PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hội thoại là một trong những hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ và cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại đã và đang trở thành một trong những lĩnh vực được nhiều người quan tâm bởi sự đa dạng, thú vị và phức tạp của nó.
Tìm hiểu lời thoại không nên chỉ bó hẹp trong phạm vi giao tiếp thường ngày mà còn cần phải dấn vào địa hạt văn chương, đặc biệt là văn xuôi mới có thể thấy hết màu sắc của lời thoại.
1.2. Vi Hồng là nhà văn dân tộc miền núi tiêu biểu cho bộ phận văn học thiểu số Việt Nam sau cách mạng. Chất dân tộc và miền núi Việt Bắc là yếu tố làm nên nét đặc sắc và mới lạ trong sáng tác của ông dù ở bất kỳ thể loại nào, truyện ngắn hay tiểu thuyết. Trong tác phẩm của mình, Vi Hồng đã đề cập đến nhiều mặt khác nhau của con người và cuộc sống các dân tộc thiểu số miền núi. Chính cuộc sống sinh động của con người Việt Bắc được phản ánh chân thực đã đưa các tác phẩm của ông trở thành khóm hoa lạ trong vườn hoa dân tộc. PGS.TS Vũ Anh Tuấn đã nhận xét: "Thành tựu lớn nhất mà Vi Hồng để lại cho đồng bào dân tộc miền núi có lẽ được trầm kết trong những trang văn. Mạch lạc và dứt khoát, đôi khi đến cực đoan trong đời riêng, trái tim nhà văn Vi Hồng vẫn không ngừng đập giữa hai dòng yêu thương và hờn giận. Song, trước sau, ông vẫn là một con người nhân hậu, giàu lòng yêu thương và khao khát được yêu thương" [52,15].
Nhà văn Vi Hồng thành công ở nhiều thể loại: truyện ngắn, nghiên cứu văn học, đặc biệt là tiểu thuyết. Với hơn 10 cuốn tiểu thuyết, Vi Hồng đã đề cập đến nhiều mặt khác nhau của con người và cuộc sống các dân tộc thiểu số
miền núi, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết văn học thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Trong những năm qua, các tác phẩm của Vi Hồng chưa được giới ngôn ngữ học quan tâm đúng mức. Đã có khá nhiều bài viết cũng như công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông nhưng các bài viết hay công trình này mới chỉ dừng lại dưới dạng đánh giá chung hoặc phê bình một vài tác phẩm cụ thể. Việc tìm hiểu ngôn ngữ nói chung, đặc biệt nghiên cứu về lời thoại nói riêng trong tiểu thuyết của Vi Hồng đến nay dường như còn để ngỏ.
1.3. Tiếp cận tiểu thuyết Vi Hồng để tìm hiểu đặc điểm lời thoại trong thể loại này của ông không chỉ giúp ta thấy được phong cách nghệ thuật của văn xuôi Vi Hồng mà còn giúp ta thấy được lối nói riêng của người miền núi Cao Bằng, thấy được sự đa dạng của lời thoại, từ đó góp phần củng cố lý thuyết hội thoại nói riêng và lý thuyết ngữ dụng nói chung.
Thiết nghĩ, những điều trình bày trên đây cho thấy việc tìm hiểu lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng là công việc cần thiết và nên làm. Đó cũng chính là những lý do cơ bản khiến chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về nghiên cứu lý thuyết hội thoại
Từ lâu, hội thoại đã trở thành lĩnh vực được các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ đặc biệt quan tâm. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hội thoại.
Trên thế giới, hội thoại được các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng như C.K.Orecchioni, H.P.Grice, G.Leech, D.Wilson .khai thác khá toàn diện về các vấn đề như: cấu trúc hội thoại, các quy tắc hội thoại hay sự vận động hội thoại v.v .
Ở Việt Nam, những vấn đề lý thuyết hội thoại đã được các nhà ngôn ngữ học tiêu biểu như GS.TS Đỗ Hữu Châu, GS.TS Nguyễn Đức Dân,
GS.TS Nguyễn Thiện Giáp đi sâu nghiên cứu. Trong công trình "Đại cương Ngôn ngữ học" (Tập II, Ngữ dụng học), Đỗ Hữu Châu đã trình bày một cách hệ thống và phân tích trên cứ liệu tiếng Việt về lý thuyết hội thoại với các nội dung chủ yếu: vận động hội thoại, các yếu tố kèm lời và phi lời các quy tắc hội thoại, thương lượng hội thoại, cấu trúc hội thoại và ngữ pháp hội thoại. Cũng bàn về hội thoại, tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn "Dụng học Việt ngữ" đã đề cập đến các yếu tố của cấu trúc hội thoại, cặp thoại, câu đáp được ưu tiên, sự trao đáp và thương lượng hội thoại, những lời ướm thử và những yếu tố phi lời trong hội thoại,v.v .
Ngoài ra, một số luận án tiến sĩ cũng bước đầu tìm hiểu về lý thuyết hội thoại như hai luận án tiến sĩ: "Bước đầu tìm hiểu cấu trúc hội thoại, cuộc thoại, đoạn thoại" của Nguyễn Thị Đan, Trường Đại Sư phạm Hà Nội I, 1995 và "Đề tài diễn ngôn: Sự cộng tác hội thoại để hình thành đề tài diễn ngôn và các hành vi dẫn nhập đề tài diễn ngôn" của Chu Thị Thanh Tâm, Trường Đại Sư phạm Hà Nội I, 1995.
Lý thuyết hội thoại còn được soi sáng trong từng tác phẩm văn chương cụ thể qua một số bài nghiên cứu, luận văn tiến sĩ hay luận văn cử nhân như: luận án tiến sĩ "Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao" của Mai Thị Hảo Yến, ĐHSP Hà Nội I, 2000; luận văn cử nhân"Tìm hiểu thoại dẫn trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố" của Vũ Thị Quyên, ĐHSP Thái Nguyên, 2003. Trong hai công trình này, các giả đều chú ý tìm hiểu về thoại dẫn - một bộ phận quan trọng của hội thoại chứ không đi sâu vào lời thoại.
Tóm lại, các công trình đã dẫn trên đây cho thấy hội thoại là một mảnh đất màu mỡ cần được nghiên cứu và khai thác song việc đi sâu tìm hiểu lời thoại trong từng tác phẩm cụ thể là vấn đề vẫn còn để ngỏ như đã nói ở trên.
2.2. Về nghiên cứu văn xuôi Vi Hồng
2.2.1. Từ góc độ văn chương
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu các tác phẩm của nhà văn Vi Hồng đã được quan tâm và chú trọng. Một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã khai thác các tác phẩm của nhà văn Vi Hồng dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong luận văn“Tính dân tộc trong tiểu thuyết: Tháng năm biết nói; Chồng thật vợ giả và Núi cỏ yêu thương của nhà văn Vi Hồng" (Luận văn cử nhân, ĐHSP Thái Nguyên, 2004), Nông Thị Quỳnh Trâm đã làm sáng tỏ và khẳng định những đặc sắc của tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng trên hai phương diện: nội dung (tìm hiểu tính dân tộc qua cảm hứng về thiên nhiên, về phong tục tập quán, về nhân vật và cốt cách - tâm hồn nhân vật trong tác phẩm) và hình thức (biện pháp so sánh - liên tưởng, câu văn giàu hình ảnh, cách xây dựng kết cấu theo lối truyền thống .).
Cũng nghiên cứu về tính dân tộc trong tác phẩm của Vi Hồng, luận văn thạc sĩ "Tính dân tộc trong tiểu thuyết Vi Hồng" (Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên, 2003) của tác giả Hoàng Văn Huyên được xem là công trình nghiên cứu công phu nhất về tiểu thuyết Vi Hồng từ trước đến nay. Trong đó, luận văn đã chỉ ra cốt cách tâm hồn dân tộc Việt Bắc trong hệ thống nhân vật Vi Hồng, chỉ ra một số phương diện nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc như: lời văn giản dị, mộc mạc
Còn tác giả Vi Hà Nguyên thì tìm hiểu "Hình tượng nhân vật thiếu nhi trong truyện viết cho thiếu nhi của Vi Hồng" (Luận văn cử nhân, ĐHSP Thái Nguyên, 2004). Trên cơ sở những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật thiếu nhi của Vi Hồng, luận văn đã có được cái nhìn đúng đắn về sự phản ánh con người miền núi trong sáng tác của nhà văn, thấy được nét độc đáo
trong sáng tạo nghệ thuật của tác giả, góp phần khẳng định những đóng góp của Vi Hồng trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Đặc biệt, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng đã được TS Phạm Mạnh Hùng - Đại học Thái Nguyên nghiên cứu một cách toàn diện trong đề tài "Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng" (Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2003). Trong khi việc nghiên cứu và tìm hiểu văn xuôi Vi Hồng còn mới mẻ thì đề tài này có ý nghĩa quan trọng nhằm cung cấp những cứ liệu về các tác phẩm của Vi Hồng.
2.2.2. Từ góc độ ngôn ngữ
Trên phương diện ngôn ngữ, có một số đề tài và luận văn cử nhân của sinh viên như: "Giọng điệu trần thuật trong văn xuôi Vi Hồng" (Đề tài nghiên cứu khoa học, ĐHSP Thái Nguyên, 2005) của Ngô Thu Thuỷ, "Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết "Người trong ống" của nhà văn Vi Hồng" (Luận văn cử nhân, ĐHSP Thái Nguyên, 2007) của Trần Thị Hồng Nhung . nghiên cứu về các tác phẩm của nhà Vi Hồng từ các góc độ như: giọng điệu trần thuật, cấu trúc ngữ pháp, cách sử dụng từ ngữ . nhằm toát lên phong cách của nhà văn.
Tuy nhiên, nếu xét từ phương diện ngữ dụng học thì hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng một cách bài bản và có hệ thống.
