Với chính sách mở cửa, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng ngày càng trở nên sôi động mang lại nhiều lợi ích và cơ hội cho các doanh nghiệp - những người trực tiếp tham gia và các đơn vị liên quan, trong đó có các Ngân hàng. Tuy vậy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu có tính rủi ro cao. Thực tế đã không ít doanh nghiệp phải gánh chịu hậu quả nặng nề do không chú ý đến việc phòng ngừa các rủi ro. Nhưng rủi ro lớn nhất và có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp là rủi ro thanh toán. Nhiều doanh nghiệp đã xuất hàng đi rồi mà không thu được tiền. Nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà các doanh nghiệp Việt Nam mới ra nhập thị trường thế giới không lâu, việc hiểu đối tác nước ngoài chưa nhiều, và những hàng rào phi thuế quan luôn được các nước nghĩ ra nhiều hơn để hạn chế nhập khẩu hàng hoá của nước khác, để bảo vệ nền sản xuất trong nước họ. Khi đó một phương thức thanh toán an toàn, là tiêu chí đầu tiên được các doanh nghiệp lựa chọn. Hiện nay, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đang là sự lựa chọn số một của các doanh nghiệp. Bởi những ưu điểm nổi trội của nó. Nhận thức được điều đó, TCB đã và đang tích cực đẩy mạnh các biện pháp để tăng nhanh doanh số của phương thức thanh toán này. Với sự cố gắng của toàn thể Ban lãnh đạo, nhất là của đội ngũ cán bộ nhân viên phòng thanh toán quốc, TCB đã ngày càng thu được những kết quả khả quan. Tuy vậy, bên cạnh đó, vẫn còn những khó khăn mà yêu cầu trong thời gian tới phải được TCB khắc phục, để phương thức thanh toán này trở thành phương thức thanh toán được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Sau một thời gian tìm hiểu về lý luận cũng như những thực tế tại TCB, với khả năng, và thời gian còn hạn chế, em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại TCB. Em hy vọng, những giải pháp đó có thể là những gợi ý nho nhỏ để phương thức thanh toán này có thể đem lại những lợi ích lớn hơn với TCB và với các chủ thể tham gia vào phương thức thanh toán này tại TCB. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, Ban lãnh đạo và các anh chị phòng thanh toán quốc tế của TCB cùng tất cả những ai đã động viên, ủng hộ em để em có thể hoàn thành tốt khoá luận của mình.
71 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp mở rộng hoạt động động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TCB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B. Năm 2002, với một đội ngũ cán bộ nhân viên đã có kinh nghiệm, cùng sự trẻ trung, năng động nhiệt tình, sự đổi mới về công nghệ, và việc đưa vào hoạt động mạng SWIFT, uy tín của Ngân hàng được nâng cao và việc mở rộng mạng lưới quan hệ đại lý trên nhiều khu vực nên tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu của TCB doanh số thanh toán quốc tế qui đổi đạt 336 triệu USD tăng 11,62% so với 2001, trong khi doanh thu từ dịch vụ thanh toán quốc tế năm 2002 đạt 11,117 tỷ đồng tăng 43,21% so với 2001.
Thông qua nghiệp vụ thanh toán quốc tế TCB từng bước thực hiện vai trò tư vấn cho khách hàng nhằm bảo đảm quyền lợi, lợi ích quốc gia. Công tác đối ngoại ngày càng nhộn nhịp hơn. Cùng với những thuận lợi đó, TCB cũng đã xây dựng mạng lưới đại lý trên toàn cầu, góp phần tạo dựng uy tín Ngân hàng trên trường quốc tế. Hiện nay TCB đã thiết lập quan hệ đại lý ở: Châu á, Châu âu, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương... và thị trường khu vực như: ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan... Hiện nay TCB đã có trên 400 đại lý trên 67 nước và lãnh thổ trên toàn thế giới với trên 7000 địa chỉ chi nhánh của Ngân hàng đại lý. Mạng lưới rộng khắp đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn nước ngoài để đầu tư vào Việt Nam.
Với sự nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên cũng như Ban lãnh đạo của Ngân hàng và nhất là sự cố gắng không ngừng của cán bộ phòng thanh toán quốc tế, để không những giỏi về nghiệp vụ, vững vàng về chuyên môn mà còn có sự hiểu biết về lĩnh vực khác. Trong những năm qua thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán bằng L/C đã ngày một phát triển ngay cả khi nền kinh tế có nhiều bất ổn.
TCB cũng liên tục điều chỉnh biểu phí giúp Ngân hàng có thể cạnh tranh tốt hơn và từ đó thu hút nhiều khách hàng hơn, cùng với việc triển khai phần mềm mới và mạng SWIFT giúp giảm thời gian và tăng sự hài lòng cho khách hàng. Làm cho số lượng khách hàng đến TCB ngày một nhiều hơn. Nghĩa là TCB đã tạo dựng được lòng tin với khách hàng. Hoạt động thanh toán quốc tế của TCB ngày một phát triển, đa dạng về các sản phẩm.
Bảng 6: Doanh thu từ phí mở, sửa, thanh toán L/C.
Đơn vị: Triệu VND
Chỉ tiêu
Trị giá
Tăng giảm (+/-)
2000
3,550.10
-
2001
4,644.27
1,094.17
2002
6,491.42
1,847.15
(Nguồn: Báo cáo thường niên của TCB)
2.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân.
2.3.2.1 Những tồn tại.
Thứ nhất: Mất cân đối hoạt động thanh toán nhập khẩu với hoạt động thanh toán xuất khẩu.
Trong khi, hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu của TCB đã có những kết qủa khả quan, thì hoạt động thanh toán L/C xuất khẩu lại chưa phát triển tương ứng.
Do mất cân đối trong thanh toán L/C nhập khẩu và xuất khẩu nên nguồn vốn thanh toán L/C nhập khẩu chủ yếu dựa vào nguồn mua bán ngoại tệ và đi vay. Việc mất cân đối này vào nhiều thời điểm đã gây ra tình trạng mất cân đối một cách giả tạo, vì khách hàng chủ yếu là khách hàng nhập khẩu, họ luôn có nhu cầu mua ngoại tệ của Ngân hàng trong khi đó Ngân hàng không thể mua lại ngoại tệ từ khách hàng xuất khẩu.
