Một số quy định cụ thể đối với hàng dệt may
Những nguyên tắc chung
• Nước xuất xứ là nước sản xuất ra toàn bộ hàng hóa (trừ những ngoại lệ về nguyên liệu tối thiểu đã được qui định trong 19 CFR Mục 102.13).
• Đối với sợi (bao gồm cả sợi đơn và sợi đa). Nước xuất xứ của sợi, chỉ, sợi bện, thừng, chão, cáp, dây tết là nước sản xuất ra những loại hàng này.
• Đối với vải. Nước xuất xứ là nước dệt ra vải.
• Các sản phẩm dệt may khác: Nước xuất xứ là nước lắp ráp ra thành phẩm.
Những nguyên tắc đặc biệt
Nếu không xác định được xuất xứ của một sản phẩm dệt hay quần áo bằng một trong những nguyên tắc trên, và do sản phẩm được sản xuất ở hai hay nhiều nước thì nước xuất xứ là:
• Nước mà quá trình lắp ráp quan trọng nhất hay quá trình sản xuất quan trọng nhất diễn ra. Việc xác định hoạt động sản xuất quan trọng nhất sẽ tùy theo từng trường hợp cụ thể.
• Nếu không thể xác định được quy trình nào là quan trọng nhất, thì nước xuất xứ là nước cuối cùng mà tại đó hoạt động lắp ráp hay sản xuất diễn ra.
Thứ tự áp dụng các nguyên tắc
Các nguyên tắc trên được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên áp dụng theo quy định trong Quy định của Hải quan Phần 102.21 (9c) như sau:
1. Sản phẩm được sản xuất hoàn toàn ở một nước;
2. Sự thay đổi đặc tính của sản phẩm (chuyển từ mã thuế này sang mã thuế khác);
3. Nước mà sản phẩm có những phần chính được tạo thành hình;
4. Sản phẩm hoàn toàn được lắp ráp tại một nước trừ 16 loại trừ cụ thể;
5. Nước mà tại đó quy trình sản xuất hay lắp ráp quan trọng nhất đã diễn ra;
6. Nước cuối cùng mà quy trình sản xuất hay lắp ráp quan trọng nhất diễn ra. Đối với quần áo, nơi lắp ráp/may vải đã cắt thành quần áo chứ không phải nơi cắt vải là xuất xứ của quần áo.
81 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Hoa Kỳ của Công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh, Hà Nội và các thành phố lớn khác.
Từng bước di dời các cơ sở sản xuất về các địa phương có nguồn lao động là nông nghiệp và thuận lợi giao thông.
3.1.1.3. Bảo vệ môi trường
Đẩy mạnh công tác quảng bá và triển khai chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành dệt may, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường làm việc tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000.
Xây dựng lộ trình đổi mới trang thiết bị và công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường đáp ứng được nhu cầu hội nhập trong khu vực và quốc tế.
Triển khai xây dựng các khu, cụm công nghiệp dệt may có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp.
3.1.1.4. Một số mục tiêu chủ yếu
Mục tiêu tổng quát: Đưa ngành dệt may trở thành một trong những ngành đầu tàu, mũi nhọn về xuất khẩu đáp ứng được nhu cầu trong nước cũng như là xuất khẩu. Việc đẩy mạnh phát triển ngành dệt may còn góp phần vào giải quyết công ăn việc làm, đặt nền móng cho việc hội nhập vững chắc của Việt Nam. Mục tiêu cụ thể là:
Bảng 3.1: Mục tiêu phát triển ngành dệt may đến năm 2020
Tốc độ tăng trưởng
2008-2010
2011-2020
Tăng trưởng sản xuất hàng năm
16-18%
12-14%
Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
20%
15%
Nguồn: Đề án chiến lược phát triển ngành dệt may tới năm 2020
Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 như sau:
Bảng 3.2: Các chỉ tiêu phát triển chủ yếu của ngành dệt may tới năm 2020
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Thực hiện năm 2008
Mục tiêu tiêu toàn ngành đến:
2010
2015
2020
Doanh thu
Triệu USD
7.8000
14.800
22.500
31.000
Xuất khẩu
Triệu USD
5.834
12.000
18.000
25.000
Sử dụng lao động
Nghìn người
2.150
2.500
2.750
3.000
Tỷ lệ nội địa
hóa
%
32
50
60
70
Sản phẩm chính
- Bông xơ
- Xơ, sợi tổng hợp
- Sợi các loại
- Vải
- Sản phẩm may
1000 tấn
1000 tấn
1000 tấn
1000 tấn
Triệu m2
Triệu sản phẩm
8
-
265
575
1.212
20
120
350
1.000
1.800
40
210
500
1.500
2.850
60
300
650
2.000
4.000
Nguồn: Đề án chiến lược phát triển ngành dệt may tới năm 2020
3.3. Chiến lược xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ của công ty may Thăng Long
Thị trường hàng may mặc Hoa Kỳ là một thị trường rất tiềm năng và hiện tại với thị phần còn rất nhỏ của Công ty thì đây là cơ hội để công ty mở rộng thị phần đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu sang thị trường tiềm năng này.
3.3.1. Mục tiêu xuất khẩu của công ty may Thăng Long
Cùng với chiến lược “tăng tốc” phát triển và định hướng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam thì công ty may Thăng Long cũng có những mục tiêu và định hướng phát triển riêng nhằm phù hợp với năng lực nội tại của công ty.
Bảng 3.3: Mục tiêu về sản lượng và mặt hàng đến năm 2010 của công ty May Thăng Long
STT
Mặt hàng
Sản phẩm(chiếc)
1
Áo sơ mi nam
500.000
2
Quần áo jean
300.000
3
Quần âu
200.000
4
Áo sơ mi nữ, váy các loại
100.000
5
Áo Jacket
100.000
6
Áo huyện Đông Anh
200.000
Cộng
1.100.000
Nguồn: Phòng thị trường Công ty May Thăng Long
Mục tiêu trên của Công ty là hoàn toàn có thể thực hiện được, khi mà chiến lược tăng tốc phát triển của toàn ngành của Tổng công ty May Việt Nam cũng như là đường hướng phát triển do chính phủ đề ra đã mở ra những cơ hội mới cho các Công ty may trong nước nói chung và Công ty may Thăng Long nói riêng.
Ngành Dệt trong những năm tới đây được đầu tư với các chương trình phụ liệu đầu vào cho ngành may thì Công ty sẽ có nguồn nguyên phụ liệu đầu vào trong nước cung cấp với nhiều thuận lợi về giá cả, về thời gian vận chuyển và quan trọng nhất là nguồn cung cấp ổn định, không phụ thuộc vào phía đối tác nước ngoài đồng thời tránh được các thủ tục nhập khẩu phiền hà. Và đây là điều kiện quan trọng để Công ty đẩy nhanh việc sản xuất sản xuất bán FOB lên 50,5% vào năm 2010.
Ngoài ra trong những năm tới đây, Công ty sẽ chú trọng đáp ứng nhu cầu nội địa và coi đó là điểm quan trọng trong chiến lược phát triển của mình với mục tiêu tăng tỷ trọng doanh thu nội địa lên 15,5% vào năm 2010.
3.3.2. Mục tiêu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ của Công ty may Thăng Long
Dựa trên chiến lược phát triển ngành dệt may tới năm 2010 và tầm nhìn 2020 thì Công ty cũng đã đưa ra mục tiêu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ của mình phù hợp với năng lực hiện tại của công ty.
Bảng 3.4: Mục tiêu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đến năm 201.
Đơn vị:Triệu USD
Năm
2010
Kim ngạch xuất khẩu
6,1
Trị giá gia công
1,9
Trị giá FOB
3,4
Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
Những mục tiêu trên là hoàn toàn có thể thực hiện được vì để đề ra được mục tiêu này thì ban lãnh đạo Công ty đã nghiên cứu một cách kỹ lưỡng dựa trên những phân tích thực trạng của Công ty cùng với những biến đổi của thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ theo chiều hướng thuận lợi cho Công ty.