Tóm lại, các công trình đã dẫn trên cho thấy việc nghiên cứu văn xuôi Vi Hồng dưới nhiều góc độ bắt đầu có sức thu hút nhiều người nghiên cứu. Như đã nói ở mục lí do chọn đề tài, dưới góc độ văn chương, các tác phẩm của nhà văn Vi Hồng đặc biệt được quan tâm bởi những nét độc đáo trong ngôn ngữ cũng như trong cách xây dựng nhân vật của ông. Nhưng xét từ phương diện ngữ dụng học, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về hội thoại nói chung và đặc điểm lời thoại nói riêng trong văn xuôi Vi
Hồng. Vì thế, tác giả luận văn này đã chọn hướng nghiên cứu đặc điểm lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng từ phương diện ngữ pháp truyền thống, phương diện ngữ dụng học và phương diện văn hoá. Hy vọng công trình này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm những nét độc đáo của phong cách nhà văn Vi Hồng - một trong số những nhà văn dân tộc thiểu số miền núi tiêu biểu của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lời thoại trong văn xuôi của Vi Hồng, luận văn nhằm bốn mục đích chính sau đây:
Thứ nhất: Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của lời thoại trong văn xuôi Vi
Hồng để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật của ông.
Thứ hai: Tìm hiểu lời thoại trong văn Vi Hồng để hiểu thêm về ngôn ngữ của đồng bào dân tộc Tày nói riêng và đồng bào miền núi Việt Bắc nói chung.
Thứ ba: Bước đầu tìm hiểu lý thuyết hội thoại từ góc nhìn văn hóa.
Thứ tư: Làm tư liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu về ngôn ngữ trong văn Vi Hồng nói riêng và trong văn xuôi nói về miền núi Việt Bắc
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nói trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ sau đây:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý thuyết ngôn ngữ như: lý thuyết về ngữ dụng học, lý thuyết ngữ pháp tiếng Việt (từ, câu .), lý thuyết về cơ sở văn hoá.
- Khảo sát và phân loại lời thoại trong văn Vi Hồng theo các tiêu ch
đặt ra.
- Miêu tả lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng về các phương diện: cấu tạo
ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng học.
- Tìm hiểu những yếu tố cơ bản tạo nên nét riêng của lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là lời thoại trong một số tác
phẩm văn xuôi tiêu biểu của Vi Hồng, đó là:
- Chồng thật - vợ giả;
- Đi tìm giàu sang;
- Núi cỏ yêu thương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Có thể nghiên cứu lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng từ nhiều phương diện nhưng luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
- Tìm hiểu lời thoại trong văn xuôi của Vi Hồng về mặt cấu tạo ngữ pháp;
- Tìm hiểu lời thoại trong văn xuôi của Vi Hồng về mặt dụng học, cụ thể:
+ Tìm hiểu những lớp hành vi ngôn ngữ được sử dụng trong lời thoại ở văn xuôi Vi Hồng;
+ Tìm hiểu chủ ngôn của các hành vi ngôn ngữ của lời thoại;
+ Tìm hiểu việc sử dụng hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong lời thoại.
- Tìm hiểu những yếu tố cơ bản tạo nên nét riêng của lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp thống kê – phân loại: phương pháp nghiên cứu này được dùng để thống kê và phân loại lời thoại trong các tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: phương pháp nghiên cứu này được dùng để phân tích lời thoại, tổng kết các kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp đối chiếu – so sánh: phương pháp nghiên cứu này được dùng để đối chiếu lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng với những cách diễn đạt khác khi cần thiết để làm nổi bật đặc điểm và vai trò của lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nguồn trích dẫn,
luận văn gồm 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
Chương 2. Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng xét từ phương diện cấu tạo ngữ pháp
Chương 3. Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng xét từ phương diện dụng học
Chương 4. Những yếu tố cơ bản tạo nên nét riêng của lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng.
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Cấu trúc của luận văn 8
Phần nội dung chính 9
Chương 1 - Cơ sở lý thuyết 9
1.1. Lý thuyết về ngữ dụng học 9
1.2. Vài nét về bản sắc văn hoá dân tộc và bản sắc văn hoá Tày 32
1.3. Vài nét về ngôn ngữ trong văn xuôi Vi Hồng 33
1.4. Kết luận chương 34
Chương 2 - Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng xét từ phương diện
cấu tạo ngữ pháp 35
2.1. Cấu tạo ngữ pháp của lời dẫn nhập (tham thoại dẫn nhập) trong
văn xuôi Vi Hồng 35
2.2. Cấu tạo ngữ pháp của lời hồi đáp (tham thoại hồi đáp) trong văn
xuôi Vi Hồng 44
2.3. Cấu tạo ngữ pháp của lời thoại phức hợp trong văn xuôi Vi Hồng 53
2.4. Kết luận chương 63
Chương 3 - Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng xét về phương diện
dụng học 64
3.1. Những lớp hành vi ngôn ngữ được sử dụng trong lời thoại (trong
văn xuôi Vi Hồng) 64
3.2. Chủ ngôn của các hành vi ngôn ngữ trong lời thoại (trong văn
xuôi Vi Hồng) 86
3.3. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp được
sử dụng trong lời thoại (trong văn xuôi Vi Hồng) 91
3.4. Kết luận chương 102
Chương 4 - Những yếu tố cơ bản tạo nên nét riêng của lời thoại
trong văn xuôi Vi Hồng 103
4.1. Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng sử dụng hệ thống từ của tiếng
dân tộc 103
4.2. Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng sử dụng hệ thống thành ngữ 108
4.3. Phương thức diễn đạt trong lời thoại (trong văn xuôi Vi Hồng) 110
4.4. Phong tục tập quán của dân tộc Tày thể hiện trong lời thoại
(trong văn xuôi Vi Hồng) 114
4.5. Kết luận chương 116
Phần kết luận 117
Tài liệu tham khảo và tư liệu khảo sát 119 .
126 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bước đầu tìm hiểu lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
459 hành vi, chiếm tỷ
lệ 96,63% trong tổng số các hành vi ngôn ngữ có trong lời dẫn nhập
(459/475), chiếm tỷ lệ 22,56% trong tổng số các hành vi ngôn ngữ trực tiếp
(459/2034).
Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo lối trực tiếp trong lời dẫn
nhập của văn xuôi Vi Hồng phổ biến nhất là hành vi hỏi. Bên cạnh đó là các
hành vi như: chào, khuyên, yêu cầu, đề nghị… Xin dẫn lại các ví dụ: ví dụ (9)
và ví dụ (12):
Ví dụ (9):
Một thoáng gió từ núi Mây thổi qua mang theo mùi hương dìu dịu.
Hoan hít căng lồng ngực làn không khí trong lành ấy.
- Khoan khoái lắm hả? Anh có biết hương đó là hương hoa gì không?
Tàm hỏi Hoan.
- Hương của trăm hoa anh ạ.
[58,74]
Ví dụ (12):
- Em nên đi học đại học đi, Na à. Em là người con gái thông minh có
bản lĩnh lắm.
- Cảm ơn anh! Nhờ anh Tàm "trả thù" được cho em...Em mới thoát nỗi
uất ức trong lòng...
[58,148]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
Trong lời dẫn nhập ở ví dụ (9), bên cạnh hành vi ngôn ngữ trực tiếp chú
thích “Tàm hỏi Hoan” là hai hành vi ngôn ngữ trực tiếp hỏi. Hành vi hỏi thứ
nhất là “Khoan khoái lắm hả?” và hành vi hỏi thứ hai là “Anh có biết hương
đó là hương hoa gì không? ”.
Lời dẫn nhập ở ví dụ (12) bao gồm hai hành vi ngôn ngữ trực tiếp, hành
vi khuyên “Em nên đi học đại học đi, Na à” và hành vi nhận xét “Em là
người con gái thông minh có bản lĩnh lắm”.
Lời dẫn nhập có khi chỉ có một hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Xin dẫn ví
dụ dưới đây:
Ví dụ (35):
- Cô ở đâu đến đây?
- Em ở Nậm Đáo.
[58,26]
Ở ví dụ trên, hành vi ngôn ngữ trực tiếp trong lời dẫn nhập chỉ là một
hành vi hỏi “Cô ở đâu đến đây?”
Nhưng cũng có khi lời dẫn nhập chứa hơn hai hành vi ngôn ngữ trực
tiếp. Dưới đây là ví dụ tiêu biểu :
Ví dụ (36):
- Nồm ạ, mẹ nghe người ta nói những câu trâu vẩy tai, khỉ nhăn mặt về
con rồi. Con còn muốn cho mẹ sống thì con hãy đi làm ruộng, làm nương
cũng mọi người trong bản, trong mường. Một hôm mẹ Nồm bảo thế.
Nồm nói lại:
- Con cũng muốn đi làm theo hợp tác nhận ruộng khoán đám to đám
nhỏ. Nhưng đám to thì nai nó xuống ăn đám nhỏ thì chim xuống rỉa. Mẹ cứ yên
tâm, con chạy hàng một đoạn nữa...Thế nào con cũng nghe lời mẹ thôi mà.
[58, 35]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Lời dẫn nhập ở ví dụ trên bao gồm ba hành vi ngôn ngữ trực tiếp: hành
vi kể là “mẹ nghe người ta nói những câu trâu vẩy tai, khỉ nhăn mặt về con
rồi”, hành vi khuyên “Con còn muốn cho mẹ sống thì con hãy đi làm ruộng,
làm nương cũng mọi người trong bản, trong mường” và hành vi chú thích
“Một hôm mẹ Nồm bảo thế”.
b. Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo lối trực tiếp trong lời hồi đáp
Chúng tôi đã thống kê được 470 hành vi ngôn ngữ sử dụng theo lối trực
tiếp ở lời hồi đáp trong lời thoại văn xuôi Vi Hồng. Số lượng này chiếm tỷ lệ
96,51% tổng số các hành vi ngôn ngữ có trong lời hồi đáp (470/487), chiếm
tỷ lệ 23,11% tổng số các hành vi ngôn ngữ tiếp (470/2034).
