọng chiến lược và các tiêu chí cụ thể cho vấn đề tăng vốn tự có. Ngoài ra,
việc kết hợp giữa các NHTMCP quy mô nhỏ có thể giúp cho ngân hàng có vị thế cao
hơn trong điều kiện cạnh tranh hiện nay.
- 83 -
KẾT LUẬN
Vốn tự có có vai trò to lớn trong hoạt động của ngân hàng thương mại, vì vốn tự
có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của một ngân hàng, là “tấm đệm chống đỡ
rủi ro”. Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng này của vốn tự có, trong thời gian vừa qua, đặc
biệt là do tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO mà nhiều NHTMCP trong nước
đã liên tục tăng vốn tự có bằng nhiều phương thức khác nhau là hết sức cần thiết. Tuy
nhiên, việc tăng vốn tự có của các NHTMCP chưa hẳn đã giải quyết được những vấn
đề “cần phải giải quyết” trong giai đoạn hiện nay nếu như các NHTMCP không có
những bước đi đúng đắn và thích hợp bởi vốn không phải là yếu tố duy nhất quyết định
sự thành bại của ngân hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần cũng giống như các chủ
thế phát hành khác, việc nâng vốn tự có phải được xem xét chặt chẽ, thậm chí còn chặt
chẽ hơn những doanh nghiệp khác vì vai trò và ảnh hưởng to lớn của chủ thể này trong
nền kinh tế quốc dân.
Trên đây là toàn bộ nội dung của bản luận văn với đề tài “BIỆN PHÁP GIA
TĂNG VỐN TỰ CÓ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI
VIỆT NAM”. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn nhiều hạn chế, luận văn
không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của Quý Thầy,
Cô và những người quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng để đề tài nghiên cứu hoàn thiện
hơn, có thể có những đóng góp nhất định vào thực tiễn và bản thân học viên được mở
rộng kiến thức của mình trong công tác nghiên cứu sau này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bien.pdf