Tuy nhiên việc hoàn thành chỉ tiêu trên còn phụ thuộc nhiều vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, Tổng công ty May Việt Nam cũng như là những hỗ trợ trong giới hạn cho phép của WTO của Chính phủ Việt Nam.
3.4. Các giải pháp thúc đẩy hàng dệt may của công ty may Thăng Long sang thị trường Hoa Kỳ
3.4.1. Giải pháp từ phía nhà nước
3.4.1.1. Giải pháp về đầu tư
Để đáp ứng nhu cầu về nguồn nguyên liệu trong sản xuất hàng may mặc của Công ty May Thăng Long cũng như là các công ty may mặc khác, Nhà nước cần kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu bông, xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu. Tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định và giá cả rẻ là một yếu tố rất thuận lợi cho sự phát triển và cạnh tranh của các công ty may mặc Việt Nam nói chung và Công ty may Thăng long nói riêng khi xuất khẩu ra thị trường Quốc tế.
3.4.1.2. Về vấn đề nguồn nhân lực
Nhà nước cần phối hợp với các địa phương nơi có cơ sở của các nhà máy dệt may nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ trẻ đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ của các công ty may mặc cũng như là đòi hỏi của tiến trình hội nhập Kinh tế Quốc tế. Các cán bộ trẻ của công ty May Thăng Long có thể tham gia những khóa đào tạo ngắn hạn như vậy nhằm nâng cao trình độ và tay nghề để góp phần nâng cao năng suất, kỹ năng quản lý cho doanh nghiệp mình.
Mở các khóa đào tạo về thiết kế, phân tích vải, kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ năng bán hàng với mục đích hỗ trợ các công ty may mặc Việt Nam có thể xây dựng nên một đội ngũ thiết kế thời trang chuyên nghiệp đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe từ thị trường trong nước cho đến Quốc tế. Với những khóa đào tạo như vậy, nhân viên công ty May Thăng Long có thể tham gia để được đào tạo, nâng cao tay nghề góp phần đáp ứng những đòi hỏi về mặt mỹ thuật và chất lượng từ những bạn hàng Quốc tế.
Về lâu về dài, Nhà nước nên xây dựng nên những trường đại học về May mặc, dệt may nhằm tạo nguồn nhân lực cho nhu cầu ngày càng lớn của các công ty dệt may Việt Nam và đó là giải pháp tối ưu cho sự phát triển bền vững ngày dệt may Việt Nam.
3.4.1.3. Giải pháp về Khoa học và công nghệ
Nhà nước cần thành lập ra những ban tư vấn về đổi mới và hoàn thiện dây chuyền thiết bị và công nghệ cho ngành dệt may. Như chúng ta đã biết, công ty May Thăng Long vẫn còn tồn tại một số những dây chuyền sản xuất đã lỗi thời và với những ban tư vấn mà Nhà nước lập ra như vậy sẽ góp phần không nhỏ cho việc định hướng và tìm ra loại dây chuyền mới phù hợp với đòi hỏi mới từ thị trường trong và ngoài nước cho công ty May Thăng Long và giúp cho công ty đưa ra những quyết định đúng đắn, tránh gây lãng phí tiền của.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về môi trường, tiêu chuẩn về quản lý phù hợp với cam kết quốc tế và hài hòa với lợi ích quốc gia nhằm định hướng cho các công ty may trong nước vừa tuân thủ theo cam kết WTO vừa đảm bảo không gây ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của ngành dệt may nước nhà. Công ty May Thăng Long trong quá trình phát triển của mình đã đáp ứng được nhiều tiêu chuẩn như SA 8000, ISO 9001…và với sự hỗ trợ từ nhà nước trong việc đáp ứng những chuẩn mới của quốc tế và khu vực sẽ giúp cho công ty đưa ra được định hướng và cải thiện kịp thời.
3.4.1.4. Giải pháp về thị trường
Nhà nước cần hỗ trợ các công ty như Công ty May Thăng Long trong việc tìm kiếm thông tin về thị trường Hoa Kỳ bao gồm thông tin về các đối thủ cạnh tranh, thông tin về các chính sách và luật lệ mới, thông tin về người tiêu dùng Hoa Kỳ, thông tin về các đối tác tiềm năng để giúp cho các công ty dệt may nói chung và công ty May Thăng Long nói riêng tìm ra được lối đi nhằm mở rộng thị phần và gia tăng doanh thu, tránh tình trạng thị phần qua bao nhiều năm vẫn chỉ tăng lên giảm xuống, không có sự bứt phá mạnh mẽ.
3.4.1.5. Giải pháp về cung ứng nguồn nguyên liệu
Công ty May Thăng Long luôn gặp khó khăn về các vấn đề nguyên phụ liệu cho hoạt động sản xuất hàng may mặc và do đó Nhà nước nên có chính sách xây dựng những trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại các trung tâm lớn như Hồ Chí Minh và Hà Nội nhằm tạo điều kiện tối đa cho các Công ty sử dụng nguyên phụ liệu một cách hiệu quả và cung ứng kịp thời trước những nhu cầu bức thiết của các công ty.
3.4.2. Giải pháp từ phía hiệp hội
Hiệp hội dệt may Việt Nam cần phải phối hợp với các bộ ban ngành ở Việt Nam, cũng như là tiến hành lobby ở phía Hoa Kỳ nhằm thúc đẩy việc dỡ bỏ cơ chế giám sát hàng dệt may Việt Nam để tạo tâm lý tốt cho các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện những đơn đặt hàng với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tạo mối quan hệ cũng như là sự phát triển có lợi cho đôi bên.
Hiệp hội phối hợp cùng với Công ty May Thăng Long thực hiện những cuộc điều tra nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ nhằm tìm ra những nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Hoa Kỳ để từ đó Công ty May Thăng Long có những điều chỉnh phù hợp để tạo ra những sản phẩm may mặc đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng Hoa Kỳ.
Hiệp hội cũng phải hỗ trợ cho công ty May Thăng Long trong việc tìm kiếm đối tác ở Hoa Kỳ và triển khai đàm phán các hợp đồng về gia công với các đối tác đó. Đây là sự hỗ trợ hết sức cần thiết trong điều kiện các kỹ năng đàm phán và kinh doanh quốc tế của các nhân viên trong công ty May Thăng Long vẫn chưa đảm bảo được việc thực hiện những chương trình đàm phán lớn và quan trọng như vậy.
Ngoài ra Hiệp hội cần phải hình thành những kênh đối thoại hiệu quả hơn nữa để giúp cho các doanh nghiệp trong cùng ngành dệt may có thể trao đổi những hiểu biết và kinh nghiệm khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm về bán phá giá giúp cho các doanh nghiệp chủ động trong các hoạt động kháng án và điều trần.
3.4.3. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
3.4.3.1. Chủ động tìm hiểu một cách sâu rộng về thị trường Hoa Kỳ
Công ty May Thăng Long muốn thiết kế và sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được người tiêu dùng Hoa Kỳ thì trước hết họ phải hiểu được nhu cầu và thị hiếu của những người đó. Và để làm được điều này Công ty phải chủ động tìm hiểu những thông tin liên quan đến thị trường Hoa Kỳ thông qua các kênh thông tin trên internet, thông tin từ đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ, thông tin từ phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và nếu muốn cụ thể hơn Công ty có thể tìm kiếm những nguồn thông tin từ những công ty nghiên cứu thị trường để hiểu hơn về người tiêu dùng Hoa Kỳ. Trước khi tiến hành xuất khẩu mặt hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ, Công ty may Thăng Long nên tập trung tìm hiểu những thông tin về luật pháp, văn hoá xã hội, phong tục tập quán, thị hiếu của người Hoa Kỳ...
Hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ là hết sức phức tạp bao gồm các bộ luật của chính quyền Liên bang và còn có luật của từng bang (50 bang) của Hoa Kỳ và có tới trên 2700 chính quyền địa phương các cấp có các quy định riêng, đặc biệt là phải có giấy chứng nhận an toàn đối với tất cả các loại sản phẩm được bán hoặc được lắp đặt tại địa phương. Các yêu cầu này thường không thống nhất nhau, nhiều trường hợp còn không được công bố công khai. Do vậy, ngoài việc tích cực tìm hiểu thì Công ty nên thuê các dịch vụ tư vấn pháp luật để hỗ trợ cho công ty trong việc tiếp cận hệ thống luật pháp khổng lồ này.
Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm văn hoá xã hội, phong tục tập quán, xu hướng tiêu dùng các loại sản phẩm về may mặc của người Hoa Kỳ và so sánh với đặc điểm của một số thị trường khác trên thế giới ta có bảng sau:
Bảng 3.5: Đặc điểm nhu cầu may mặc đối với từng thị trường
Thị trường
Màu sắc
Kiểu dáng
Chất lượng
Giá cả
Hoa Kỳ
Nổi bật
Tiện lợi
7/10
Cao
EU
Đa dạng
Lịch sự
6/10
Trung bình
Nhật
Nhã nhặn
Nghiêm túc
6/10
Trung bình
Nguồn: Phòng thị trường Công ty may Thăng Long
Hoa Kỳ là một quốc gia rất năng động. Họ lao động trong một môi trường công việc với cường độ cao. Do đó họ luôn có xu hướng dùng đồ ăn nhanh và cách mặc hướng đến sự đơn giản, gọn nhẹ, tiện lợi chứ không quá cầu kỳ nhằm tiết kiệm thời gian tối đa cho công việc của họ. Tuy nhiên ở lứa tuổi thanh thiếu niên họ lại ưa thích gam màu nổi bật nhưng vẫn dựa trên nét đơn giản và tinh tế, vì thế đối với mặt hàng cho lứa tuổi này Công ty may Thăng Long nên chú trọng tìm hiểu để thiết kế ra những sản phẩm phù hợp.
Việc nghiên cứu thị trường cần phải làm thường xuyên và trong quá trình nghiên cứu về thị trường Hoa Kỳ cần thực hiện một số bước sau:
- Công việc cần làm đầu tiên là lập ngân sách cho hoạt động nghiên cứu thị trường. Sở dĩ chi tiêu như vậy là do thị trường Hoa Kỳ luôn thay đổi mẫu mốt với tốc độ chóng mặt vì vậy khâu thiết kế và khâu nghiên cứu thị trường rất quan trọng do đó Công ty cần phải tập trung nghiên cứu.
- Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công hay thất bại của tổ chức. Do đó Công ty cần phải tiến hành đào tạo các cán bộ giỏi, đội ngũ này phải năng động, sáng tạo, có kiến thức và hiểu rộng về vấn đề thị trường.
- Trang bị vật chất phục vụ cho việc nghiên cứu. Hiện nay nghiên cứu thị trường cần có các máy móc thiết bị hiện đại để thu thập thông tin ở Hoa Kỳ một cách nhanh nhất, chính xác nhất.
Mặc dù Công ty đã có quan hệ với Hoa Kỳ từ năm 1996, song Công ty cần mở rộng mối quan hệ đó hơn nữa:
- Giữ khách hàng bằng cách buôn bán, tạo uy tín, đảm bảo hai bên cùng có lợi.
- Công ty cần nghiên cứu tạo mẫu mã riêng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu thì việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường là rất quan trọng, có thể coi là yếu tố tiên quyết cho sự thành bại của doanh nghiệp trong xuất khẩu. Chính vì vậy, dù có lập được văn phòng đại diện hay không Công ty vẫn phải tìm cách để biết được các thông tin về thị trường Hoa Kỳ như:
- Tính không ổn định của thị trường: nếu nhà sản xuất chỉ nhận thức được các dao động trên thị trường khu vực hạn hẹp thì có thể bị động trước các biến động, sự cạnh tranh hay những thay đổi trên thị trường.
- Chất lượng: Người mua quyết định chất lượng hàng hoá, mỗi thị trường có riêng các tiêu chuẩn nhất định về khả năng chấp nhận và mức giá tối đa. Công ty phải biết về mức chuẩn chất lượng áp dụng cho hàng hoá của mình tại thị trường Hoa Kỳ.
3.4.3.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm
Một trong những ưu thế của hàng dệt may Việt Nam là chất lượng khá đảm bảo và có khả năng đáp ứng được những yêu cầu về thời gian giao hàng. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, hàng rào thuế quan được dần dỡ bỏ, thị phần xuất khẩu hàng dệt may của mỗi nước phụ thuộc rất lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Do vậy, Công ty cần chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường hiện tại và để chuẩn bị cho kế hoạch sản xuất mặt hàng cao cấp trong thời gian tới. Trong những năm qua, Công ty May Thăng Long luôn luôn chú trọng tới công tác kiểm tra chất lượng và đẩy mạnh công tác nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay, Công ty đã được cấp chứng chỉ công nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO 9002. Tuy nhiên, với nhu cầu thị trường ngày càng cao, đặc biệt là đòi hỏi về mặt chất lượng sản phẩm từ thị trường Hoa Kỳ, Công ty phải có những tiến bộ nhất định về cải tiến chất lượng sản phẩm để theo kịp những biến động của thị trường này. Để nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như hiệu quả kinh doanh, công ty may Thăng Long cần phải lưu ý nâng cao chất lượng sản phẩm và công tác quản lý chất lượng bằng một số những biện pháp cơ bản sau:
- Đổi mới công nghệ: Cùng với sự phát triển khoa học công nghệ như vũ bão đặt ra yêu cầu đổi mới công nghệ kỹ thuật đối với Công ty là hết sức bức thiết. Đổi mới công nghệ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, tăng năng suất lao động từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty ở thị trường cạnh tranh. Đổi mới công nghệ không chỉ là đổi mới máy móc thiết bị mà còn đổi mới kiến thức kỹ năng và phương pháp công nghệ.
Việc đầu tư đổi mới công nghệ phải dựa trên nhu cầu thị hiếu về sản phẩm nhưng phải có kế hoạch đầu tư cho từng giai đoạn, không thể cùng một lúc có thể thay đổi được. Đối với Công ty May Thăng Long hiện nay hệ thống máy móc thiết bị cho sản xuất tuy đã được đầu tư mới một số máy móc thuộc loại hiện đại nhất nhưng vẫn chưa đồng bộ, trong thời gian tới, Công ty cần hết sức chú trọng đến vấn đề này.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm trong khâu thiết kế và sản xuất: Công ty cần bố trí cử cán bộ thiết kế mẫu thời trang đi tham quan, học tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ và tay nghề.
Trong khâu sản xuất Công ty cần nâng cao chất lượng công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất, tiếp đó Công ty cần tiến hành nhập các máy móc thiết bị hiện đại của các nước phát triển về thay thế các máy móc thiết bị cũ và lạc hậu ở các khâu chủ yếu quyết định nhiều đến chất lượng sản phẩm như máy cắt, máy may. Xây dựng một chính sách quản lý chất lượng toàn diện:
- Xây dựng một chính sách thưởng phạt chất lượng hợp lý: Tiền thưởng là một trong những biện pháp nhằm khuyến khích vật chất với người lao động để thu hút sự quan tâm của họ với kết quả sản xuất và công tác. Xây dựng một chế độ tiền thưởng hợp lý sẽ khuyến khích họ quan tâm tiết kiệm lao động sống, lao động vật hoá, đảm bảo về chất lượng sản phẩm và thời gian hoàn thành công việc.