Các hành vi ngôn ngữ sử dụng theo lối trực tiếp trong lời dẫn nhập
thường là các hành vi xác nhận, thông báo, giải thích, khẳng định hoặc từ
chối... Xin dẫn lại ví dụ (29):
Ví dụ (29):
- Anh Tàm, cơn gió lành hay cơn nắng gắt đưa anh đến nhà tôi?
- Cháu đến nhà bá là nhờ cơn gió lành thôi ạ. Cháu nghe Nồm không
được khoẻ, cháu đến thăm.
[58,76]
Trong ví dụ này, lời hồi đáp của Tàm trả lời câu hỏi mẹ Nồm chứa hai
hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Hành vi thứ nhất là hành vi xác nhận “ Cháu đến
nhà bá là nhờ cơn gió lành thôi ạ”. Hành vi thứ hai là hành vi giải thích
“Cháu nghe Nồm không được khoẻ, cháu đến thăm”.
Xin dẫn một ví dụ khác:
Ví dụ (37):
- Cháu muốn tìm thấy niềm tin ở lòng người cơ !
- Phải !Lòng người tức là lòng trời cháu ạ.
[60, 250]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Trong ví dụ này, lời hồi đáp của nhân vật là hai phát ngôn. Phát ngôn
thứ nhất “Phải!” là hành vi ngôn ngữ trực tiếp xác nhận. Phát ngôn thứ hai
“Lòng người tức là lòng trời cháu ạ” là hành vi ngôn ngữ trực tiếp khẳng định.
c. Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo lối trực tiếp trong lời thoại
phức hợp
Theo thống kê của chúng tôi, hành vi ngôn ngữ sử dụng theo lối trực
tiếp trong lời thoại phức hợp văn xuôi Vi Hồng là 1105 hành vi, chiếm tỷ lệ
95,84% tổng số các hành vi ngôn ngữ có trong lời thoại phức hợp
(1105/1153), chiếm tỷ lệ 54,33% tổng số các hành vi ngôn ngữ trực tiếp
(1105/2034).
Các hành vi ngôn ngữ trực tiếp trong lời thoại phức hợp thường là hai
hành vi ngôn ngữ trực tiếp trở lên đi kèm như trả lời - hỏi, chấp nhận – yêu
cầu v.v...vì nó vừa là hành vi hồi đáp vừa là hành vi dẫn nhập. Xin dẫn ví dụ
tiêu biểu dưới đây:
Ví dụ (38):
- Thưa bác Hỷ ! Đáng lẽ tôi phải về nhà rồi, nhưng để tỏ ra con người
có trước có sau tôi quay lại, xin hỏi ông bà một câu: Ông bà không thấy em
Nhình nói gì với ông bà hay sao?
- Tao chẳng thấy con gái tao nói gì! Mày hãy về nhà mày đi. – Bà Hỷ
bình tĩnh hơn. Nó lại cười to và cười dài rồi nói.
- Thôi được, tý nữa em Nhình về bác bá hãy hỏi nó. À, mà cũng chẳng
cần hỏi rồi em Nhình sẽ tự nói thôi mà. Lúc nãy tôi về tôi quên chào bác bá.
Nay tôi xin chào bác bá đã cho tôi ở nhờ, ăn nhờ hai năm ròng. Tôi cảm ơn,
tôi xin về nhà tôi.
[60,115]
Đây là cuộc thoại diễn ra giữa bà Hỷ và Ma Chàn trích trong tác phẩm
“Đi tìm giàu sang”. Phần in nghiêng trong ví dụ là lời thoại phức hợp của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
cuộc thoại. Trong đó, lời của nhân vật chứa hai hành vi ngôn ngữ trực tiếp.
Trong đó, hành vi thứ nhất “Tao chẳng thấy con gái tao nói gì!” là hành vi trả
lời cho lời dẫn nhập của bà Hỷ. Hành vi thứ hai là hành vi yêu cầu “Mày hãy
về nhà mày đi” có vai trò dẫn nhập cho lời thoại, đòi hỏi một hành vi hồi đáp
tiếp theo. Lòng người tức là lòng trời cháu ạ”. Ngoài ra, trong lời thoại này
cũng chứa lời của tác giả bao gồm hai hành vi trực tiếp miêu tả “Bà Hỷ bình
tĩnh hơn” và “Nó lại cười to và cười dài rồi nói” có tác dụng chú thích cho
lời thoại.
3.2.2.2. Các hành vi ngôn ngữ đƣợc sử dụng theo lối gián tiếp
a. Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo lối gián tiếp trong lời dẫn nhập
Số lượng hành vi ngôn ngữ sử dụng theo lối gián tiếp trong lời dẫn
nhập văn xuôi Vi Hồng theo thống kê của chúng tôi là 16 hành vi, chiếm tỷ lệ
3,37% tổng số các hành vi có trong lời dẫn nhập (16/475), chiếm tỷ lệ
19,75% tổng số các hành vi ngôn ngữ gián tiếp (16/81).
Các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong lời dẫn nhập của văn xuôi Vi
Hồng chủ yếu được thể hiện qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp hỏi. Bên cạnh đó,
một số ít hành vi ngôn ngữ gián tiếp khác được thể hiện qua hành vi ngôn ngữ
trực tiếp như hành vi thông báo hay hành vi miêu tả. Xin dẫn ví dụ tiêu biểu
dưới đây:
Ví dụ (39):
- Mày thử tìm xem nhà mày có một thứ gì, hay bản thân mày có một cái
gì là của hàng hai, hạng ba hay không? Nếu có một cái - chỉ cần một cái thôi
thì bọn tao phục mày lắm !...
[60,84]
Ví dụ trên được trích từ tác phẩm “Đi tìm giàu sang” . Trong đó, bạn bè
Ma Chàn đã đặt ra câu hỏi đối với Ma Chàn “Mày thử tìm xem nhà mày có
một thứ gì, hay bản thân mày có một cái gì là của hàng hai, hạng ba hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
không?” để nhằm mỉa mai Ma Chàn - một tên ngu đần nhưng hợm hĩnh, khoe
của, lúc nào cũng cho rằng mình và mọi thứ của mình là nhất thiên hạ.
Xin dẫn ví dụ khác :
Ví dụ (40):
- Có thế nào anh cho chúng em một ý kiến chứ? Sao anh lại đứng như
một gốc cây vậy? – Đán sốt ruột hỏi.
- Dễ thôi, có gì mà khó. Ta cứ tổ chức như kiểu cũ nhưng chỉ ăn có một
bữa chiều thôi. Ai cầm sổ ghi tiền mừng thì cầm đi! Ai nhận của tặng thì đứng
ra. Ai tiếp khách gì khách trẻ thì phân nhau mà tiếp. Khách già thì nhờ bố
Slao với già Nhân tiếp hộ…
[58 142]
Trên đây là cuộc đối thoại giữa Đán và Tàm trong tác phẩm “Núi cỏ
yêu thương”. Phát ngôn thứ nhất trong lời thoại của Đán “Có thế nào anh cho
chúng em một ý kiến chứ?” là hành vi trực tiếp hỏi nhưng đích ở lời là đề
nghị rằng: Anh hãy cho chúng em một ý kiến đi. Phát ngôn thứ hai của Đán
“Sao anh lại đứng như một gốc cây vậy?” là hành vi hỏi nhưng để đánh giá
thái độ dửng dưng của Tàm trước việc tổ chức đám cưới cho Cốc và Slao.
Trong lời dẫn nhập, hành vi ngôn ngữ gián tiếp bộc lộ còn được thể
hiện qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp thông báo và miêu tả. Xin dẫn ví dụ dưới đây:
Ví dụ (41):
- Ôi, con Voi bị toác mặt rồi! Có máu chảy...- Slao nói giọng run run.
[58,166]
Trong ví dụ này, thông qua việc thông báo “con Voi bị toác mặt rồi”
và miêu tả “ Có máu chảy...”, Slao đã bộc lộ sự sợ hãi của mình.
b. Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo lối gián tiếp trong lời hồi đáp
Theo thống kê của chúng tôi, nhà văn Vi Hồng đã sử dụng 17 hành vi
ngữ sử dụng theo lối gián tiếp trong lời thoại hồi đáp. Số lượng này chiếm tỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
lệ 3,49% tổng số các hành vi có trong lời hồi đáp (17/487), chiếm tỷ lệ
20,99% tổng số các hành vi ngôn ngữ gián tiếp (17/81).
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong lời hồi đáp có khi là hành vi đe doạ
thông qua hành vi hỏi hoặc hành vi thông báo, có khi là hành vi bác bỏ thông
qua hành vi miêu tả, có khi là hành vi bộc lộ thông qua hành vi hỏi. Dưới đây
là ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (42):
- Bố biết bố chẳng còn sống được với con với cháu! Bố cố đợi chờ cho
vợ con có con...
- Sáng nay nhà con vừa đẻ con trai.
[59,88]
Ví dụ trên được trích trong tác phẩm "Chồng thật -vợ giả". Rằng Xao
thông báo với bố mình "Sáng nay nhà con vừa đẻ con trai" để an ủi ông yên
tâm nhắm mắt vì bố Rằng Xao đang rất mong mỏi nhìn thấy đứa cháu đích
tôn trước khi gần đất xa trời.
Bên cạnh đó, trong lời hồi đáp, hành vi ngôn ngữ gián tiếp dọa còn
được thể hiện qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp hỏi. Xin dẫn ví dụ dưới đây:
Ví dụ (43):
- Đời này con cháu cháu chúng ta giỏi chữ văn minh hơn chúng ta
nhiều lắm, chú à.
- Ồ, cái chữ leo dây xoắn ấy à? Đến cái chữ người Tây còn chẳng ăn ai
huống hồ quốc ngữ, cái chữ chỉ để ghi những thơ văn nhảm nhí.
- Thế mà cái chữ ấy đã đánh đổ cả chữ Tây, chữ vuông đấy.