Hơn nữa khi có biến động về tỷ giá (giảm), khi đó người mua nhiều hơn người bán, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì có thể gây ra nhiều rủi ro khác. Cụ thể, nếu Ngân hàng không có ngoại tệ bán cho doanh nghiệp - trước đó đã vay Ngân hàng để mở L/C và thanh toán tiền hàng nhập khẩu thì sẽ không thu được nợ và sẽ phải chuyển sang nợ quá hạn. Trong khi đó doanh nghiệp có VND và việc quản lý số tiền VND này rất khó khăn, doanh nghiệp có thể dùng vốn này để quay vòng khác nên rủi ro mất vốn là rất có thể. Để tránh việc chuyển nợ qúa hạn buộc Ngân hàng phải tạm ứng nguồn gửi ngoại tệ do huy động từ tiền gửi mà có để bán cho doanh nghiệp, khi thị trường có chiều hướng biến động theo chiều hướng tỷ giá ngoại tệ tăng, Ngân hàng sẽ có rủi ro khi mua bù đắp số ngoại tệ tạm ứng.
Có thể thấy sự mất cân đối giữa L/C NK và L/C XK thông qua biểu đồ dưới đây. Qua biểu đồ dễ thấy rằng dù lượng L/C XK có tăng lên qua các năm, song sự gia tăng này vẫn chưa tương xứng với lượng L/C NK. Hoạt động thanh toán nhập khẩu bằng L/C chiếm 80% đến 90% trong tổng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu bằng L/C. Trong khi đó, thanh toán L/C xuất khẩu chỉ chiếm 10% đến 20%.
Biểu đồ: Kim ngạch thanh toán L/C.
Đơn vị: 1000 USD
Thứ hai : Sản phẩm dịch vụ chưa phong phú.
Hiện nay, L/C mở qua TCB chủ yếu là L/C không huỷ ngang vì đây là loại L/C thông dụng mà các doanh nghiệp thường yêu cầu mở. Nó có tính chất an toàn hơn các loại L/C khác. Chính vì sản phẩm còn chưa phong phú nên khách hàng không có nhiều cơ hội để lựa chọn các hình thức L/C phù hợp nhất với đặc thù kinh doanh của họ. ở một góc độ nào đó thì hạn chế này đã làm giảm sức cạnh tranh của TCB cả ở thị trường trong nước cũng như thị trường ngoài nước. Đây cũng là điểm yếu không chỉ của TCB mà còn của các NHTM Việt Nam khác. Chính vì điều này mà TCB phần nào chưa tạo được sự hấp dẫn với khách hàng, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, họ đã quen với các dịch vụ tài chính của các Ngân hàng nước ngoài.
Thứ ba: Chưa khai thác hết nhu cầu khách hàng.
Hiện nay, trong số những khách hàng có hoạt động kinh doanh xuất khẩu đến giao dịch có nhiều khách hàng chỉ đến thông báo L/C tại TCB, còn bộ chứng từ họ lại mang đến Ngân hàng khác có uy tín hơn hoặc có mức thu phí ít hơn hoặc thời gian tiến hành thanh toán ít hơn để thanh toán... Như vậy với đối tượng khách hàng này, TCB vẫn chưa có biện pháp thích hợp để thu hút họ thực hiện thanh toán tại Ngân hàng mình.
Ngoài ra một số cán bộ thanh toán L/C của Ngân hàng, nơi trực tiếp quan hệ với khách hàng và xử lý nghiệp vụ vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi về trình độ hiểu biết pháp luật, thông lệ tập quán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ không đáp ứng được nhu cầu nghiệp vụ. Vì thế đã hạn chế khả năng tư vấn cho khách hàng về các nghiệp vụ tín dụng chứng từ, công tác tiếp thị thu hút khách hàng sẽ kém hiệu quả. Đây cũng là hạn chế rất quan trọng làm cho lượng khách hàng đến thanh toán tại TCB chưa nhiều.
2.3.2.2 Nguyên nhân của những tồn tại.
Thứ nhất: Nguyên nhân chủ quan.
xCác sản phẩm của TCB ra nhập thị trường muộn.
Năm 1996, nghiệp vụ thanh toán quốc tế của TCB mới thực sự đi vào hoạt động, trong khi đó nghiệp vụ này đã thực hiện ở các Ngân hàng khác từ trước đó, họ có rất nhiều kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế. Chính vì vậy mà khi tham gia vào thị trường thanh toán quốc tế, để cạnh tranh được với các Ngân hàng khác là một điều rất khó khăn vì khách hàng đã quen giao dịch với các Ngân hàng đó và cũng chưa tin tưởng vào khả năng của TCB. Thêm vào đó, kinh nghiệm thu hút khách hàng của TCB cũng chưa có nhiều. Bởi vậy, hiện nay, tổng doanh số TTQT của TCB còn chiếm thị phần nhỏ so với các Ngân hàng trong nước và các Ngân hàng khác trong khu vực.
yChưa quan tâm đúng mức đến công tác Marketing tại Hội Sở cũng như các quầy giao dịch với khách hàng.
Việc ứng dụng Marketing vào Ngân hàng là một vấn đề khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian, tiền của và con người. Vì vậy không phải Ngân hàng nào cũng có điều kiện thành lập phòng Marketing riêng cho các chi nhánh trong điều kiện còn hạn hẹp về nguồn vốn, con người. Tại TCB, hoạt động Marketing chưa được đề cập đến một cách nghiêm túc như một chiến lược trong việc thu hút khách hàng, mà chỉ mang tính thụ động nghĩa là chỉ lúc nào khách hàng đến với Ngân hàng thì lúc đó Ngân hàng mới tìm cách giữ chân họ mà chưa có biện pháp để đến với khách hàng. Những chiến lược Marketing như phân tích đối thủ cạnh tranh để đưa ra biện pháp thu hút khách hàng, sử dụng hệ thống các công cụ kích thích tiêu thụ sản phẩm... vẫn chưa được TCB chú ý đầu tư. Ngoài ra, TCB chưa có biện pháp để kích thích khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Chính vì vậy mà lượng khách hàng đến giao dịch tại TCB còn thấp so với các Ngân hàng khác.
x Công tác đào tạo và đào tạo lại chưa được chú trọng.
Tại TCB số nhân viên của bộ phận TTQT còn rất trẻ nên kinh nghiệm chưa nhiều, trình độ nghiệp vụ chưa thực sự vững vàng nên đây cũng là hạn chế khiến TCB chưa triển khai được các loại hình L/C khác. Với một số nghiệp vụ như chiết khấu bộ chứng từ theo L/C, mặc dù TCB chủ trương triển khai và đã có các văn bản cụ thể hướng dẫn quy trình quy phạm thực hiện nghiệp vụ này một cách đầy đủ, nhưng thực tế hoạt động chiết khấu lại diễn ra yên ắng. Nguyên nhân là do tính chất khách hàng xuất khẩu của TCB đều là những doanh nghip với hình thức công ty cổ phần, doanh nghiệp vừa và nhỏ hợp đồng ngoại thương ký kết với nhà nhập khẩu nước ngoài thường có giá trị không lớn hơn nữa họ không quá bức bách về vốn, chính vì thế đã không phát sinh nhu cầu chiết khấu bộ chứng từ theo L/C nhằm bổ sung nhu cầu vốn lưu động.
x Công nghệ Ngân hàng chưa theo kịp với Ngân hàng bạn.