Tại Công ty may Thăng Long hiện nay cũng đã có những hình thức tiền thưởng nhưng đang còn chung chung và mang tính đồng đều, ai cũng được thưởng. Như thưởng cuối quý, thưởng cho hoàn thành nhiệm vụ... Nên chăng bên cạnh những hình thức đó, để góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm ta nên đưa thêm một hình thức thưởng cụ thể chẳng hạn thưởng giảm tỷ lệ hàng loại 2, thưởng cho nâng cao tỷ lệ hàng có chất lượng.
Tiêu chí thưởng: phải đạt mức sản lượng (với tiêu chuẩn kỹ thuật đề ra), phải tổ chức kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm chặt chẽ về số lượng và chất lượng của sản phẩm được hoàn thành.
Nguồn tiền thưởng: được lấy từ số tiền tiết kiệm được do giảm hỏng chất lượng với định mức quy định của doanh nghiệp để được thưởng cho tổ chức hoặc cá nhân có thành tích nâng cao chất lượng sản phẩm.
Bên cạnh hình thức thưởng chất lượng thì phải tổ chức công tác phạt chất lượng. Phạt chất lượng là một hình thức phạt do không thực hiện tốt tỷ lệ hàng loại 2, phế phẩm theo quy định, hình thức phạt này đánh trúng đến từng cá nhân mắc lỗi chất lượng mới đem lại hiệu quả.
Nếu hai hình thức thưởng, phạt chất lượng trên được thực hiện sẽ làm cho cơ chế thưởng phạt của Công ty được bổ sung, Công ty cũng không phải mất thêm chi phí cho tiền thưởng vì nguồn tiền thưởng thực chất chính là giá trị tăng thêm do họ đạt và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất mặt hàng mang lại. Hơn nữa Công ty lại được một điều rất quan trọng, chất lượng sản phẩm của Công ty sẽ luôn đạt tiêu chuẩn tiến tới 100% sản phẩm loại A.
3.4.3.3. Đào tạo cán bộ công nhân viên
Lực lượng lao động luôn chiếm một vị trí rất quan trọng trong mỗi doanh nghiệp. Nếu không có lực lượng lao động thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều sẽ bị ngừng trệ. Bên cạnh đó nếu lực lượng lao động có trình độ tay nghề tốt thì sẽ góp phần rất lớn nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, có tác động tích cực tới việc thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Thị trường thế giới có nhiều biến động, việc xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ cũng có những yêu cầu ngày càng cao hơn, do đó công tác đào tạo cán bộ công nhân viên ở Công ty may Thăng Long là hết sức cần thiết.
3.4.3.4. Tăng cường đào tạo nâng cao tay nghề công nhân kỹ thuật
Tay nghề của người công nhân và dây chuyền sản xuất là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Để có được một đội ngũ công nhân lành nghề, Công ty may Thăng Long phải liên tục đào tạo, giáo dục toàn diện về chính trị, tư tưởng, văn hoá và khoa học kỹ thuật.
- Về mặt tư tưởng: Thường xuyên thông qua các tổ chức đoàn thể công đoàn, đoàn thanh niên tổ chức mở các khóa tập huấn, bồi dưỡng tư tưởng chính trị để người công nhân hiểu rằng sản phẩm có chất lượng là vinh dự và thể hiện đạo đức của mỗi công nhân. Điều này góp phần rất lớn vào củng cố và nâng cao uy tín cho Công ty, uy tín này được khẳng định qua việc sản phẩm của Công ty được chấp nhận bởi thị trường quốc tế, Công ty cần phải làm cho mỗi công nhân hiểu được rằng lợi ích kinh tế của họ gắn liền với sản phẩm có chất lượng cao. Bên cạnh đó, Công ty cũng nên có chế độ khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với những công nhân giỏi, có sáng kiến phục vụ sản xuất. Có như vậy mới kích thích lòng say mê và sự tận tâm với công việc của mỗi công nhân. Công ty cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là các khâu giao chỉ tiêu và gắn bó chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu.
- Về mặt văn hoá: Hầu hết công nhân sản xuất của Công ty đều đã có trình độ tốt nghiệp PTTH. Do vậy, cần có kế hoạch nâng cao trình độ văn hoá cho công nhân vì khi có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, người công nhân sẽ có nhiều sáng tạo hơn trong sản xuất giúp tăng năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm.
- Về mặt tay nghề: Công ty phải quan tâm và thường xuyên bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề của công nhân. Công ty có thể mời các chuyên gia, cán bộ có trình độ về công ty để kèm cặp uốn nắn công nhân ngay trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó, để đảm bảo cho công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ chuyên môn thì hàng năm Công ty phải cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn do các chuyên gia đầu ngành trực tiếp giảng dạy. Khi công nhân có đủ trình độ, họ sẽ có khả năng tự kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình. Không có sự kiểm tra nào bằng công nhân tự kiểm tra chất lượng sản phẩm do chính họ làm ra khi họ được trang bị kiến thức đầy đủ và giác ngộ cao về quyền lợi chung của công ty gắn liền với quyền lợi cá nhân.
3.4.3.5. Đào tạo cán bộ quản lý
Trình độ quản lý là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp cần tổ chức thực hiện tốt 4 chức năng cơ bản sau: từ việc hoạch định, tổ chức, điều khiển kiểm tra là điều kiện tiên quyết để đạt hiệu quả kinh doanh, đến việc xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược, tổ chức các nguồn lực doanh nghiệp, xây dựng bộ máy quản lý tác nghiệp, bố trí nhân sự, các biện pháp đôn đốc, thúc đẩy và động viên kiểm soát. Ngoài ra quản trị doanh nghiệp còn nghiên cứu các yếu tố môi trường để có thể hạn chế những tổn thất thiệt hại cho quá trình sản xuất kinh doanh. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển trình độ khoa học kỹ thuật, công ty phải tiến hành tốt công tác đào tạo mới cũng như đào tạo lại cán bộ quản lý. Với đặc điểm là một Công ty chuyên trong lĩnh vực xuất khẩu hàng may mặc, Công ty cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ kinh doanh xuất, nhập khẩu, quản lý hiện đại cho các cán bộ quản lý. Đây là một cách đầu tư lâu dài và chắc chắn sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty có thể đào tạo lại cán bộ quản lý thông qua các hình thức như trang bị hay củng cố các kiến thức quản trị kinh doanh hiện đại bằng cách tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý tham gia các khoá đào tạo ở nước ngoài để làm nòng cốt cho bộ máy quản trị sau này. Mặt khác, Công ty cần phải tìm và học hỏi kinh nghiệm các cán bộ quản trị Công ty thay đổi dựa trên những tiêu chuẩn nhất định sao cho chọn được những người có năng lực, đồng thời phải phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm, quyền lợi giữa các cấp quản trị trong công ty.
3.4.3.6.Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ kinh doanh
Sự cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ ngày càng trở nên khốc liệt hơn, điều này khiến Công ty có ít cơ hội tăng giá bán. Với mục tiêu của Công ty là giảm tỷ suất lợi nhuận, muốn vậy phải giảm chi phí tối đa để hoạt động sản xuất có hiệu quả cao nhất. Để giải quyết được vấn đề này, ngoài việc chú trọng đến các vấn đề về con người , Công ty cần chú ý đến đội ngũ quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu.