- Bác nói thế không sợ phạm huý đến thánh Khổng à?
[58,66]
Đây là cuộc thoại diễn ra giữa già Nhân và lão chánh Kiệm trích trong
tác phẩm “Núi cỏ yêu thương”. Trong lời hồi đáp, chánh Kiệm đã dùng hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
vi hỏi “Bác nói thế không sợ phạm huý đến thánh Khổng à?” để doạ già Nhân
vì già Nhân ủng hộ cho chữ quốc ngữ hơn là chữ vuông - một biểu tượng của
thánh Khổng được hầu hết cộng đồng tôn thờ.
c. Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo lối gián tiếp trong lời thoại
phức hợp
Theo thống kê của chúng tôi, số lượng hành vi ngôn ngữ sử dụng theo
lối gián tiếp trong lời thoại phức hợp của văn xuôi Vi Hồng là 48 hành vi,
chiếm tỷ lệ 4,16% tổng số các hành vi có trong lời thoại phức hợp
(48/1153), chiếm tỷ lệ 59,26% tổng số các hành vi ngôn ngữ gián tiếp
(48/81).
Trong lời thoại phức hợp, số lượng hành vi ngôn ngữ gián tiếp được sử
dụng nhiều hơn so với lời dẫn nhập và lời hồi đáp. Nhưng giống với lời dẫn
nhập, hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong lời thoại phức hợp cũng chủ yếu được
thể hiện qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp hỏi. Ngoài ra, số ít hành vi ngôn ngữ
gián tiếp được thể hiện qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp khẳng định, miêu tả
hoặc tuyên bố. Xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu dưới đây:
Ví dụ (44):
- Anh Eng bảo em đi tìm giàu sang. Bà em thì bảo anh Eng đi tìm giàu
sang chủ yếu ở hai bàn tay và khối óc. Còn em thì đi buôn. Buôn nhỏ rồi buôn
lớn. Như vậy mới chóng tìm đến giàu sang.
- Nọi mà cũng biết buôn bán ư? Người ta bảo tất cả những kẻ đi buôn
bán đều ăn gian nói dối có phải không Nọi?
- Nó cũng tuỳ người chị à…
[60, 203]
Ví dụ (45):
- Nồm, anh hỏi thật em nhé! Chuyện giữa anh và chị Đài của em, em
biết rồi. Anh muốn trả hết nghĩa hết tình…Anh có lỗi với cụ…Bây giờ nếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
anh yêu em, lấy em làm vợ, em có bằng lòng không? Em thấy có nên không?
Nếu nên hay không nên em cứ bảo thẳng anh như đứa em gái nói với anh trai
của mình.
- Trời ơi…đất ơi! - Nồm khẽ rên rỉ - Em không còn xứng đáng với anh
nữa anh Tàm ạ! Em là bông hoa rữa đã tàn…Nồm lại khóc – Tàm kéo Nồm
lại sát mình.
- Em đừng khóc, Nồm! Mọi chuyện của em anh biết cả.
[58, 157-158]
Ví dụ (46):
- Sao bảo anh ốm mà? Na hỏi…
- Anh khoẻ rồi.
- Tốt quá! Anh cùng em sang dự đám cưới đi! Cốc, Slao và mọi người
cứ hỏi anh, mong anh đấy – Na nói sôi nổi.
- Nhưng nhà không ai trông?
- Anh cứ làm như ở đây có kẻ cắp như kiến không bằng! Anh mở cửa
suốt đêm xem người Nậm Đáo có thèm lấy của anh không? – Na nói có vẻ
giận dỗi.
- Nhưng anh…anh buồn! À không…anh vẫn mệt…- Hoan trở nên lúng
túng thật sự.
[58,146]
Trong ví dụ (44), Nhình Hỷ đã bộc lộ thái độ nghi ngờ đối với Nọi qua
hành vi hỏi “Nọi mà cũng biết buôn bán ư?” vì trong suy nghĩ của Nhình Hỷ,
một cô gái như Nọi không thể đi buôn được.
Trong ví dụ (45), trước lời tỏ tình của Tàm, Nồm đã thể hiện sự từ chối
thông qua sự khẳng định “Em không còn xứng đáng với anh nữa anh Tàm ạ”
và miêu tả thân phận của mình “Em là bông hoa rữa đã tàn…”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
Còn trong ví dụ (46), ba phát ngôn của Hoan bao gồm: phát ngôn thứ
nhất “Nhưng nhà không ai trông?” là hành vi hỏi, phát ngôn thứ hai “Nhưng
anh…anh buồn!” là hành vi giải thích và phát ngôn thứ ba “À không…anh
vẫn mệt…” là hành vi khẳng định để nhằm một đích khác là từ chối lời đề
nghị của Na “Anh cùng em sang dự đám cưới đi!”. Trong cuộc thoại đã dẫn,
thông qua hành vi hỏi “Anh mở cửa suốt đêm xem người Nậm Đáo có thèm
lấy của anh không?”, nhân vật Na đã gián tiếp khẳng định với Hoan rằng: Ở
Nậm Đáo không có người ăn cắp. Đồng thời qua hành vi hỏi, Na cũng gián
tiếp bộc lộ thái độ trách móc, giận dỗi với Hoan.
3.2.3. Kết luận
Căn cứ vào tiêu chí đích ở lời của hành vi ngôn ngữ, chúng ta nhận
thấy, trong lời thoại của văn xuôi Vi Hồng, hành vi ngôn ngữ trực tiếp được
sử dụng với số lượng lớn hơn rất nhiều so với hành vi ngôn ngữ gián tiếp.
Xét cụ thể trong từng loại lời thoại, tỷ lệ của hành vi ngôn ngữ trực tiếp cũng
chiếm ưu thế hơn hẳn so với hành vi ngôn ngữ gián tiếp.
Có thể hình dung hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián
tiếp trong lời thoại văn xuôi Vi Hồng qua bảng tổng kết 3.8 sau đây:
Bảng 3.8. Bảng tổng kết các hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi
ngôn ngữ gián tiếp trong lời thoại văn xuôi Vi Hồng
Hành vi
ngôn ngữ
Số lƣợng
Tổng số
Tỷ lệ %
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp Hành vi ngôn ngữ gián tiếp
Ở lời dẫn
nhập
Ở lời hồi
đáp
Ở lời
thoại
phức hợp
Ở lời dẫn
nhập
Ở lời hồi
đáp
Ở lời
thoại
phức hợp
Số lƣợng 459 470 1105 16 17 48
Tổng số 2034 81
Tỷ lệ % 96,17 3,83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
3.4. Kết luận chƣơng
Xét lời thoại của văn xuôi Vi Hồng từ phương diện dụng học, trong
giới hạn một chương, chúng tôi chỉ tìm hiểu hành vi ngôn ngữ của lời thoại ở
một số nội dung chủ yếu như sau:
Dựa vào cách phân loại các hành vi ngôn ngữ của Searle, chúng tôi
xếp các hành vi ngôn ngữ được Vi Hồng sử dụng trong lời thoại vào 5 lớp, đó
là: lớp hành vi miêu tả, xác tín (lớp hành vi trình bày), lớp hành vi điều khiển,
lớp hành vi cam kết, lớp hành vi biểu cảm và lớp hành vi tuyên bố. Trong 05
lớp này, lớp hành vi miêu tả, xác tín chiếm số lượng nhiều nhất nhưng hành vi
hỏi thuộc lớp hành vi điều khiển lại được sử dụng nhiều nhất.
Chúng tôi cũng đã tiến hành phân loại hành vi ngôn ngữ của lời thoại
trong văn xuôi Vi Hồng xét về phương diện chủ ngôn của hành động nói.
Theo đó, hành vi ngôn ngữ trong lời thoại văn xuôi Vi Hồng được tách thành
hai nhóm: chủ ngôn của hành vi ngôn ngữ trong lời thoại là nhân vật trong tác
phẩm và chủ ngôn của hành vi ngôn ngữ trong lời thoại là tác giả trong tác
phẩm. Trong đó, nhóm hành vi ngôn ngữ có chủ ngôn của hành vi ngôn ngữ
trong lời thoại là nhân vật trong tác phẩm chiếm số lượng chủ yếu.
Bên cạnh đó, chúng tôi đã phân loại hành vi ngôn ngữ lời thoại của văn
xuôi Vi Hồng dựa vào tiêu chí đích ở lời. Dựa vào tiêu chí này, hành vi ngôn
ngữ được chia thành hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián
tiếp. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp được sử dụng với số lượng chủ yếu trong lời
thoại văn xuôi Vi Hồng.
Có thể thấy, hành vi ngôn ngữ trong lời thoại văn xuôi Vi Hồng được sử
dụng tương đối phong phú và đa dạng. Điều đó đã góp phần làm cho lời thoại
của tác phẩm giàu màu sắc và sinh động và cũng cho ta thấy được sự đa dạng
trong hội thoại trong tác phẩm của Vi Hồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
Chƣơng 4
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TẠO NÊN NÉT RIÊNG CỦA LỜI
THOẠI TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG
Xét từ góc độ văn hoá, có thể nhận thấy bản sắc văn hoá dân tộc Tày
thấm đượm trong từng lời thoại trong các tác phẩm của Vi Hồng. Vì thế, ở
chương này, luận văn xét giá trị lời thoại văn xuôi Vi Hồng ở phương diện lời
thoại đã thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc như thế nào thông qua một số nội
dung sau:
- Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng sử dụng hệ thống từ của tiếng dân tộc;
- Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng sử dụng hệ thống thành ngữ;
- Phương thức diễn đạt trong lời thoại (trong văn xuôi Vi Hồng);
- Phong tục tập quán của dân tộc Tày thể hiện trong lời thoại (trong văn xuôi
Vi Hồng.
4.1. Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng sử dụng hệ thống từ của
tiếng dân tộc
Tiếng dân tộc là những từ được dùng hạn chế ở một dân tộc. Đây là bộ
phận từ vựng của ngôn ngữ nói hàng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc
chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học. Tuy nhiên, từ dân tộc có sắc
thái biểu cảm lớn so với các từ đồng nghĩa tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân.