Mặc dù, TCB đã có kế hoạch triển khai các sản phẩm phần mềm mới nhưng công tác triển khai lại chậm so với kế hoạch đề ra. Công nghệ thanh toán của TCB vẫn còn manh mún chưa đồng bộ. Việc hiện đại hoá mới chỉ tập trung vào Hội sở và chi nhánh TCB Hồ Chí Minh. Còn ở các chi nhánh khác, phần mềm cho thanh toán còn đơn giản chưa được cập nhật thường xuyên, thiếu đồng bộ mức tự động hoá chưa cao. Do vậy, việc truyền tin và nhận cũng như việc hạch toán còn nhiều chậm trễ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng.
Thứ hai: Nguyên nhân khách quan.
aNguyên nhân từ phía Nhà nước.
_ Do chính sách quản lý của Nhà nước.
Trong nền kinh tế, chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động trong nền kinh tế nói chung, lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng thanh toán quốc tế của Ngân hàng nói riêng.
Chính sách kinh tế vĩ mô bao gồm chính sách về kinh tế tài chính, chính sách kinh tế đối ngoại... Nếu Chính phủ thay đổi một trong các chính sách này thì ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp và các Ngân hàng thương mại cũng chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuỳ từng thời điểm cụ thể, từng mục tiêu phát triển mà các chính sách này có thể tác động đến hoạt động thanh toán quốc tế một cách khác nhau, có thể là tác động tích cực, khuyến khích sự phát triển hoặc kìm hãm nó. Chính sách của Nhà nước về XNK cũng phải được nghiên cứu kỹ trên phương diện cung cầu, giá cả thị trường... để qui định về khối lượng thời gian, mặt hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp đựơc phép xuất nhập khẩu để tạo sự ổn định cho nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước, phát triển sản xuất trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hàng xuất khẩu.
_ Môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán L/C chưa hoàn thiện.
Hoạt động thanh toán quốc tế của TCB được điều chỉnh bởi hai nhóm văn bản pháp lý: Nhóm văn bản pháp lý do Nhà nước Việt Nam ban hành và nhóm văn bản pháp lý về tập quán thương mại quốc tế như “Các quy tắc về thực hành thống nhất tín dụng chứng từ” do phòng thương mại quốc tế ban hành mới nhất năm 1993.
Thực tiễn cho thấy, đến nay chúng ta chưa có bộ luật ngoại hối, luật séc, luật hối phiếu... một cách hoàn chỉnh. Chúng ta còn thiếu những văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu và Ngân hàng khi tham gia vào các hình thức thanh toán quốc tế. Và cũng chưa có một văn bản chính thức của Việt Nam đồng ý tham gia vào văn bản quốc tế nào để TCB theo đó tự điều chỉnh hoạt động của mình. Đây là những vướng mắc không thể giải quyết sớm một chiều, tuy vậy lại rất cần thiết, là nền tảng cho hoạt động thanh toán quốc tế.
_ Cán cân vãng lai và cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam còn thâm hụt nghiêm trọng, dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu về ngoại tệ, buộc Nhà nước phải áp dụng các biện pháp hành chính để tăng cung, hạn chế cầu về ngoại tệ ảnh hưởng đến hoạt động mua bán ngoại tệ của Ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán L/C nói riêng. Mặt khác, Nhà nước chưa có cơ chế quản lý và biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn tệ nạn buôn bán hàng lậu qua biên giới, gây chảy ngoại tệ ra quốc gia ngày càng nghiêm trọng. Lượng ngoại tệ thanh toán “chui” ngoài hệ thống Ngân hàng tính ra lên đến hàng tỷ USD mỗi năm, luôn là vấn đề nổi cộm đối với các nhà quản lý.
Thứ ba: Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Sự thiếu hiểu biết của khách hàng về UCP 500 và những thông lệ, tập quán trong thương mại quốc tế (nhất là với những khách hàng mới tham gia vào hoạt động thanh toán XNK), đã gây lên những trở ngại lớn trong quá trình thanh toán. Vì khách hàng thiếu hiểu biết nên thanh toán viên phải hướng dẫn mất nhiều công sức, có những sai sót chứng từ không thể nào sửa chữa được, dẫn đến chậm chễ trong thanh toán. Khách hàng vẫn có tâm lý ỷ lại vào Ngân hàng, cho rằng chỉ cần đến giao dịch tại Ngân hàng là xong tất cả, nếu có sai sót thì sửa chữa sau... tất cả những điều này đều có thể đem lại rủi ro cho khách hàng và từ đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng.
Thiếu thông tin để lựa chọn đối tác nước ngoài: Thực tế các doanh nghiệp nước ta mới bước đầu tham gia vào thi trường thế giới nên còn thiếu thông tin về thị trường về các đối tác nước ngoài dẫn đến ký kết các hợp đồng bất lợi, hoặc bị lừa đảo gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp và TCB. Trong kinh doanh ngoại thương sự thiện chí giữa bên mua và bên bán đóng vai trò quan trọng hàng đầu nhất là khi thực hiện thanh toán L/C.
Sự thiếu trung thực của một số khách hàng Việt Nam: Ngoài việc thiếu hiểu biết thông tin trong kinh doanh XNK, nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà bỏ qua việc giữ uy tín kinh doanh lâu dài, đạt được lợi ích dài hạn. Sau khi đã ký hợp đồng và yêu cầu mở L/C, khi giá cả giảm, các doanh nghiệp lại muốn Ngân hàng tìm mọi cách để trì hoãn thanh toán nhằm gây sức ép cho công ty nước ngoài để họ giảm giá, thậm chí có doanh nghiệp còn từ chối thanh toán và không chịu nhận hàng kể cả khi hàng hóa được giao đúng phẩm chất, đầy đủ về số lượng và bộ chứng từ xuất trình hoàn toàn phù hợp. Những trường hợp như vậy đặt TCB vào tình thế khó khăn, nếu không thanh toán thì sẽ vi phạm thông lệ quốc tế và làm mất uy tín của TCB và có thể bị Ngân hàng nước ngoài kiện. Nhưng nếu thanh toán thì lại phải dùng tiền của TCB và việc thu hồi vốn từ khách hàng lại rất khó khăn và nhiều trường hợp gây ra tranh chấp với khách hàng.