Công ty may Thăng Long là doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc nên đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân viên tác nghiệp có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách chính xác, kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế. Đồng thời phải nắm rõ những thông tin về sự thay đổi nhu cầu, giá cả của thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, để có được đội ngũ nhân viên như vậy, mỗi nhân viên cũng như cán bộ Công ty phải là người giỏi trình độ chuyên môn ở vị trí của mình đồng thời có khả năng sử dụng tốt ngoại ngữ trong hoạt động kinh doanh, hiểu biết tâm lý và thị hiếu khách hàng. Các cán bộ luôn phải rèn luyện thói quen theo dõi, ghi nhận, nghiên cứu và phân tích các thông tin liên quan đến sản phẩm mà mình kinh doanh, thị trường cũng như giá cả trên thị trường Hoa Kỳ. Muốn vậy, Công ty trước hết cần thực hiện việc đào tạo lại đội ngũ cán bộ thực hiện trang bị các thiết bị thông tin liên lạc trong các thị trường, cần chú ý đến công tác tiếp thị.
Để đáp ứng được yêu cầu trên, Công ty cần có chế độ khuyến khích cán bộ công nhân viên theo học các khoá tại chức và dài hạn, đi học tập bồi dưỡng kiến thức ở các trường đào tạo có danh tiếng.
3.4.3.7. Tăng cường quảng bá sản phẩm
Là sản phẩm may mặc, có nhiều đối thủ cạnh tranh nên Công ty may Thăng Long cần phải tăng cường các hình thức quảng cáo về sản phẩm của Công ty, để sản phẩm có thể đến được với khách hàng một cách nhanh và hiệu quả nhất. Đối với thị trường Hoa Kỳ, do thị hiếu cũng như lối sống thực dụng, hiện đại của họ mà công ty có thể có một số phương pháp quảng cáo sau: qua báo chí, các loại ấn phẩm, quảng cáo ngoài trời, tham gia tổ chức triển lãm, hội chợ quốc tế, phát thanh truyền hình, gửi tặng phẩm, quà biếu... Các hình thức quảng cáo này đang rất thông dụng ở Hoa Kỳ, Công ty có thể lựa chọn một số cách phù hợp để quảng bá sản phẩm của mình với người tiêu dùng và bạn hàng Hoa Kỳ.
- Báo chí: Đăng ảnh cùng lời giới thiệu trên báo chí là hình thức quảng cáo được áp dụng rộng rãi, kịp thời và thường xuyên tại Hoa Kỳ. Nếu đăng lại nhiều lần trên mục quảng cáo chi phí tương đối rẻ so với các phương tiện quảng cáo khác. Căn cứ chọn báo để đăng quảng cáo phải dựa vào những điều kiện chủ yếu sau:
+ Tính chất của tờ báo: báo chính trị hay kinh tế, phổ thông hay chuyên ngành trong lĩnh vực đối ngoại có cho phép sử dụng báo đó hay không.
+ Phạm vi phát hành tờ báo: rộng hay hẹp, nó có lưu hành ở nơi mình định quảng cáo hay không.
+ Chi phí quảng cáo đắt hay rẻ: chi phí này phụ thuộc vào diện tích mà quảng cáo chiếm chỗ và thời gian đăng quảng cáo. Giá quảng cáo cao hay thấp khác nhau cũng còn tuỳ thuộc vào tính chất của báo, số lượng phát hành và khả năng tiêu thụ của tờ báo.
- Tham gia triển lãm, hội chợ quốc tế tại Hoa Kỳ: Từ lâu, các nước đã tổ chức các cuộc triển lãm để trưng bày và quảng cáo sản phẩm của mình một cách quy mô. Đồng thời đây cũng là nơi tụ họp, gặp gỡ các nhà kinh doanh để đàm phán ký kết hợp đồng. Công ty cần mở rộng kinh doanh trao đổi hàng hoá để phát triển sản xuất, tranh thủ thị trường. Công ty nên tranh thủ những hội chợ này để gặp gỡ và ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp Hoa Kỳ.
Việc gửi hàng trưng bày trong các hội chợ triển lãm quốc tế, hoặc chủ động tổ chức triển lãm, trưng bày hàng ở nước ngoài là một hình thức tuyên truyền quảng cáo hàng hoá một cách hiện đại, quy mô lớn và thu hút được sự chú ý của nhiều người trong giới kinh doanh xuất khẩu. Để thu được kết quả tốt, Công ty cần chuẩn bị công việc tham gia hội chợ triển lãm một cách chu đáo. Công ty nên chú ý đến phương tiện quảng cáo này vì nó đem lại hiệu quả rất cao.
- Quảng cáo ngoài trời: Hình thức quảng cáo này thích hợp với nhiều đối tượng, tuyên truyền được rộng, chi phí quảng cáo rẻ. Đương nhiên, muốn sử dụng được các phương tiện này thì phải được luật pháp nước sở tại (Hoa Kỳ) cho phép. Công ty dùng những tranh hay bảng sơn quảng cáo dọc đường ray, mái nhà, sân ga, trạm xe, dùng các loại đèn điện có màu sắc khác nhau để quảng cáo trên đường phố.
- Gửi tặng phẩm, quà biếu: Đây là hình thức quảng cáo khá tinh vi và tế nhị, nó có thể tranh thủ được tình cảm của người được quảng cáo, kích thích thói quen tiêu dùng. Một phần nhỏ hàng xuất khẩu được dùng làm quà biếu, tặng cho đối tượng quảng cáo hoặc đại lý, môi giới bán hàng cho mình. Những đối tượng này được gửi biếu trong những dịp thích hợp như dịp lễ, hoặc nhân dịp có đoàn ngoại giao hoặc kinh tế đi thăm...
3.4.3.8. Nâng cao khả năng thiết kế mẫu mã
Hàng may mặc là mặt hàng có tính thời vụ và tính thời trang rất cao. Tại một thời gian và không gian nhất định thì vấn đề mẫu mã có vai trò rất quan trọng góp phần quyết định đến sức tiêu thụ sản phẩm đó trên thị trường may mặc quốc tế.
Mặc dù Công ty May Thăng Long có rất nhiều cố gắng trong việc thiết kế nhiều mẫu mới và các sản phẩm may thời trang, nhưng hiện nay có một số mặt hàng trong đó mẫu mã còn đơn điệu chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng nước ngoài trong đó có khách hàng Hoa Kỳ. Vấn đề hiện nay là làm sao Công ty phải hoàn thiện hơn nữa quan hệ giữa các khâu nghiên cứu thị trường, thiết kế và quảng cáo sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường may mặc nước Hoa Kỳ. Sau khi nghiên cứu thị trường, các kết quả thu được sẽ cung cấp cho khâu thiết kế những thông tin cần thiết về nhu cầu, thị hiếu, phong tục tập quán của thị trường. Trên cơ sở đó phòng thiết kế thời trang sẽ nghiên cứu và thiết kế thử các loại quần áo thời trang. Thông qua hoạt động quảng cáo Công ty sẽ nhanh chóng giới thiệu các sản phẩm may mặc mới của Công ty với khách hàng Hoa Kỳ, các khách hàng này sẽ biết đến chất lượng cũng như mẫu mã của Công ty nhiều hơn. Tình trạng yếu kém về thiết kế mẫu mã không chỉ đối với riêng Công ty mà là tình trạng chung của đa phần các doanh nghiệp khác của ngành may mặc. Nguyên nhân của sự yếu kém trên chủ yếu là do sự hạn chế về trình độ của công nhân kỹ thuật, sự quá lệ thuộc vào làm hàng gia công trong thời gian qua và do chất lượng hoạt động marketing, tìm hiểu thị trường thấp dẫn đến thiếu thông tin chính xác về thị hiếu khách hàng để thiết kế mẫu. Để có khả năng thiết kế mẫu, làm đa dạng hoá mẫu mã để tăng thêm sức cạnh tranh trong thời gian tới Công ty cần làm ngay những việc sau:
- Tuyển dụng thêm các cán bộ kỹ thuật: nguồn tuyển những cán bộ kỹ thuật này có thể từ trong hoặc ngoài Công ty nhưng phải đảm bảo những yêu cầu về trình độ kỹ thuật.