Nhà văn Vi Hồng là một trong số các tác giả đã sử dụng vốn từ địa
phương một cách hiệu quả nhằm tạo nên bản sắc dân tộc vùng Việt Bắc độc
đáo trong các tác phẩm của mình. Ông đã đưa vào lời thoại của mình những
từ ngữ địa phương một cách tự nhiên và sinh động. Sau đây là một số ví dụ
tiêu biểu:
Ví dụ (1):
- Cháu là người của mường Đán Đại có cánh đồng phì nhiêu, có con
sông Nặm Đáo nhiều cá, nước trong. Nhưng nhà cháu chẳng còn có hòn đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
để đuổi chó, ném quạ, một mẩu đất để cắm mũi dùi cũng không. Mẹ cháu thì
chết từ khi cháu mới biết cầm đũa ăn cơm. Bố cháu thì có lúc làm quan lại có
lúc làm tù, và lúc khác là kẻ nghiện nghập, đo cứt sái cho thiên hạ khinh rẻ
như hòn đất dính đế guốc...
[58, 3]
Ví dụ (2):
- Anh chỉ còn cơ ngơi này và hai cánh đồng. Hai cánh đồng có lẽ cũng
chỉ bằng cánh đồng trước cửa rừng Tu Đông anh vừa bán cho tôi có phải
không?
- Đúng thế. Tất cả chỉ còn có thế. Rồi mai kia những đám ruộng nọ và cả
mấy ngôi nhà đây nữa sẽ dần dần chui vào cái lỗ tẩu hết thôi.
[60, 229-230]
Trong hai ví dụ trên, những tên thác, tên sông, tên rừng, tên bản tên
mường (mường Đán Đại , sông Nặm Đáo, rừng Tu Đông) chỉ nghe qua đã
thấy màu sắc dân tộc Tày rất rõ nét. Chưa kể mỗi cái tên đều mang sắc thái ý
nghĩa khi chuyển qua ngôn ngữ Kinh. Ví dụ: sông Nậm Đáo trong tiếng Kinh
có nghĩa là sông nước Hồng - chỉ sự phì nhiêu, bình yên; Tu Đông trong tiếng
Kinh có nghĩa là cửa rừng. Đối với những người Việt Bắc nói riêng và đồng
bào dân tộc nói chung, cuộc sống của họ gắn với rừng núi, với sông. Vì thế,
nhà văn Vi Hồng đã gửi gắm sự gắn bó giữa con người Việt Bắc với thiên
nhiên thông qua việc dùng song song cả tiếng Tày và tiếng Việt trong lời
thoại của tác phẩm như ví dụ vừa dẫn.
Có những tên địa danh tác giả không giải thích nghĩa nhưng thể hiện
sắc thái dân tộc qua việc trở đi trở lại của chúng trong lời thoại cũng như tác
phẩm. Xin dẫn ví dụ dưới đây:
Ví dụ (3):
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
- Anh Tàm à. Thanh niên Nậm Đáo giữ rừng Núi Mây không phải làm
không công đâu. Mỗi lần khai thác, tính ra tiền, Nhà nước chia cho người giữ
một phần ba đấy. Khi làm nhà làm cửa để ở thì tha hồ chặt, chỉ phải viết cái
đơn. Đóng giường tủ bằng gỗ lát cũng được nhưng không đem bán, thế thôi.
[58, 74]
Địa danh rừng Núi Mây xuất hiện trong ví dụ này đã trở thành quen
thuộc đối với độc giả khi đọc các tác phẩm của Vi Hồng vì những địa danh
như thế thường trở đi trở lại trong suốt chiều dài tác phẩm. Vì thế những địa
danh này cũng góp phần tạo nên nét bản sắc dân tộc độc đáo trong tác phẩm
của ông.
Đặc biệt, "hồn' dân tộc còn được gợi lên qua những cái tên rất đặc
trưng của dân tộc xuất hiện trong các lời thoại như: Slao, Nồm, Cốc,
Đán...(Núi cỏ yêu thương); Eng Háo, Nhình Hỷ, Xảu Xảy, Nọi Lai...(Đi tìm
giàu sang); Thieo Si, Thieo Mây, Cẩu Tệnh, Thu Lú, Cháp Chá... (Chồng thật
- vợ giả). Sau đây là một số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (4):
- A, à, chào cháu Thieo Mây xinh đẹp cháu thiêng thật! Chú vừa định
tìm đến nhà cháu - Thieo Mây ngạc nhiên.
- Ôi, có việc gì mà chú phải đến nhà tìm cháu hay anh Vàng Khao lại
săn được thịt hươu thịt nai?
[59, 210]
Ví dụ (5):
- Này Eng Háo, dừng tay nói chuyện đã nào. Mày là người ở, kẻ khó
nhưng tao vẫn thích nói chuyện với mày. Vì cả mường này tao chỉ thấy mày
là người đẹp trai gần bằng tao! Chứ những thằng khác ấy à chỉ là con đom
đóm so với vầng trăng rằm thôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
- Kính trình anh Ma Chàn giàu sang và tôn quý! Em là kẻ khó người ở,
kẻ nghèo hèn này chẳng bao giờ dám so sánh với anh cao sang. Xin anh tha
thứ cho.
[60, 37- 38]
Mỗi cái tên xuất hiện trong các lời thoại vừa dẫn: Thieo Mây, Vàng
Khao (trong ví dụ (4)) Eng Háo hay Ma Chàn (trong ví dụ (5)) đều mang màu
sắc của dân tộc Tày. Tên gọi của nhân vật không hề cầu kỳ, hoa mỹ mà lại thể
hiện được sự mộc mạc, gần gũi giống như cuộc sống của người Tày vậy.
Để thể hiện bản sắc dân tộc trong tác phẩm của mình, nhà văn Vi Hồng
không chỉ dừng lại ở việc sử dụng thành công các danh từ riêng mà còn sử
dụng hiệu quả các từ xưng hô trong lời thoại. Xin dẫn hai ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (6):
- Con ơi! Bố mẹ có lời “bố tang” (xin lỗi) đến con, bố mẹ không bỏ
con đâu, nhưng tại cái lão chánh Kiệm già héo khô ấy…Thôi, mặc cho
lão…Thế….con tự chọn lấy người đưa dâu hay để bố mẹ mờ như cũ thì bảo
mẹ…
[58, 143]
Ví dụ (7):
- Cháu Ma Chàn à, cháu về nhà cháu đi. Cái Nhình nó không yêu cháu,
bác bá cũng không muốn ép nó thêm nữa. Bởi đã ép nó hai năm rồi mà nó
vẫn không chịu. Cháu biết đấy... - Thằng Ma Chàn kinh ngạc.
- Cái điều bác bá muốn đuổi cháu về nhà thì cháu biết từ năm ngoái.
Năm ngoái bác bá đã đuổi cháu về rồi. Nhưng vì chai mật ong thần kỳ,
nên cháu lại được về đây, về gần em Nhình thân yêu. Bá không cần những
chai mật ong kỳ diệu đó nữa hay sao?
[60,113]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Ở ví dụ (6), trong lời thoại, từ "xin lỗi" trong tiếng Việt được diễn đạt
bằng từ tiếng Tày có cùng nghĩa tương đương là "bố tang". Kiểu xin lỗi cũng
rất “Tày” giúp chúng ta hiểu được lối ứng xử rất hiền hoà, chừng mực của
người Tày. Còn trong ví dụ (7), những đại từ xưng hô bác, bá của nhân vật
hội thoại sử dụng đều được dùng theo cách nói của người Tày. Người Kinh
thường dùng từ xưng hô "bác" cho cả bác trai và bác gái. Nhưng người Tày
lại dùng riêng: Bác để chỉ bác trai; bá để chỉ bác gái. Cách dùng này cũng là
một trong những đặc trưng trong cách xưng hô của người Tày.
Thông qua lời thoại trong các tác phẩm của Vi Hồng, chúng ta còn
được biết đến các loài hoa lạ, hoa đẹp, loài chim đặc trưng của núi rừng Việt
Bắc. Xin dẫn hai ví dụ dưới đây:
Ví dụ (8):
- Những con sam – pec mùa này khổ nhỉ? – Slao nói.
- Anh tài khổ hơn, vì phải nằm trong tổ suốt ngày, lại phải nhổ lông
mình ra lót ổ cho con nở nữa – Đán nói.
[58,113]
Ví dụ (9):
- Thế còn bông bióoc loỏng trên rừng, ngày nào anh cũng lên với nó thì
anh nghĩ sao?
- A…Slao nói đúng lắm. Bióoc loỏng, hoa đẹp nhất rừng, thơm nhất
các loài hoa. Đán này chẳng dám với đến bông hoa đẹp như vậy đâu.
[58,125]
Ở hai ví dụ vừa dẫn, trong lời thoại của nhân vật, nhà văn Vi Hồng đã
giới thiệu hình ảnh hai loài chim đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc là chim sam-
pec và chim anh tài (ví dụ (8)) và hình ảnh những bông hoa bióoc loỏng (ví
dụ (9). Nếu hoa bióoc loỏng là loài hoa đẹp nhất rừng bởi hương sắc rực rỡ
của nó thì chim anh tài, sam - péc lại nổi bật bởi mỏ đỏ chót, lông cổ óng ánh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
lông ức, lông cánh và lông đuôi màu đen điểm trắng, màu vàng tươi. Nhìn
sam - péc bay ngỡ đó là những nàng tiên trong truyện cổ đang múa lượn trên
trời đầy nắng rực rỡ. Nhờ những hình ảnh này, lời thoại của Vi Hồng dường
như trở nên sinh động hơn và ấn tượng hơn.