Không chỉ thiếu trung thực với đối tác nước ngoài, một số doanh nghiệp Việt Nam còn lợi dụng kẽ hở của pháp luật để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng. Họ yêu cầu Ngân hàng phát hành L/C trả chậm để nhập hàng, sau khi nhận được hàng thì bán lấy tiền sử dụng vào mục đích khác, đến hạn thanh toán Ngân hàng phải đứng ra trả thay.
Tóm lại:
Qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại TCB, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Trong thời gian qua, TCB đã có nhiều cố gắng để đẩy mạnh nghiệp vụ này trên địa bàn Hà Nội. Điều đó dễ nhận thấy được qua các bảng tổng kết thanh toán quốc tế qua các năm. Hoạt động này của TCB đã góp phần giúp các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh thuận lợi, đem lại lợi ích cho cả khách hàng và Ngân hàng cũng như đối với nền kinh tế. Một điểm đáng ghi nhận khác nữa là TCB đang ngày càng nâng cao tính an toàn trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nhờ vào công tác đánh giá khách hàng một cách nghiêm túc, thực hiện chặt chẽ trình tự nghiệp vụ và các quy định để đảm bảo an toàn như yêu cầu ký quỹ với tất cả các khách hàng hay thực hiện tài sản thế chấp... Tuy vậy, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ của TCB vẫn còn nhiều tồn tại cần phải được giải quyết không phải trong một sớm một chiều. Hoạt động này chưa phải là thế mạnh của Ngân hàng, do vậy, đóng góp của nó vào thu nhập của chung chưa cao. TCB mới chỉ phần nào đáp ứng được nhu cầu của những thành phần kinh tế với quy mô và cơ cấu nhỏ hẹp, trong đó tỷ lệ doanh nghiệp nhập khẩu chiếm phần nhiều. Mặc dù Nhà nước khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu song hoạt động này ở TCB tăng không đáng kể. Nguyên nhân chính của thực trạng này là do sự đơn điệu và kém phong phú trong danh mục các hình thức các loại L/C. Ngoài ra, chính sách khách hàng của TCB chưa thực sự có hiệu quả, chưa có sự đồng bộ và gắn kết giữa các chính sách như tín dụng, thanh toán quốc tế và Marketing nhằm tạo được sự hấp dẫn lớn với mục đích lôi kéo các đối tượng khách hàng có tiềm năng đem lại lợi ích hơn nữa cho Ngân hàng.
Chương 3
Những giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng hoạt động
thanh toán tín dụng chứng từ
tại nhtmcp kỹ thương
3.1 Định hướng phát triển của TCB trong những năm tới.
3.1.1 Các mục tiêu tổng quát.
Tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự có bằng 15%. Gía trị cổ phiếu bằng 150% đến 200% so với mệnh giá.
Vốn điều lệ: 320- 350 tỷ đồng.
Tổng tài sản có: 5400 tỷ đồng.
Dư nợ tín dụng: 3.565 tỷ đồng.
Tỷ lệ nợ quá hạn < 5% trên tổng dư nợ.
Thu nhập thuần từ dịch vụ tín dụng: 30% - 40% tổng thu nhập thuần hoạt động Ngân hàng.
Chất lượng dịch vụ: một trong số 5 Ngân hàng Cổ phần tốt nhất Việt Nam.
3.1.2 Với hoạt động đối ngoại:
Hoàn thiện các quy trình và chứng chỉ ISO 9000 - 2000 về quản lý tín dụng, tài trợ thương mại và thanh toán quốc tế .
Triển khai hệ thống Globus trên toàn hệ thống.
Phát triển, hoàn thiện và triển khai các dịch vụ Ngân hàng điện tử.
Tập trung ưu tiên phục vụ các khách hàng doanh nghiệp có sử dụng dịch vụ đa dạng tại TCB đa dạng tại TCB đặc biệt là các giao dịch thanh toán trong nước và quốc tế, các giao dịch nguồn vốn và ngoại tệ, các giao dịch đầu tư.
Phát triển hài hoà và bền vững các nghiệp vụ kinh doanh đối nội và đối ngoại
Tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ, thanh toán viên có trình độ nghiệp vụ vững vàng.
3.2. các giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại nhtmcp kỹ thương.
3.2.1 Hoàn thiện quy trình thủ tục thanh toán L/C.
TCB cần nhanh chóng hoàn thiện quy trình thủ tục thanh toán L/C, song để làm tốt được điều này thì TCB cần có một nhóm chuyên gia chuyên nghiên cứu về cả quy trình thủ tục nghiệp vụ của chính TCB và của các NHTM khác, đặc biệt là của các Ngân hàng nước ngoài. Việc nghiên cứu này nhằm phân tích những tồn tại và vướng mắc khi giải quyết những nghiệp vụ của TCB và những thuận lợi tương ứng trong quy trình nghiệp vụ của các Ngân hàng khác. Chỉ sau khi phân tích rõ được những vấn đề này thì mới đề ra được nhũng biện pháp hữu hiệu để giải quyết nó một cách triệt để. Trước mắt TCB cần đơn giản hoá dần mẫu mã của đơn xin mở L/C, phiếu kiểm tra chứng từ, giảm bớt các thủ tục phiền hà từ khâu nhận chứng từ đến khâu thanh toán, một thanh toán viên có thể thực hiện hết mọi khâu giao dịch với khách hàng; tăng cường quyền tự quyết cho từng bộ phận, từng thanh toán viên...
Bằng sự nhiệt tình trong thái độ giao tiếp, bằng việc giảm phí, giảm lãi suất, giảm ký quỹ, tăng cường thêm thời lượng giao dịch với khách hàng. Một quy trình thủ tục thanh toán nhanh chóng gọn nhẹ ngoài việc tăng giá trị thanh toán qua Ngân hàng còn giúp đẩy mạnh hơn nữa việc tin học hoá các nghiệp vụ.
3.2.2. Thực hiện chính sách khách hàng đạt hiệu quả.
Khách hàng chính là người quyết định sự tồn tại của bất kỳ một doanh nghiệp. Để có thể tiếp cận hơn với khách hàng TCB nên tiến hành các hội nghị khách hàng thường xuyên hơn, lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, trên cơ sở đó tiến hành phân loại theo nhóm khách hàng để từ đó có những giải pháp linh hoạt hơn với từng loại khách hàng. Cụ thể là:
Đối với khách hàng truyền thống, TCB cần tiến hành lập hồ sơ và tổ chức gặp gỡ khách hàng; đồng thời có biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng trong quan hệ vay vốn thanh toán như cho vay với lãi suất ưu đãi, cho vay theo hạn mức...