- Giúp các cán bộ kỹ thuật cập nhật những mẫu mốt mới và nắm bắt thị trường: Hàng năm Công ty nên tổ chức cho cán bộ kỹ thuật đi tham quan các doanh nghiệp làm ăn tốt trong và ngoài nước, cử họ đi học ở các trung tâm đào tạo mẫu thời trang trong nước và quốc tế.
- Khuyến khích cán bộ tạo mẫu phát huy sáng kiến và trình độ của mình. Công ty ngoài việc có mức lương tương ứng thì phải gắn trách nhiệm với quyền lợi của người cán bộ tạo mốt.
Nếu thực hiện được các biện pháp như trên, Công ty may Thăng Long hoàn toàn có thể yêu tâm tiếp cận thị trường khó tính như thị trường Hoa Kỳ cũng như thị trường quốc tế nói chung một cách tự tin.
3.4.3.9. Tìm kiếm đối tác trên thị trường Hoa Kỳ
Công ty cần tìm kiếm các hợp đồng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ để trở thành nhà thầu cung cấp thay vì làm hàng gia công. Ký hợp đồng cung cấp cho các Công ty bán lẻ sẽ là phương án tối ưu đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện nay vì như vậy sẽ giảm được chi phí phân phối do loại bớt khâu trung gian, mặt khác các nhà bán lẻ sẽ cung cấp nhanh nhất các thông tin cần thiết về sự thay đổi nhu cầu của thị trường cho các nhà sản xuất. Xu hướng tìm nguồn cung ứng từ nước ngoài của các Công ty bán lẻ và xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước có chi phí nhân công thấp của các nhà sản xuất Hoa Kỳ hiện nay sẽ là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm đối tác và tiếp cận thị trường Hoa Kỳ. Để có khả năng thực hiện các hợp đồng thầu cung cấp, các doanh nghiệp cũng phải chuẩn bị các đối tác trong nước để cung cấp các nguyên vật liệu, các phụ kiện chất lượng cho sản xuất hàng xuất khẩu, qua đó hạ thấp chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và thúc đẩy sản xuất trong ngành phát triển.
3.4.3.10. Tiếp cận và phát triển hình thức kinh doanh mạng
Trên thế giới hình thức kinh doanh mạng đã trở nên hết sức phổ biến. Hoa Kỳ là nơi phát minh ra mạng máy tính toàn cầu Internet thì tốc độ phát triển của hình thức kinh doanh mạng diễn ra nhanh đến chóng mặt. Và có thể nói Internet đã có mặt trong mọi lĩnh vực kinh doanh của nền kinh tế Hoa Kỳ. Với các doanh nghiệp Việt Nam đây là một hình thức kinh doanh còn mới mẻ nhưng tính hiệu quả đã được khẳng định ở sự thành công với hình thức này của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên nó chưa được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đúng mức. Việc kinh doanh trên mạng có rất nhiều ích lợi nó làm cho các bên tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền của và giao dịch được tiến hành một cách nhanh chóng. Việc tìm kiếm bạn hàng và cơ hội kinh doanh trên mạng sẽ giúp Công ty mở rộng và thâm nhập và thị trường Hoa Kỳ dễ dàng hơn hiệu quả hơn. Hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho hình thức kinh doanh này ở Công ty chưa được quan tâm đúng mức. Công ty nên lập một phòng ban chuyên phụ trách về kinh doanh thương mại điện tử. Tiếp cận với hình thức kinh doanh tiên tiến này sẽ giúp Công ty nâng cao được mức doanh thu của mình, vươn ra thị trường của mình tới thị trường Hoa Kỳ.
3.4.3.11. Xây dựng thương hiệu cao cấp
Như đã nói ở phần hạn chế, May Thăng Long chưa tận dụng được phân khúc trung và cao cấp trong thị trường Hoa Kỳ. Do đó việc xây dựng một thương hiệu phụ hướng đến thị trường trung và cao cấp là điều nên tính đến. Thương hiệu mới này có thể không lấy tên là thaloga mà lấy một cái tên mang phong cách hiện đại với một chiến lược phát triển riêng nhắm tới phân khúc thị trường trung và cao cấp. Với việc xây dựng thương hiệu này Công ty sẽ vừa mở rộng thêm được mặt hàng kinh doanh vừa nâng cao thương hiệu thaloga trên thị trường Quốc tế.
KẾT LUẬN
Qua những vấn đề lý luận về thúc đẩy xuất khẩu và thực tiễn hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty may Thăng Long vào thị trường Hoa Kỳ, có thể thấy vai trò của xuất khẩu hàng dệt may đối với doanh nghiệp cũng như nền kinh tế là hết sức quan trọng, đó là một trong những động lực quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa đất nước ta hiện nay. Công ty may Thăng Long là một trong những doanh nghiệp luôn dẫn đầu ngành dệt may trong sản xuất và xuất khẩu của cả nước. Trong những năm qua, công ty luôn đóng góp kim ngạch đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đang có những bước đi đúng đắn để xâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong thời gian tới công ty còn phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề còn tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu.
Đề tài đã tập trung làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về xuất khẩu và tầm quan trọng của thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
Thứ hai, tìm hiểu những đặc điểm quan trọng về thị trường Hoa Kỳ, phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may tại công ty may Thăng Long sang thị trường Hoa Kỳ, làm rõ các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực tiễn được làm rõ, đề ra một số giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty May Thăng Long sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới. Những giải pháp đề ra hy vọng phần nào tháo gỡ những vướng mắc đang tồn tại nhằm khuyến khích và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của Công ty, đưa hàng dệt may lên vị trí xứng đáng với tiềm năng phát triển của mình.
Với những vấn đề, giải pháp được trình bày trong bài luận văn này, tôi hi vọng nó sẽ là những đóng góp hữu ích để giúp công ty May Thăng Long tiếp tục phát triển và luôn giữ vững vai trò là cánh chim đầu đàn của ngành dệt may Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình quản trị doanh nghiệp, PGS. TS Lê Văn Tâm. NXB thống kê
2. Giáo trình Kinh tế Quốc tế, GS.TS. Đỗ Đức Bình, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, NXB Lao Động – Xã Hội.
3. Giáo trình nghiệp vụ Ngoại Thương
4. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, Bộ tài chính Mỹ- Tổng cục Hải quan, tháng 10/2007
5. Khái quát nền kinh tế Mỹ, R.Mc Can, M. Perlman, united Stales information Agency
6. Xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Bộ tài chính Mỹ- Tổng cục Hải quan, tháng 10/2007
7. Dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ năm 2005, 2006, 2007 của IMF, WB.
8. Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu vào thị trường Mỹ của bộ thương mại Mỹ.
9. Báo cáo xuất khẩu của Công ty may Thăng Long.
10. Tìm hiểu để hợp tác với Mỹ, Uỷ ban kế hoạch nhà nước- Trung tâm thông tin, Hà Nội-2006
11. Một số quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
12. Những điều cần biết khi nhập khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ- Ban xúc tiến thương mại- Bộ thương mại.
13. Đôi điều cần biết về nước Mỹ, Lê Quang Huy, NXB. TPHCM
14. Tạp chí Kinh tế phát triển
15. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay
16. Các website
PHỤ LỤC
1/ Xuất xứ hàng hóa
Nguyên tắc chung và cơ bản
Nước xuất xứ của hàng hóa là nước chế tạo, sản xuất hoặc nuôi trồng ra hàng hóa. Tuy nhiên, trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất hiện nay, không phải không có phức tạp và khó khăn trong việc xác định nước xuất xứ hàng hóa, bởi vì rất nhiều hàng hóa được sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp từ các nguyên phụ liệu, linh kiện, bộ phận được sản xuất từ nhiều nước khác nhau.