4.2. Lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng sử dụng hệ thống thành ngữ
Chất liệu dân gian luôn được các nhà văn, nhà thơ khai thác và đưa vào
tác phẩm của mình. Là một người con của dân tộc Tày, cầm bút viết văn về
cuộc sống của người Tày nên nhà văn Vi Hồng thoả sức khai thác chất liệu
dân gian cho các tác phẩm của mình. Cách khai thác ấy chủ yếu bằng cách tác
giả sử dụng các thành ngữ, tục ngữ dân gian Việt Nam để diễn đạt theo lối nói
của người Tày. Trong lời thoại của ông, chúng ta có thể bắt gặp nhiều lối nói
như thế.
Dưới đây là ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (10):
- Lạy bác ngồi giường trên. Lạy bác ngồi giường dưới. Tôi là kẻ bị
quan cướp hết ruộng vườn nhà cửa nên phải đi ăn mày. Đến đây tôi thấy vườn
bác rộng, sông bác lớn. Tôi mong bác lấy lông tay xuống đắp, lấy lông chân
xuống che chở cho tôi ở nhờ đất, nhờ mường. Được vậy tôi sẽ đội cái ơn của
họ bác trên đầu làm tóc.
Người đứng đầu họ Đàm đỡ ông ta đứng dậy và nói những lời mở rộng
đường chân trời:
- Họ chúng tôi cũng mới đến mường này khai phá được mấy đời thôi.
Trước kia họ tôi cũng khổ. Cho nên họ tôi vẫn lấy sự thẳng ngay làm con
đường sống. Lấy cái bụng rộng đối xử với mọi việc. Họ tôi không bao giờ
gánh nước đi qua nhà người khác đang chảy mà không dừng lại. Họ tôi
không phải là người đi mảng thấy người sắp chìm xuống sông lại nhắm mắt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
Người anh em cứ ở đây với đất mường. Bạn đừng lo cái lo ông trời nhỏ lại
bằng hạt vòng.
[58, 13-14]
Đây là cặp thoại giữa người họ Hoàng đang cầu xin người họ Đàm che
chở, giúp đỡ cho ở nhờ vì họ đã bị cướp hết ruộng đất. Trong đó, lời cầu
khẩn của họ Hoàng “Tôi mong bác lấy lông tay xuống đắp, lấy lông chân
xuống che chở cho tôi ở nhờ đất, nhờ mường” tương ứng với thành ngữ "lá
lành đùm lá rách" trong tiếng Kinh. Đáp lại lời cầu khẩn này, câu trả lời của
họ Đàm “Họ tôi không bao giờ gánh nước đi qua nhà người khác đang chảy
mà không dừng lại. Họ tôi không phải là người đi mảng thấy người sắp chìm
xuống sông lại nhắm mắt” tương ứng với ý của câu “thấy người chết đuối mà
không cứu". Qua cặp thoại trên, người đọc càng thấy được cách vận dụng
thành ngữ Tày rát linh hoạt trong cách diễn đạt của tác giả.
Nhà văn Vi Hồng cũng vận dụng câu tục ngữ khác trong ví dụ dưới đây:
Ví dụ (11):
- Vẫn là đồ con khỉ ăn quả rừng sâu, con diều bắt rắn ở bụi bờ thôi.
Nhưng vấn đề là không có hổ làm sao có dấu chân – không có ốc làm sao có
được mà. Ông hãy cẩn thận. Nếu ông không dạy bảo những kẻ chân tay của
ông đi cho đúng lối thú đường người thì tôi sẽ thực hiện “bỏ quên dao nhọn
trong bụng kẻ tình địch”. Đấy là phương châm của người Tày chúng ta xử sự
mỗi khi bị kẻ khác moi ăn con ngươi của mình! Ông biết chứ?
[59, 198-199]
Trong lời thoại này, nhà văn đã vận dụng câu tục ngữ “không có lửa
làm sao có khói” để sáng tạo ra câu “không có hổ làm sao có dấu chân –
không có ốc làm sao có được mà”. Sự sáng tạo này hết sức dễ hiểu và gần gũi
với thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
Sử dụng các thành ngữ, tục ngữ sao cho nhuần nhuyễn đã khó, vận
dụng sáng tạo chúng trong sáng tác văn chương là điều càng khó hơn. Nhà
văn Vi Hồng đã chứng tỏ bản lĩnh ngòi bút của mình khi đưa các thành ngữ,
tục ngữ vào trong lời thoại tác phẩm của mình một cách linh hoạt và sáng tạo.
Đáng khâm phục hơn là nhà văn đã thổi vào các thành ngữ, tục ngữ dân gian vốn
cô đọng, khúc chiết và súc tích một hơi thở mới, hơi thở của ngôn ngữ Tày.
4.3. Phƣơng thức diễn đạt trong lời thoại (trong văn xuôi Vi Hồng)
Lời nói người Tày thường xen vào các từ đệm như: mà, thôi, ngần ấy,
lố, ạ, rồi.... Những từ này vừa tạo độ thân mật, gần gũi giữa người nói với
người nghe, vừa diễn tả thái độ, cảm xúc của người phát ngôn, đặc biệt để
khẳng định ý cần diễn đạt. Nhà văn Vi Hồng đã nắm bắt được đặc điểm đó và
đưa vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên. Xin dẫn ví dụ sau:
Ví dụ (12):
- Ấy bác à, việc tế thần thánh là việc của cả mường, của cả mọi người
cùng có lòng thành kính dâng, thì tấm lòng khao khát của con người mới lên
trời được. Còn nửa kính, nửa không chẳng thể được mà.
[58, 65]
Trong lời thoại vừa dẫn, nhà văn đã sử dụng từ đệm“Ấy bác à” ở đầu
câu nói và “mà” ở cuối câu nói. Lối nói dân dã, đượm màu sắc dân tộc này đã
được nhà văn đưa vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên và tạo nên giọng
điệu rất riêng cho lời thoại.
Cùng với việc dùng từ đệm trong lời nói, người Tày còn có lối nghĩ
sao, nói vậy, rất mộc mạc, chất phác như ở ví dụ dưới đây:
Ví dụ (13):
- Chị Nhình ơi, anh Eng Háo lại trao con trâu đực đầu đàn cho ông Ma
Chàn rồi!.
- Anh Eng Háo đã xâu được mũi của nó rồi đấy à?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
- Vâng. Em đã theo dõi từ đầu cho đến khi anh Eng trao con trâu cho
ông Ma Chàn. Anh Eng thật chẳng ra sao cả. Nó không muốn lấy chị đâu. Chị
đừng yêu nó nữa.
[60, 62]
Đây là đoạn đối thoại giữa nhân vật Xảu Xảy và chị gái Nhình Hỷ nói
đến nhân vật thứ ba là Eng Háo - người yêu của Nhình Hỷ. Theo như lời Xảu
Xảy thì Eng Háo đã cố tình đẩy chị mình vào tay người khác qua việc trao lại
con trâu đực đầu đàn cho kẻ tình địch. Việc làm đó khiến cho Xảu Xảy vô
cùng thất vọng và tức giận nên Xảu Xảy đã bộc lộ ngay cảm xúc và suy nghĩ
của mình “Anh Eng thật chẳng ra sao cả. Nó không muốn lấy chị đâu. Chị
đừng yêu nó nữa”. Lối diễn đạt có thể không được trau chuốt nhưng đó lại
làm cho người đọc cảm nhận được sự bộc trực, thẳng thắn của người Tày.
Nhà văn Vi Hồng rất tinh tế trong việc phản ánh chân thực và sinh động lối
nói ấy, lối nghĩ ấy. Đó cũng chính là điểm phân biệt giữa ngôn ngữ người Tày
với ngôn ngữ người Kinh, cũng là sự thể hiện sâu sắc tính dân tộc trong các
sáng tác của Vi Hồng, góp phần tạo nên phong cách nhà văn.
Đặc biệt, trong lời thoại của mình, nhà văn Vi Hồng thường sử dụng lối
nói giàu hình ảnh. Dưới đây là ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (14):
- Em có lời đẹp chào anh trong nhà, có lời phiền hỏi anh tin tức. Thưa
anh, ở mường này có ai tên là Sầm Vàng Khao không ạ?
[59, 28]
Trong lời thoại này, hành vi hành vi chào và hành vi rào đón của nhân
vật được diễn đạt hết sức bóng bẩy "Em có lời đẹp chào anh trong nhà, có lời
phiền hỏi anh tin tức". Người Kinh sẽ diễn đạt hai hành vi này một cách ngắn
gọn như: Chào anh/chị - Anh/chị cho tôi hỏi thăm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
Hay ở lời thoại khác, câu hỏi xã giao bình thường cũng được diễn đạt
bóng bẩy. Xin dẫn ví dụ sau:
Ví dụ (15):
- Anh Tàm, cơn gió lành hay cơn nắng gắt đưa anh đến nhà tôi?
[58,76]
Trong trường hợp này, người Tày nói "Anh Tàm, cơn gió lành hay cơn
nắng gắt đưa anh đến nhà tôi" trong khi bình thường chỉ cần diễn đạt "Anh
đến có việc gì đấy?". Ngôn ngữ Tày là thế, luôn sống động và đầy màu sắc.
Nhà văn Vi Hồng đã thể hiện được nét đẹp ấy trong từng lời đối đáp chân
thực của cuộc sống.
Cũng vẫn là hình thức diễn đạt giàu hình ảnh, khi hỏi tuổi của một
người con gái, nhà văn đã chú ý đến thế giới quan của người Tày. Xin dẫn ví
dụ dưới đây:
Ví dụ (16):
- Anh là người không cha không mẹ, không quê hương bản quán. Anh
sốt rét nặng đã mấy tháng nay. Chắc anh khó mà qua khỏi trận ốm này. Anh
biết ơn người em gái xa lạ đã quan tâm và thăm hỏi. Em gái người Mường
nào? Tên em là gì? Em đã mấy xuân, đã mấy lần nhìn thấy hoa nở, mấy bận
ăn bánh chưng với đời?