Đối với những khách hàng có khó khăn, TCB có thể thực hiện cho vay ngoại tệ mới để khắc phục khó khăn trong sản xuất kinh doanh; xem xét miễn giảm lãi suất tiền vay chưa thu...
Đối với khách hàng tiềm năng, TCB bố trí cán bộ tích cực tiếp cận, tìm hiểu nhu cầu khách hàng và có giải pháp phù hợp để thu hút và tạo điều kiện cho đối tượng này thiết lập quan hệ vay ngoại tệ thanh toán tại các chi nhánh.
Đối với khách hàng có quan hệ tiền gửi ngoại tệ, TCB nên thường xuyên có chính sách khuyến khích động viên phù hợp. Đối với khách hàng có số dư tiền gửi ngoại tệ lớn, thời hạn dài, Ngân hàng có quà tặng vào dịp lễ, tết... Đối với các trường hợp khác, khi có nhu cầu rút ngoại tệ trước hạn hoặc có nhu cấu vay ngoại tệ thì Ngân hàng nên đáp ứng một cách kịp thời, thủ tục thuận tiện với lãi suất hợp lý.
Để thực hiện chính sách khách hàng đạt hiệu quả, TCB thường xuyên quán triệt, nhắc nhở đội ngũ cán bộ, thanh toán viên phải tích cực học tập nâng cao nhận thức, năng lực công tác, tạo lập phong cách giao tiếp hiện đại lịch sự.
bTăng cường công tác tư vấn cho khách hàng.
- Nếu doanh nghiệp là người xuất khẩu:
Trước hết cần chú ý đến Ngân hàng phát hành, bởi Ngân hàng phát hành là người chịu trách nhiệm thanh toán. Nếu bộ chứng từ xuất trình đòi tiền Ngân hàng, mà Ngân hàng đó lại bị giải thể hay phá sản thì doanh nghiệp khó có thể thu được tiền; vì vậy, nên yêu cầu một Ngân hàng phát hành lớn, có uy tín (có thể tham khảo ý kiến của Ngân hàng phục vụ để doanh nghiệp lựa chọn Ngân hàng phát hành L/C). Doanh nghiệp có thể lựa chọn Ngân hàng phát hành là Ngân hàng nước ngoài có chi nhánh hoạt động tại Việt Nam, để có thể nắm bắt thông tin hoặc khi cần thiết, có thể có các biện pháp can thiệp; nếu cần thiết có thể yêu cầu một L/C do Ngân hàng Việt Nam xác nhận.
Các điều khoản và điều kiện của L/C phải rõ ràng, dễ hiểu, bộ chứng từ yêu cầu xuất trình đơn giản, dễ lập. Trường hợp nội dung L/C mập mờ không rõ nghĩa hoặc L/C có những điều khoản và điều kiện khó thực hiện, chứng từ yêu cầu xuất trình khó có khả năng đáp ứng thì cần phải liên hệ ngay với người mua để có yêu cầu tu chỉnh. Doanh nghiệp không nên chủ quan chấp nhận một L/C khó có khả năng lập được một bộ chứng từ hoàn hảo chỉ vì người mua là khách hàng có tín nhiệm, bởi trên thực tế thương trường, khách hàng nay có thể tốt, có tín nhiệm nhưng mai có thể hoàn toàn ngược lạ.
Các chứng từ liên quan đến việc nhận hàng của người mua nên đặt dưới sự kiểm soát của Ngân hàng, chẳng hạn như B/L nên lập theo lệnh của Ngân hàng phát hành, bởi vì nếu vận đơn được theo lệnh của Ngân hàng phát hành, người mua hàng cần phải được Ngân hàng phát hành ký hậu B/L hoặc bảo lãnh cho người mua đi nhận hàng thì Ngân hàng phát hành sẽ có trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng kể cả trong trường hợp bộ chứng từ có sai sót. Việc vận đơn được lập theo lệnh của Ngân hàng phát hành còn hạn chế được rủi ro trong trường hợp vận đơn bị mất hoặc bị thất lạc, bởi nếu vận đơn lập theo lệnh Ngân hàng thì cho dù bất chấp vận đơn đó rơi vào tay ai, cũng không thể nhận được hàng hoá nếu không qua Ngân hàng phát hành. Trường hợp vận đơn lập theo lệnh của người mua hoặc vận đơn lập theo lệnh ký hậu để trống thì nói chung khá rủi ro, đặc biệt nếu một phần bộ vận đơn được gửi trực tiếp đến người mua, bởi người mua có thể nhận hàng mà hoàn toàn không gắn trách nhiệm với Ngân hàng phát hành; trong trường hợp đó, nếu bộ chứng từ xuất trình có sai sót sẽ bị Ngân hàng phát hành từ chối thanh toán mặc dù người mua đã nhận hàng. Trong trường hợp nếu vận đơn phải lập theo lệnh bắt buộc của người mua hoặc lập theo lệnh ký hậu để trống thì cả bộ vận đơn phải được gửi về Ngân hàng phát hành.
- Doanh nghiệp là người nhập khẩu.
Ngân hàng tham mưu cho khách hàng trong việc mở và thanh toán L/C.
Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp về các điều khoản của hợp đồng. Ngân hàng có thể tư vấn về các điều kiện và điều khoản của L/C; giúp doanh nghiệp lập bộ chứng từ phù hợp với L/C hoặc kiểm tra sự phù hợp của bộ chứng từ cũng như giải quyết những tranh chấp phát sinh, nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Nội dung L/C phải chặt chẽ rõ ràng, các chứng từ xuất trình phải rất cụ thể. Để tránh tình trạng không trung thực của người bán, bộ chứng từ thanh toán phải có một số chứng từ do bên thứ ba lập, chẳng hạn giấy chứng nhận chất lượng, nên yêu cầu nhà sản xuất phát hành, chứng nhận xuất xứ nên yêu cầu phòng công nghiệp Việt Nam phát hành... nếu giao hàng bằng đường biển, đường hàng không, đường sắt thì cần phải xuất trình vận đơn; nếu giao hàng bằng đường bộ thì nên yêu cầu xuất trình biên bản bản giao nhận hàng giữa người mua và người bán.