Nguyên tắc chung và cơ bản để xác định nước xuất xứ của hàng hóa là dựa vào sự biến đổi đặc tính và giá trị gia tăng của hàng hóa. Theo nguyên tắc này, nước xuất xứ của hàng hóa là nước cuối cùng sản xuất ra hàng hóa đó với điều kiện hàng hóa đó đã biến dạng để mang tên mới và có đặc tính sử dụng mới. Ví dụ, túi xách tay sản xuất ở Việt Nam bằng da nhập khẩu được coi là hàng có xuất xứ Việt Nam.
Tuy nhiên, trong trường hợp nước cuối cùng sản xuất ra hàng hóa chỉ tiến hành những công việc lắp ráp đơn giản, không tạo ra bản sắc riêng của hàng hóa hoặc trị giá gia tăng được tạo ra quá thấp thì nước cuối cùng sản xuất ra hàng hóa đó cũng không được coi là nước xuất xứ hàng hóa. Ví dụ, để được coi là hàng có xuất xứ từ Thái lan để được hưởng GSP của Hoa Kỳ thì hàng đó phải có ít nhất 35% giá trị gia tăng được tạo ra tại Thái lan.
Do vậy, ngoài nguyên tắc chung và cơ bản nêu trên, còn có những qui định cụ thể cách xác định nước xuất xứ hàng hóa cho một số hàng hóa cụ thể.
Một số quy định cụ thể đối với hàng dệt may
Những nguyên tắc chung
Nước xuất xứ là nước sản xuất ra toàn bộ hàng hóa (trừ những ngoại lệ về nguyên liệu tối thiểu đã được qui định trong 19 CFR Mục 102.13).
Đối với sợi (bao gồm cả sợi đơn và sợi đa). Nước xuất xứ của sợi, chỉ, sợi bện, thừng, chão, cáp, dây tết là nước sản xuất ra những loại hàng này.
Đối với vải. Nước xuất xứ là nước dệt ra vải.
Các sản phẩm dệt may khác: Nước xuất xứ là nước lắp ráp ra thành phẩm.
Những nguyên tắc đặc biệt
Nếu không xác định được xuất xứ của một sản phẩm dệt hay quần áo bằng một trong những nguyên tắc trên, và do sản phẩm được sản xuất ở hai hay nhiều nước thì nước xuất xứ là:
Nước mà quá trình lắp ráp quan trọng nhất hay quá trình sản xuất quan trọng nhất diễn ra. Việc xác định hoạt động sản xuất quan trọng nhất sẽ tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Nếu không thể xác định được quy trình nào là quan trọng nhất, thì nước xuất xứ là nước cuối cùng mà tại đó hoạt động lắp ráp hay sản xuất diễn ra.
Thứ tự áp dụng các nguyên tắc
Các nguyên tắc trên được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên áp dụng theo quy định trong Quy định của Hải quan Phần 102.21 (9c) như sau:
Sản phẩm được sản xuất hoàn toàn ở một nước;
Sự thay đổi đặc tính của sản phẩm (chuyển từ mã thuế này sang mã thuế khác);
Nước mà sản phẩm có những phần chính được tạo thành hình;
Sản phẩm hoàn toàn được lắp ráp tại một nước trừ 16 loại trừ cụ thể;
Nước mà tại đó quy trình sản xuất hay lắp ráp quan trọng nhất đã diễn ra;
Nước cuối cùng mà quy trình sản xuất hay lắp ráp quan trọng nhất diễn ra. Đối với quần áo, nơi lắp ráp/may vải đã cắt thành quần áo chứ không phải nơi cắt vải là xuất xứ của quần áo.
Đánh dấu xuất xứ hàng hóa
Luật thuế quan năm 1930 yêu cầu tất cả hàng hóa nhập khẩu (trừ một số trường hợp ngoại lệ) phải được đánh dấu nước xuất xứ bằng tiếng Anh một cách rõ ràng, dễ đọc, ở chỗ dễ thấy và không thể tẩy xóa được để có thể tồn tại cho đến khi hàng hóa đến tay người mua cuối cùng. Người mua cuối cùng là người cuối cùng nhận được hàng hóa nguyên dạng như khi nhập khẩu. Đối với hàng nguyên liệu thì người mua cuối cùng có thể là người sản xuất dùng nguyên liệu đó để sản xuất ra hàng hóa khác. Đối với hàng tiêu dùng thì người mua cuối cùng có thể là người tiêu dùng. Mục đích của qui định này chủ yếu là nhằm giúp cho người mua hàng có thêm thông tin để lựa chọn hàng hóa.
Luật không cho phép ghi trên nhãn hoặc bao bì hàng hóa có xuất xứ nước ngoài những từ như “United States” hoặc “U.S.A”, hoặc tên bất kỳ thành phố hoặc địa điểm nào ở Hoa Kỳ để tạo cảm giác là hàng được sản xuất tại Hoa Kỳ, trừ phi trên nhãn hoặc bao bì hàng hóa có ghi kèm một cách rõ ràng ở chỗ dễ thấy nước xuất xứ của hàng hóa.
Hàng nhập khẩu vi phạm qui định đánh dấu xuất xứ sẽ bị Hải quan giữ lại. Hải quan có thể yêu cầu người nhập khẩu nộp thuế vi phạm qui định đánh dấu xuất xứ bằng 10% trị giá hàng vi phạm trừ phi hàng đó được tái xuất, tiêu hủy hoặc đánh dấu xuất xứ dưới sự giám sát của Hải quan. Đối với người xuất khẩu, vi phạm đánh dấu nước xuất xứ có thể bị Hải quan lưu vào “sổ đen” máy tính và để ý kiểm tra kỹ hơn các lô hàng xuất sau đó.
Luật Thuế quan chỉ qui định chung chung về cách đánh dấu xuất xứ hàng hóa như nêu trên, song Qui chế Hải quan có qui định cụ thể cách thức đánh dấu nước xuất xứ cho một số loại hàng hóa thuộc nhóm hàng công cụ và dụng cụ kim loại, nhóm hàng đồng hồ, và những hàng hóa có kiểu dáng bản xứ Mỹ. Đối với những hàng hóa này, việc đánh dấu nước xuất xứ có thể phải được thực hiện ngay trong quá trình sản xuất. Ví dụ, tên nước xuất xứ hàng hóa có thể phải thiết kế từ khuân đúc để in lên sản phẩm.
Do vậy, trước khi triển khai sản xuất hoặc thậm chí ngay từ khi thương thảo hợp đồng, người xuất khẩu nên kiểm tra và thống nhất với người nhập khẩu về cách đánh dấu xuất xứ hàng hóa để tránh tranh chấp và phí tổn có thể xẩy ra cho cả hai bên. Đặc biệt đối với những lô hàng tồn kho hoặc có sẵn đã đánh dấu xuất xứ hàng hóa, trước khi giao hàng hoặc thậm chí ngay từ khi ký hợp đồng, người xuất khẩu phải kiểm tra với người nhập khẩu xem cách đánh dấu xuất xứ hàng hóa có sẵn đó có phù hợp với qui định của Hải quan Hoa Kỳ hay không.
Có một số mặt hàng được miễn đánh dấu xuất xứ. Danh mục những mặt hàng đó có thể tìm trên trang web của Hải quan Hoa Kỳ: www.cbp.gov.
Qui định dán nhãn xuất xứ đối với một số sản phẩm nông nghiệp
Theo qui định của Luật an ninh nông nghiệp và phát triển nông thôn (gọi tắt là Luật nghiệp 2002) được Tổng thống George W. Bush ký ban hành ngày 13/5/2002, một số nông sản: rau quả, thịt (bò, cừu, bê, lợn), và thủy sản bán tại các của hàng bán lẻ bắt buộc phải có nhãn xuất xứ. Đối với thủy sản, nhãn xuất xứ còn phải ghi rõ sản phẩm được đánh bắt tự nhiên hay nuôi trồng. Cũng theo qui định của luật này, các cơ sở bán lẻ còn phải lưu giữ hồ sơ xác nhận xuất xứ hàng hóa.