[59, 19]
Theo quan niệm của người Tày, mỗi độ hoa nở, mỗi độ xuân về được
tính là một năm, một tuổi. Nhà văn đã sử dụng chất liệu này để hỏi tuổi: "Em
đã mấy xuân, đã mấy lần nhìn thấy hoa nở, mấy bận ăn bánh chưng với đời?"
thay vì câu hỏi ngắn gọn thông thường: "Em bao nhiêu tuổi?". Điều đó chứng
tỏ sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn người nghệ sĩ với ngôn ngữ Tày được thể
hiện trong tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
Qua những lời thoại giàu hình ảnh của các nhân vật trong tác phẩm Vi
Hồng, chúng ta còn nhận thấy bản chất những chàng trai, cô gái Tày rất đỗi
thông minh và chân thật. Dưới đây là ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (17):
- Anh Cốc này, nếu vầng trăng kia rơi xuống lòng anh, anh có dám giữ
lấy làm của riêng không?
Tuy Cốc ít nói nhưng không hiểu sao lúc này anh chàng cũng lém lỉnh
ra nhẽ.
- Cái gì mà rơi vào lòng mình là mình giữ liền.
[58, 127]
Trong ví dụ, nếu lời dẫn nhập của nhân vật Na: "Anh Cốc này, nếu
vầng trăng kia rơi xuống lòng anh, anh có dám giữ lấy làm của riêng không?"
là một lời tỏ tình sâu sắc thì lời hồi đáp: "Cái gì mà rơi vào lòng mình là mình
giữ liền" của nhân vật Cốc lại hóm hỉnh, lém lỉnh và bộc trực. Cuộc thoại vì
vậy trở nên có sự gắn kết giữa hai tâm hồn đồng điệu.
Ngoài ra, nhà văn Vi Hồng còn diễn tả sự mãnh liệt trong tình yêu đôi
lứa cũng rất Tày như trong ví dụ sau đây:
Ví dụ (18):
- Tôi yêu Nồm cháy cả mười hai khúc ruột nhưng Nồm lại không yêu
tôi. Nồm không yêu tôi, ngày mai ngay kia tôi sẽ chết. Tôi chết đi tôi muốn để
lại một đốt ngón tay út cho người mà tôi yêu, yêu cả khi nằm dưới đất.
[58, 39]
Lời bày tỏ của nhân vật Vạng với Nồm thể hiện trong lời thoại trên rất
chân thật mà vẫn không kém đi phần bay bổng và lãng mạn. Lối nói ấy có lẽ
ta mới chỉ gặp ở trong ngôn ngữ Tày mà thôi.
Nhà văn Vi Hồng đặc biệt "ưu ái" cho những nhân vật của mình bộc
bạch cảm xúc của mình trong tình yêu. Ta có thể cảm nhận điều đó trong lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
thoại của nhân vật Cốc trong tác phẩm "Núi cỏ yêu thương". Anh vốn là
người ít nói và hay xấu hổ nhưng hãy nghe những lời nói bay bổng của anh
với Slao qua ví dụ sau:
Ví dụ (19):
- Ôi, vầng trăng của anh! Anh ôm trọn cả vầng trăng kia làm của riêng
anh…Ôi đồng cỏ, núi non mênh mông trập trùng quá. Em mở mắt ra xem núi
cỏ của ta, đàn trâu nghìn con của ta…
[58, 130]
Với những thán từ "ôi" đi kèm với những hình ảnh nên thơ như: vầng
trăng, đồng cỏ, núi non và lối diễn đạt bay bổng: "Ôi, vầng trăng của anh!
Anh ôm trọn cả vầng trăng kia làm của riêng anh…Ôi đồng cỏ, núi non mênh
mông trập trùng quá", lời thoại của nhân vật trở nên lung linh và huyền ảo vô
cùng. Ngôn ngữ dân tộc vì thế cũng đã được chắp cánh.
Có thể thấy, cùng với việc sử dụng thành công hệ thống từ địa phương,
những thành ngữ, tục ngữ dân gian, việc sử dụng lối nói phô diễn giàu hình
ảnh so sánh, ví von trong lời thoại đã giúp ngôn ngữ nhân vật trong văn xuôi
Vi Hồng trở nên đẹp như thơ, vừa trau chuốt, vừa xiết bao gần gũi với lối nói
của người Tày và cũng góp phần bộc lọ phong cách của nhà văn.
4.4. Phong tục tập quán của dân tộc Tày thể hiện trong lời thoại
Phong tục tập quán là một trong những đặc điểm quan trọng để tạo nên
bản sắc cho mỗi dân tộc. Lời thoại của văn xuôi Vi Hồng có một giá trị đặc
biệt, đó là hoặc đã chuyển tải hoặc đã giới thiệu những nét văn hoá đặc sắc
của dân tộc Tày. Dưới đây là ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (20):
- Bố mẹ ơi. Từ ngày bố mẹ chết, người trong bản trong mường cứ bảo
con không phải là con đẻ của bố mẹ. Có đúng vậy không ạ?- Hồn thiêng hai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
bố mẹ nuôi của Cẩu Tệnh cũng nói trong tiếng đau đớn xé lòng của một linh
hồn suốt mấy năm ân hận.
- Những ngày bố mẹ còn sống, không nói cho con biết sự thật đó, đến
khi chết mới ân hận! Vì thế mấy năm nay năm ngày một phiên chợ phiên nào
bố mẹ cũng ra chợ Tam Quang mong được gặp con để nói sự thật. Bố mẹ
mong hồn con lên chợ Tam Quang đỏ cả mắt, mòn cả gót chân hôm nay mới
gặp. Ở cõi âm này mọi linh hồn, mọi người đều nói thật với nhau cả, cho dù ở
trần gian họ là kẻ cướp. Cho nên những điều hôm nay bố mẹ nói với con là sự
thật. Con không phải là con đẻ của bố mẹ. Bố mẹ chỉ nuôi con từ lúc mới lọt
lòng.
[59, 29]
Đây là cặp thoại giữa hai linh hồn với nhau- hồn của Cẩu Tệnh và hồn
bố mẹ nuôi. Phiên chợ Tam Quang xuất hiện trong lời hồi đáp của hồn bố mẹ
nuôi Cẩu Tệnh chính là nơi gặp gỡ của người cõi âm và người còn sống dưới
sự dẫn dắt của cô Then. Theo phong tục của người Tày, hồn người sống có
thể gặp gỡ với linh hồn những thân thiết trên mường trời để cùng dạo chơi,
hỏi thăm, chia sẻ, để tha thứ cho nhau và an ủi lẫn nhau. Sau những lời đối
thoại cay đắng hay mừng vui giữa những linh hồn đã chết và hồn người sống
là những lời hát ngọt ngào với tiếng đàn tha thiết, an ủi hay vỗ về hai linh
hồn. Những cuộc tâm tình cảm động như thế có lẽ chỉ có ở phiên chợ Tam
Quang của người dân tộc Tày.
Ví dụ (22):
- Thế anh có biết én số phận của anh đậu vào cây gì không?
- Anh có tham dự vào cái lễ thả én ương số phận đâu mà! ...
[59, 139]
Cặp thoại này được trích từ tác phẩm "Chồng thật - vợ giả", bao gồm
lời dẫn nhập của nhân vật Tô Ngần và lời hồi đáp của anh cô - Rằng Xao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
Trong lời thoại của cặp thoại này, chúng ta gặp một nét văn hoá đặc sắc của
người Tày - đó là lễ thả én ương số phận. Lễ này thường được tổ chức vào
mùa xuân, là lễ của những người con gái. Những người con trai tham gia với
vai trò là người dẫn đường, người nào có linh hồn nhạy cảm và vía thiêng
thường là người được các cô gái mời làm lễ. Nếu không mời được các cô gái
sẽ ghi trộm tên chàng trai vào cuộc lễ. Rằng Xao là chàng trai có linh hồn
nhạy cảm và thường được mời hơn cả. Những con én số phận được các cô gái
khéo tay gấp bằng những tờ giấy mầu rực rỡ và sẽ được đốt đi để hoá thành
hồn cất cánh đi khắp mọi tìm nơi đậu nơi dừng. Người Tày xưa tin rằng số
phận của người con gái có thể đậu nơi cao sang, ngược lại cũng có thể như
cánh bèo bị vùi dập giữa dòng nước lũ. Thông qua lời thoại giới thiệu về lễ
thả én ương số phận, nhà văn Vi Hồng đã dắt người đọc vào một không gian
văn hoá đậm bản sắc của người Tày, để chúng ta thêm trân trọng phong tục
tập quán lâu đời của một dân tộc giàu bản sắc này.
4.5. Kết luận chƣơng
Trong chương này, chúng tôi đã phân tích giá trị của lời thoại trong văn
xuôi Vi Hồng thông qua các yếu tố: hệ thống từ ngữ địa phương trong lời
thoại, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong lời thoại, phương thức diễn đạt
trong lời thoại và phong tục tập quán của người Tày thể hiện trong lời thoại.
Từ đó có thể thấy ngòi bút Vi Hồng đã miêu tả chân thực cuộc sống, tâm tư,
tình cảm của con người núi rừng Việt Bắc. Bản sắc văn hoá dân tộc Tày thấm
đượm trong những lời thoại của ông. Từ đó, cũng có thể thấy phong cách nhà
văn Vi Hồng được định hình, chính là phong cách của một nhà văn gắn bó sâu
sắc với đất và người Việt Bắc. Chính điều đó đã khiến cho độc giả luôn yêu
mến và nhớ đến nhà văn cũng như những tác phẩm của ông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
PHẦN KẾT LUẬN
Trong mỗi chương của luận văn đều có mục tổng kết chương. Vì vậy ,
ở phần kết luận này, chúng tôi chỉ nêu có tính chất tổng quan những điểm đã
làm được trong luận văn.
Thứ nhất, luận văn đã nêu được một cách khái quát những vẫn đề lý
thuyết được làm căn cứ lý luận cho luận văn, đó là: lý thuyết về hành vi ngôn
ngữ, lý thuyết hội thoại, ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn.