Trong trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị, nếu phía nước ngoài yêu cầu phải đặt cọc thì giá trị đặt cọc chỉ nên ở mức 5% đến 10% giá trị hợp đồng. Chuyển tiền đặt cọc thì yêu cầu phải có bảo lãnh tiền đặt cọc, do một Ngân hàng có uy tín phát hành và cần phải được xác thực và thông báo qua một Ngân hàng tại Việt Nam (để tránh trường hợp thư bảo lãnh giả). Bảo lãnh phải cho phép đòi tiền vô điều kiện và có hiệu lực đến khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Đồng thời để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng cần yêu cầu có một bảo lãnh thực hiện hợp đồng với giá trị khoảng 10% đến 15% giá trị hợp đồng, bảo lãnh này phải cho phép đòi tiền vô điều kiện và có hiệu lực từ khi người mua phát hành L/C đến khi dây chuyền thiết bị đã được lắp đặt hoàn tất, đưa vào hoạt động và có biên bản nghiệm thu. Đối với L/C nhập các dây chuyền thiết bị, không nên tháo khoán cho người bán toàn bộ số tiền còn lại khi nhận được bộ chứng từ xuất trình theo L/C, mà nên giữ khoảng 10% giá trị hợp đồng cho đến khi có biên bản nghiệm thu và có bảo lãnh bảo hành.
3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức L/C.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và của Đất nước, với khả năng của mình, trong thời gian tới TCB tạm thời nên chú ý vào các nghiệp vụ sau:
* Mở L/C trong nước:
L/C trong nước được mở như nguyên tắc mở L/C giáp lưng (Back to back L/C). Việc hình thành loại L/C này tạo điều kiện thuận lợi để nhà sản xuất gián tiếp tiếp cận với xuất khẩu qua các đầu mối là các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp này sẽ thu mua hàng từ các doanh nghiệp sản xuất sau đó xuất ra nước ngoài. Như vậy, hiện nay số nhà xuất khẩu gián tiếp ở Việt Nam là rất lớn nhưng họ chưa được hưởng các nguồn tín dụng ưu đãi dành cho xuất khẩu. Bởi vậy việc đưa dịch vụ mở L/C trong nước, vốn không quá phức tạp là cấp bách nhằm đưa tín dụng nhiều hơn nữa tới các doanh nghiệp giúp họ khắc phục những khó khăn trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu
* Đẩy mạnh dịch vụ mở L/C, chiết khấu L/C.
Việc đẩy mạnh những hoạt động này sẽ giúp TCB có thêm nhiều khách hàng thanh toán L/C và thêm lợi nhuận từ việc thu phí. Để phát triển dịch vụ này, yêu cầu TCB phải thực hiện đồng bộ những biện pháp sau;
Nghiên cứu kỹ về khách hàng, về tính khả thi của dự án, về thị trường nước nhập khẩu, Ngân hàng của nhà nhập khẩu. Trong quá trình thực hiện, TCB nên tư vấn cho khách hàng về loại mở L/C, thời hạn hiệu lực, thời hạn thanh toán, địa điểm thanh toán, loại tiền dùng để thanh toán.
Để phát triển rộng rãi nghiệp vụ mở và chiết khấu L/C TCB nên quy định mức ký quỹ, mức phí phù hợp đối với mỗi khách hàng. Hiện nay, mức phí mở L/C của TCB < 0,1% tuy đã thấp hơn nhiều so với Ngân hàng khác (tối đa là 300 USD cho một L/C) nhưng vẫn nên hạ thấp hơn để thu hút thêm nhiều khách hàng có giao dịch vừa và lớn.
Việc chiết khấu thường chỉ được thực hiện khi khách hàng có trong tay bộ chứng từ hoàn hảo, tức là họ đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Như vậy, vô hình chung nó đã làm giảm đi tính hấp dẫn vì cách thức này không hỗ trợ kịp thời cho nhà sản xuất khi họ cần vốn để mua hàng hoá, nhưng nếu cho người xuất khẩu vay trước khi giao hàng thì lại sai nguyên tắc và nguy cơ rủi ro cũng cao hơn. Do vậy, TCB có thể kết hợp cả hai hình thức chiết khấu và ứng trước tiền hàng.
3.2.4. Coi trọng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện phân phối thu nhập theo kết quả lao động.
Có thể nói con người luôn giữ vai trò trọng tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Do vậy, số lượng và trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên là một trong những vấn đề quyết định đảm bảo cho bộ chứng từ được thanh toán suôn sẻ và nhanh chóng, đảm bảo phục vụ khách hàng một cách tốt nhất và tăng khả năng cạnh tranh. Nhận thức được điều đó, TCB luôn coi trọng chú ý công tác đào tạo nhân sự, tích cực bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ và cần tiếp tục:
Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ thanh toán viên hiện có, đào tạo về mọi mặt nhất là chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, trao đổi kiến thức về UCP 500 và các thông lệ liên quan khác...
Nhiệm vụ đào tạo được chú trọng từ khâu tuyển dụng - sử dụng đề bạt, nên hàng năm TCB cần lập quy hoạch cán bộ và quản lý cán bộ theo kế hoạch.
Cử người tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề về thanh toán quốc tế trong và ngoài nước để tiếp cận với kiến thức mới. Tổ chức cán bộ đi học ở nước ngoài đề tiếp thu học hỏi kiến thức của họ. Tổ chức các đợt đi thăm quan các Ngân hàng bạn cả trong và ngoài nước để tiếp thu học hỏi những điểm mạnh và rút kinh nghiệm những điểm yếu của họ.
Xây dựng môi trường làm việc tạo thuận lợi cho sự học hỏi công tác. Thực hiện thi đua lao động sáng tạo giữa các phòng ban. Thực hiện khuyến khích và động viên kịp thời về vật chất cũng như tinh thần một cách thoả đáng để cán bộ nhân viên phát huy tối đa khả năng sáng tạo.
Thực hiện phân phối thu nhập theo kết quả lao động: Đưa ra một quy chế cho điểm rõ ràng, định mức lao động được giao cụ thể, có sự ràng buộc chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác, cuối tháng mỗi người đối chiếu công việc của mình với quy chế cho điểm để tự đánh giá kết quả đồng thời Ngân hàng thực hiện bình xét phân phối kết quả cho từng người. Phân phối công bằng và hợp lý là động lực thúc đẩy mạnh mẽ mọi hoạt động của các thành viên.