Do việc dán nhãn xuất xứ nông sản rất tốn kém và phức tạp, và gặp phải sự phản đối của giới kinh doanh cho nên đến nay những qui định này vẫn chưa được thực hiện. Ngày 22 tháng 7 năm 2004, Uỷ ban nông nghiệp thuộc Hạ viện đã thông qua Dự luật quảng bá thực phẩm năm 2004 (The Food Promotion Act of 2004) trong đó qui định việc dán nhãn xuất xứ một số loại nông sản như nói trên là tự nguyện thay vì cho bắt buộc. Tuy nhiên, dự luật này còn phải chờ Hạ viện và Thượng viện thông qua.
2/ Thông báo của Bộ Thương Mại
BỘ THƯƠNG MẠI
_____
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_________________________________________
Số: 0002/BTM-DM
Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2007
THÔNG BÁO
V/v xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ kể từ ngày Việt Nam là
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Căn cứ Hiệp định về thương mại hàng dệt và các sản phẩm hàng dệt từ bông, len, sợi nhân tạo, sợi thực vật ngoài bông và tơ tằm được Chính phủ Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ký kết ngày 17 tháng 7 năm 2003 và các Bản thoả thuận gia hạn hàng năm sau đó quy định Hiệp định này có hiệu lực cho đến khi Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO);
Căn cứ Thông báo của Uỷ ban Thực thi các Hiệp định hàng dệt may của Hoa Kỳ (CITA) ngày 8 tháng 01 năm 2007 tới Cơ quan Hải quan và bảo vệ đường biên Hoa Kỳ về việc các sản phẩm dệt may xuất khẩu từ Việt Nam kể từ ngày 11 tháng 01 năm 2007 không phải chịu các yêu cầu về hạn ngạch, Visa;
Nhằm đảm bảo ngành công nghiệp dệt may phát triển bền vững, việc xuất khẩu hàng dệt may thực hiện đúng các cam kết quốc tế, Liên Bộ Thương mại – Bộ Công nghiệp phối hợp với Hiệp Hội dệt may Việt Nam thông báo tới các thương nhân sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ một số vấn đề sau đây:
1. Các chủng loại hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trước đây bị áp đặt hạn ngạch, kể từ ngày 11 tháng 01 năm 2007 (tính theo ngày tàu dời cảng cuối cùng của Việt Nam) không phải quản lý hạn ngạch và không phải làm thủ tục cấp Visa xuất khẩu tại các Phòng Quản lý xuất nhập khẩu thuộc Bộ Thương mại. Khi xuất khẩu hàng dệt may, thương nhân chỉ cần làm thủ tục xuất khẩu theo quy định hiện hành tại cơ quan Hải quan.
2. Thương nhân sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may cần nghiên cứu và thực hiện đúng các quy định của Hoa Kỳ về thủ tục Hải quan, xuất xứ hàng hoá.
3. Thương nhân nghiêm túc thực hiện việc khai báo chính xác các đề mục trên Tờ khai xuất khẩu Hải quan và Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (Certificate of Origin- C/O, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu): đúng về chủng loại hàng, số lượng, giá trị hàng hoá thực tế xuất khẩu. Thương nhân phải kê khai đúng mã số nhà sản xuất ( mã MID) trên các chứng từ xuất khẩu và tờ khai Hải quan xuất khẩu như hướng dẫn tại thông báo số 1059/TM-DM ngày 25 tháng 11 năm 2005 của Bộ Thương mại.
Các thương nhân sản xuất hàng dệt may để xuất khẩu đi Hoa Kỳ chưa có mã MID phải đăng ký tại các Phòng Quản lý Xuất nhập khẩu khu vực.
Hàng ngày, các Phòng Quản lý Xuất nhập khẩu khu vực báo cáo về Ban Dệt may các đăng ký mới.
Lưu ý đối với tờ khai hàng hoá xuất khẩu: kê khai đơn giá sản phẩm theo giá xuất khẩu (giá F.O.B) kể cả trong trường hợp gia công thì giá F.O.B. phải bao gồm cả giá nguyên phụ liệu, các chi phí cấu thành sản phẩm khác và giá gia công tại ô số 17 và khai bổ sung chủng loại hàng (Cat.) trong mục Tên hàng, quy cách phẩm chất tại ô số 13.
4. Thương nhân thực hiện đầy đủ các quy định về sản xuất, gia công hàng hoá, lưu trữ các chứng từ sản xuất, gia công, chứng từ nhập khẩu/mua nguyên phụ liệu và chứng từ xuất khẩu có liên quan đến từng lô hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ để có thể xuất trình kịp thời khi các cơ quan chức năng yêu cầu làm rõ về xuất xứ hàng hoá và giá xuất khẩu.
5. Nhằm tăng hiệu quả xuất khẩu chung của toàn ngành, tránh bị áp đặt các biện pháp điều tra bán phá giá thương nhân cần nhận các đơn hàng sản xuất, gia công xuất khẩu những mặt hàng có chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, không giảm giá bán để tăng khối lượng xuất khẩu. Thương nhân cần cân đối việc sản xuất các mặt hàng, cân đối việc xuất khẩu vào các thị trường chính phù hợp với cơ cấu sản xuất và cơ cấu thị trường đã hình thành. Tránh việc chỉ tăng xuất khẩu vào một số mặt hàng và một thị trường.
6. Thương nhân xuất khẩu chưa gửi đăng ký kế hoạch xuất khẩu quý I/ 2007 (theo Thông báo số 0616 / BTM- DM ngày 29/12/2006) đề nghị gửi ngay về Bộ Thương mại. Thương nhân không gửi hoặc báo cáo không chính xác phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu xảy ra thiệt hại liên quan.
7. Thương nhân tích cực phát hiện những hành vi gian lận thương mại của các cá nhân, đơn vị có liên quan đến sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ với các cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn kịp thời tránh những tác động xấu gây tổn hại đến uy tín của hàng dệt may Việt nam, công ăn việc làm cho các nhà sản xuất và người lao động Việt Nam.
Liên Bộ sẽ tăng cường cử các đoàn kiểm tra thực tế nhập khẩu, sản xuất và xuất khẩu của một số thương nhân để thực hiện các quy định của thông báo này
8. Mọi thông tin có liên quan đến việc xuất khẩu hàng dệt may được Bộ Thương mại cập nhật trên trang mạng (www.mot.gov.vn). Đề nghị các thương nhân theo dõi, cập nhật thông tin kịp thời để có kế hoạch nhận đơn hàng cho phù hợp với tình hình. Nếu có vướng mắc trong quá trình thực hiện đề nghị gửi đến hộp thư điện tử theo địa chỉ email: dmhk@mot.gov.vn để được giải đáp và hướng dẫn.
Trường hợp cần thiết cần điều chỉnh Thông báo này Liên Bộ Thương mại-Bộ Công nghiệp và Hiệp hội dệt may Việt Nam sẽ có hướng dẫn tiếp theo.
Liên Bộ sẽ họp với thương nhân để đánh giá việc thực hiện thông báo này.
Liên Bộ Thương mại-Bộ Công nghiệp và Hiệp hội dệt may Việt Nam thông báo các thương nhân biết và nghiêm túc thực hiện.
Nơi nhận:
- Văn phòng Chính phủ
- Bộ Công nghiệp;
- Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) (để phối hợp thực hiện)
- Hiệp hội dệt may Việt Nam ( để phối hợp thực hiện;
- Các Phòng QLXNK (để niêm yết )
- Đăng tải trên trang mạng của Bộ Thương mại;
- Lưu VT, BDM (2).
KT.BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(đã ký)
Lê Danh Vĩnh
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10699.doc