Thứ hai, luận văn đã nêu được một kết quả khảo sát cụ thể, đáng tin cậy
về lời thoại, đó là 1449 trường hợp. Đồng thời, dựa vào các tiêu chí, số liệu
này đã được nêu rõ trong các bảng tổng kết về các tiểu loại.
Thứ ba, chương 2 đã trình bày cấu tạo ngữ pháp của lời thoại trong văn
xuôi Vi Hồng xét về mặt cấu tạo ngữ pháp.
Theo tư liệu thống kê, lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng có thể chia
làm 3 loại căn cứ vào chức năng của chúng trong cuộc thoại, đó là:
- Lời thoại có chức năng dẫn nhập (lời thoại là tham thoại dẫn nhập).
- Lời thoại có chức năng hồi đáp (lời thoại là tham thoại hồi đáp).
- Lời thoại vừa có chức năng dẫn nhập, vừa có chức năng hồi đáp (tạm
gọi là kiểu lời thoại đa chức năng hay lời thoại phức hợp).
Tìm hiểu cấu tạo ngữ pháp của lời lời dẫn nhập, lời hồi đáp và lời thoại
phức hợp, luận văn đã xét các kiểu cấu tạo câu (câu đơn, câu phức, câu ghép)
và chuỗi câu của các lời thoại này. Trong tổng số 1449 lời thoại, kiểu cấu tạo
của lời dẫn nhập, lời hồi đáp và lời thoại phức hợp là chuỗi câu chiếm số
lượng lớn nhất so với các kiểu cấu tạo ngữ pháp khác. Lời dẫn nhập và lời hồi
đáp không có kiểu cấu tạo ngữ pháp là câu ghép đẳng lập.
Thứ tư, chương 3 đã trình bày lời thoại của văn xuôi Vi Hồng về
phương diện dụng học, cụ thể:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
- Dựa vào cách phân loại các hành vi ngôn ngữ của Searle, các hành vi
ngôn ngữ trong lời thoại của văn xuôi Vi Hồng được xếp vào 5 lớp, đó là: lớp
hành vi miêu tả, xác tín (lớp hành vi trình bày), lớp hành vi điều khiển, lớp
hành vi cam kết, lớp hành vi biểu cảm và lớp hành vi tuyên bố. Các hành vi
ngôn ngữ thuộc lớp hành vi miêu tả, xác tín có số lượng nhiều nhất nhưng
hành vi được sử dụng nhiều nhất lại là hành vi hỏi thuộc lớp hành vi điều
khiển.
- Chủ ngôn của hành vi ngôn ngữ trong lời thoại (trong văn xuôi Vi
Hồng) được tách thành hai nhóm: chủ ngôn của hành vi ngôn ngữ trong lời
thoại là nhân vật trong tác phẩm và chủ ngôn của hành vi ngôn ngữ trong lời
thoại là tác giả trong tác phẩm. Trong lời thoại của văn xuôi Vi Hồng, nhóm
hành vi ngôn ngữ có chủ ngôn của hành vi ngôn ngữ trong lời thoại là nhân
vật trong tác phẩm chiếm số lượng chủ yếu.
- Dựa vào tiêu chí đích ở lời, hành vi ngôn ngữ trong lời thoại (trong
văn xuôi Vi Hồng) được chia thành hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi
ngôn ngữ gián tiếp. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp chiếm ưu thế sử dụng chủ yếu
trong lời thoại văn xuôi Vi Hồng.
Thứ năm, chương 4 đã trình bày một số yếu tố cơ bản thể hiện đặc điểm
riêng đó là: hệ thống từ ngữ tiếng dân tộc, thành ngữ, phương thức diễn đạt và
phong tục tập quán của người Tày thể hiện trong lời thoại. Từ đó có thể thấy
cuộc sống nơi núi rừng Việt Bắc và bản sắc văn hoá dân tộc Tày thấm đượm
trong những lời thoại của ông.
Nghiên cứu lời thoại văn xuôi Vi Hồng là việc làm bổ ích và tốn nhiều
công sức. Do năng lực có hạn, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và
hạn chế. Chúng tôi rất mong sự đóng góp, trao đổi ý kiến của quý thầy cô và
những ai quan tâm đến đề tài này./.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TƢ LIỆU KHẢO SÁT
I- Tài liệu tham khảo
1. Diệp Quang Ban (1984), Cấu tạo của câu đơn tiếng Việt, Trường Đại
học Sư phạm I, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (chủ biên) - Hoàng Dân (2004), Ngữ pháp tiếng
Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
4. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu (1982), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt
động", Ngôn ngữ, số 1.
6. Đỗ Hữu Châu (1983), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt
động", Ngôn ngữ, số 2.
7. Đỗ Hữu Châu (1992), "Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng của dụng
học hiện nay", Ngôn ngữ, số 1 và số 2.
8. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ học, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
9. Đỗ Hữu Châu (1994), Ngữ pháp văn bản, Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ
giáo viên, Hà Nội.
10. Đỗ Hữu Châu (1995), Giản yếu về ngữ dụng học, Nhà xuất bản giáo
dục, Hà Nội.
11. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học (Tập một), Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội.
12. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học (Tập hai), Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Tài Cẩn (1973), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép -
Đoản ngữ), Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
120
14. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội.
15. Thành Duy (1982), Về tính dân tộc trong văn học, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Đan (1994), Bước đầu tìm hiểu cấu trúc hội thoại, cuộc
thoại, đoạn thoại, Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
17. Lê Đông (1991), "Ngữ nghĩa - ngữ dụng các hư từ tiếng Việt. Ý
nghĩa đánh giá của các hư từ", Ngôn ngữ, số 2.
18. Lê Đông (1993), "Một vài khía cạnh ngữ dụng học có thể góp phần
nghiên cứu xung quanh cấu trúc đề thuyết", Ngôn ngữ, số 1.
19. Nguyễn Thiện Giáp (1975), "Về khái niệm thành ngữ tiếng Việt",
Ngôn ngữ, số 3.
20. Nguyễn Thiện Giáp (1989), "Ngôn ngữ văn hoá và văn chương",
Khoa học xã hội, số 1.
21. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Cơ sở ngôn ngữ học, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Thiện Giáp(Chủ biên) - Đoàn Thiện Thuật - Nguyễn Minh
Thuyết (1998), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Phân tích hội thoại, Viện Thông tin
khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nhà xuất bản Đại
học quốc gia, Hà Nội.
25. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - Sơ thảo chức năng, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp,
ngữ nghĩa, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
27. Dương Tuyết Hạnh (1999), Cấu trúc của tham thoại, Trường Đại
học Sư phạm I, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
121
28. Phạm Mạnh Hùng (2003), Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Vi Hồng, Đại học Thái Nguyên.
29. Hoàng Văn Huyên (2003), Tính dân tộc trong tiểu thuyết Vi Hồng,
Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
30. Hồ Lê (1973), "Về vấn đề phân loại câu trong tiếng Việt hiện đại",
Ngôn ngữ, số 3.
31. Thanh Lê (2003), Từ điển xã hội học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội
32. Trần Kim Ngọc (1999), Ngôn ngữ và văn hoá, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội.
33. Vi Hà Nguyên (2004), Hình tượng nhân vật thiếu nhi trong truyện
viết cho thiếu nhi của Vi Hồng, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
34. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Trần Thị Hồng Nhung (2007), Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết
"Người trong ống" của nhà văn Vi Hồng, Trường Đại học Sư phạm, Thái
Nguyên.
36. Hoàng Phê (1975), "Phân tích ngữ nghĩa", Ngôn ngữ, số 2.
37. Hoàng Phê (1981), "Ngữ nghĩa của lời", Ngôn ngữ, số 3 và số 4.
38. Hoàng Phê (1989), Logic ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội.
39. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
40. Vũ Thị Quyên (2003), Tìm hiểu thoại dẫn trong tác phẩm Tắt đèn
của Ngô Tất Tố, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
41. Hà Thị Sơn (1997), Đoạn thoại dẫn nhập trong hội thoại mua bán
hiện nay, Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
122
42. Chu Thị Thanh Tâm (1995), Đề tài diễn ngôn: Sự cộng tác hội thoại
để hành thành đề tài diễn ngôn và các hành vi dẫn nhập đề tài diễn ngôn,
Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
43. Phạm Văn Thấu (1999), Cấu trúc liên kết trong cặp thoại, Trường
Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
44. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nhà
xuất bản Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
45. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
46. Trần Ngọc Thêm (2000), Hệ thống liên kết văn bản Tiếng Việt, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
47. Ngô Thu Thuỷ (2005), Giọng điệu trần thuật trong văn xuôi Vi
Hồng, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
48. Lê Thị Thư (2007), Hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn
Nam Cao, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
49. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nhà xuất bản văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
50. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Tu (1960), Khái luận ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
52. Vũ Anh Tuấn (2002)- "Vi Hồng với mùa xuân Nặm Cáp", "Khoa
ngữ văn 35 năm xây dựng và trưởng thành", Nhà xuất bản Thanh niên, Hà
Nội.
53. Nông Thị Quỳnh Trâm (2004), Tính dân tộc trong tiểu thuyết:
Tháng năm biết nói; Chồng thật vợ giả và Núi cỏ yêu thương của nhà văn Vi
Hồng, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
54. Nguyễn Như Ý - Chủ biên (1998), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn
ngữ học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
123
55. Hà Thị Hải Yến (2000), Hành vi cảm thán, các biểu thức cảm thán
và tiếp nhận cảm thán, Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
56. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2000), Hành vi chê với biểu thức, phát
ngôn và tham thoại tiếp nhận chê, Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
57. Mai Thị Hảo Yến (2000), Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao,
Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
II - Tƣ liệu khảo sát
58. Vi Hồng (1984), Núi cỏ yêu thương, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà
Nội.
59. Vi Hồng (1994), Chồng thật, vợ giả, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà
Nội.
60. Vi Hồng (1995), Đi tìm giàu sang, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_HTQN.pdf