3.2.5 Tiếp tục đầu tư mua sắm trang thiết bị, tài sản phục vụ hoạt động kinh doanh và hiện đại hoá công nghệ.
Các xu hướng thương mại quốc tế trong thời gian qua cho thấy, những sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ kỹ thuật cao ngày càng thắng thế, nhất là trong trao đổi thương mại giữa các nước phát triển. Với cơ sở trang thiết bị hiện có TCB cần tiếp tục:
Tập trung đầu tư các cơ sở hạ tầng cơ bản chuẩn bị bước phát triển mở rộng những năm tiếp theo. Đầu tư hạ tầng công nghệ với hệ thống tin học viễn thông hiện đại, đầu tư hệ thống trang thiết bị đồng bộ đảm bảo yêu cầu cầu làm việc cung ứng dịch vụ phục vụ khách hàng. Khai thác triệt để việc chuyển tiền và thanh toán qua mạng SWIFT, phấn đấu đẩy nhanh hơn nữa, đảm bảo giao dịch nhanh chóng chính xác an toàn và hiệu quả. Thường xuyên cập nhật kỹ thuật hiện đại về SWIFT. Triển khai chương trình phần mềm Globus dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc đã tích cực phối hợp với Công ty Temenus để thực hiện kế hoạch này. Để thực hiện thành công chương trình phần mềm Globus. TCB và Công ty Temenos cùng khảo sát và phân tích yêu cầu của nghiệp vụ trong các hoạt động của TCB. Điều chỉnh chương trình Globus phù hợp với yêu cầu nghiệp vụ của TCB. Trên cơ sở đó xúc tiến chạy thử và kiểm tra sản phẩm cũng như phối hợp với phía Temenos để chỉnh sửa yếu tố chưa phù hợp.
3.2.6 Tiếp tục mở rộng mạng lưới chi nhánh.
Chúng ta phải công nhận rằng, với Ngân hàng mạng lưới rộng là cần thiết bởi lẽ, mạng lưới rộng tạo điều kiện mở rộng thị trường và cung ứng dịch vụ, tiếp cận khách hàng. Ngoài ra, mạng lưới rộng cho các Ngân hàng khả năng tốt trong việc ứng cứu hệ thống khi thị trường biến động...
Hiện nay TCB có tất cả là 9 chi nhánh và 4 phòng giao dịch, chủ yếu tập trung ở những khu dân cư. Như vậy, quy mô của TCB còn nhỏ bé và chưa vươn xa được ra những địa bàn có điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp như: khu chế xuất, khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Việc mở rộng quy mô còn giúp Ngân hàng thu hút khách hàng và huy động thêm được nguồn vốn, phục vụ cho những khách hàng thiếu vốn.
3.2.7 Trao quyền tự chủ cho các chi nhánh.
Hiện nay, tại TCB hoạt động thanh toán quốc tế còn tập trung chủ yếu tại Hội sở. Điều này phần nào làm giảm thị phần của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng của TCB. Khiến cho các doanh nghiệp muốn có quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu với Ngân hàng tại các chi nhánh sẽ khó khăn khi tiếp cận với dịch vụ này của Ngân hàng. Vì họ không thể đến tận Hội sở để giao dịch trực tiếp khi có nhu cầu. Khi đó Ngân hàng sẽ mất khách hàng, vì họ sẽ đến giao dịch với Ngân hàng khác gần địa bàn của họ. Do đó TCB cần dần trao quyển tự chủ cho các chi nhánh trong hoạt động thanh toán quốc tế. Điều đó vừa giúp cho các chi nhánh nâng cao trình độ cho thanh toán viên vừa giúp thu hút khách hàng và quảng bá hình ảnh của Ngân hàng.
3.2.8 Tăng cường thêm nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của Ngân hàng.
Tăng trưởng nguồn vốn huy động nói chung, nguồn vốn ngoại tệ nói riêng là mục tiêu hàng đầu trong mọi chiến lược phát triển của các Ngân hàng. Nguồn vốn lớn và vững chắc là nền tảng để Ngân hàng phát triển hơn nữa các loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng, xét cả về số lượng cũng như chất lượng, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng vốn, TCB cần hoàn thiện các hình thức huy động vốn truyền thống như tiết kiệm, tiền gửi. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên mở rộng các hình thức khác như: phát hành trái phiếu dài hạn, vốn uỷ thác...
Để thu hút có hiệu quả, điều cần thiết là TCB phải có chính sách lãi suất hợp lý bởi lãi suất thường là mối quan tâm đầu tiên khi khách hàng đến gửi tiền. Đưa ra mức lãi suất tiền gửi hấp dẫn, linh hoạt trong từng thời kỳ không phải là vấn đề đơn giản bởi vì Ngân hàng vừa phải đảm bảo khối lượng vốn huy động, vừa phải giữ cho chi phí huy động không quá cao và không ảnh hưởng tới lợi nhuận kinh doanh. Muốn vậy Ngân hàng phải căn cứ vào vốn của nền kinh tế trong từng thời kỳ để đưa ra mức lãi suất huy động phù hợp, tránh tình trạng ứ đọng vốn, đồng thời phải luôn theo dõi tình hình lãi suất các Ngân hàng khác để điều chỉnh lãi suất cạnh tranh với mặt bằng lãi suất trên thị trường. Ngoài ra, TCB cần tiếp tục phát huy những sáng kiến trong công tác huy động như việc đưa ra các sản phẩm tiết kiệm trong những năm gần đây: tiết kiệm phát lộc...
3.2.9 Tăng cường hoạt động Marketing.
Thành lập một bộ phận Marketing thường xuyên tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tiếp xúc với khách hàng. TCB cũng nên tổ chức hội nghị khách hàng thường xuyên hơn để cùng trao đổi, rút kinh nghiệm, cùng tìm hiểu về UCP 500, tìm hiểu về thị trường... Các hội nghị này không những giúp khách hàng trong công tác thanh toán quốc tế mà còn là cơ hội khuếch trương quảng cáo cho các sản phẩm mới của TCB. Khi đó, sẽ thu hút các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc có nhu cầu mua bán ngoại tệ đến giao dịch và thanh toán tại TCB .
3.2.10. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát.
Thực hiện giám sát thường xuyên với hoạt động thanh toán quốc tế và đặc biệt là thanh toán tín dụng chứng từ. Lựa chọn các cán bộ tham gia kiểm tra, kiểm soát là những người công tâm, thiết tha với sự nghiệp phát triển của TCB để kiểm tra kiểm soát hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao. Phát hiện uốn nắn kịp thời để nâng cao nhận thức cho thanh toán viên. Giải quyết dứt điểm nghiêm khắc các vụ việc vi phạm tuỳ theo mức độ, hoàn cảnh để duy trì một tập thể trong sạch. Hợp tác và nâng cao tinh thần cảnh giác với âm mưu chống phá từ bên ngoài như các vụ lừa đảo, và từ bên trong như tham nhũng lãng phí.
3.3 một số kiến nghị.
3.3.1 Kiến nghị với khách hàng.
o Nâng cao trình độ với cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu.
Các doanh nghiệp cần chú trọng hơn trong việc đào tạo cán bộ xuất nhập khẩu và bản thân các nhà xuất nhập khẩu cần có ý thức tự học hỏi trau dồi nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Có thể nói, kiến thức về xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế là mảng kiến thức khá tổng hợp, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau, không chỉ đơn thuần là các quy trình thanh toán mà còn có những yếu tố về thị trường, giá cả yếu tố về quản lý, sự nhạy bén trong kinh doanh... Một khi hiểu rõ vai trò của công việc đào tạo cán bộ thì những trở ngại khó khăn trong lúc thực hiện chỉ là nhân tố thứ yếu. Nếu kinh phí thời gian công sức bỏ ra cho ngày hôm nay không phải là ít nhưng kết quả thu được lại là con số lớn hơn gấp nhiều lần thì việc đầu tư này là vô cùng cần thiết và có lợi. Nó không chỉ đảm bảo cho việc kinh doanh của bản thân khách hàng suôn sẻ, tránh được những rủi ro, tạo lập uy tín đối với bạn hàng quốc tế mà nó sẽ góp phần to lớn trong việc hỗ trợ công tác thanh toán quốc tế tại Ngân hàng có hiệu quả.
o Lựa chọn đối tác.
Đây là việc làm đầu tiên và hết sức quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu lựa chọn được đối tác làm ăn trung thực, có thiện chí thì các vướng mắc phát sinh trong qúa trình kinh doanh xuất nhập khẩu có dễ dàng giải quyết thông qua thương lượng. Để hạn chế rủi ro, nên chọn khách hàng truyền thống, khách hàng ở những nước có ít rủi ro, khách hàng có chi nhánh hoặc văn phòng giao dịch tại Việt Nam, hạn chế việc mua bán qua trung gian. Đối với khách hàng mới giao dịch lần đầu, trước khi ký kết hợp đồng cần tìm hiểu thông tin về lịch sử, về năng lực và tình hình tài chính của khách hàng... Việc tìm hiểu thông tin có thể qua thương vụ của Việt Nam ở nước đó, có thể thông qua hệ thống Ngân hàng và khi cần thiết có thể mua thông tin từ cơ quan cung cấp thông tin độc lập. Ngay cả khi khách hàng quen biết cũng nên quan tâm đến diễn biến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của họ.
o Chọn Ngân hàng phục vụ.
Các chuyên gia Ngân hàng giỏi về lĩnh vực thanh toán quốc tế có thể tư vấn giúp doanh nghiệp rất nhiều trong hoạt động kinh doanh xuất L/C hoặc kiểm tra sự phù hợp của bộ chứng từ cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh, nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạn chế các rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, nên lựa chọn Ngân hàng phục vụ có uy tín và nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán quốc tế.
o Giành quyền thuê tàu và mua bảo hiểm.
Việc giành quyền thuê tàu giúp doanh nghiệp biết được lai lịch của tàu và chủ tàu; vì vậy, tránh được những trường hợp lừa đảo của đối tác như không giao hàng nhưng vẫn lập bộ chứng từ đòi tiền, hoặc trường hợp đối tác thuê tàu không đảm bảo an toàn trong quá trình vận chuyển hàng hoá. Giành quyền mua bảo hiểm giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn được hãng bảo hiểm có uy tín, đồng thời rất thuận tiện trong việc đòi bồi hoàn khi xảy ra tổn thất và có thể tiết kiệm được chi phí.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
Như chúng ta đã biết, Nhà nước có vai trò điều tiết nền kinh tế, các chính sách kinh tế của Nhà nước tác động trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu do đó tác động mạnh đến hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng. Việc đề ra một chính sách kinh tế phù hợp cho hoạt động xuất nhập khẩu là điều cần thiết đảm bảo cho công tác thanh toán L/C của NHTM nói chung và của TCB đạt hiệu quả cao. Do đó công tác thanh toán L/C được hoàn chỉnh nhanh chóng, chính xác, Nhà nước cần:
p Đẩy mạnh chính sách sử dụng và quản lý ngoại tệ phục vụ xuất nhập khẩu:
Kêu gọi vốn nước ngoài, nhất là vốn trung và dài hạn dưới mọi hình thức, vay vốn từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ, các cá nhân nước ngoài, khai thác triệt để mọi khoản tài trợ của các tổ chức nước ngoài nhằm đổi mới công nghệ Ngân hàng và đào tạo cán bộ.
Tổ chức triển khai các dự án có chất lượng, theo đúng hiệp định đã ký kết với nước ngoài, với các tổ chức quốc tế lớn như WB, ADB...
Các nhà doanh nghiệp thực hiện thành công hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình, thì các yếu tố như chất lượng hàng hoá, uy tín của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng nước ngoài thì một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là vấn đề tài chính phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Sử dụng nguồn ngoại tệ vay luân chuyển Ngân hàng nước ngoài hoặc hạn mức mở L/C. Đề nghị Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cho sử dụng nguồn vốn ưu đãi từ quỹ đầu tư xuất khẩu.
p Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thanh toán quốc tế có vai trò đặc biệt trong hệ thống cán cân thanh toán của cả nước. Tình trạng của nó ảnh hưởng quyết định đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái đến tình trạng ngoại hối của các nước và toàn bộ nền kinh tế của các nước. Tình trạng cán cân thanh toán liên quan đến quan hệ cung cầu, tỷ giá hối đoái... Vì vậy, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng. ở nước ta hiện nay, hướng cải thiện cán cân thanh toán quốc tế là:
- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hạn chế nhập khẩu.
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài.
p Hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên Ngân hàng.
Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng là thị trường trao đổi, cung cấp ngoại tệ nhằm giải quyết các mối quan hệ về ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại với nhau. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng là một trong những điều kiện quan trọng để các Ngân hàng thượng mại mở rộng dịch vụ kinh doanh ngoại tệ giữa khách hàng với Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. Thông qua thị trường này, Ngân hàng Trung Ương có thể điều hành tỷ giá cuối cùng. Tiếp tục đổi mới chính sách tiền tệ bằng cách xây dựng cơ chế lãi suất hợp lý, thu hẹp biên độ giữa lãi suất tín dụng ngoại tệ và nội tệ... Đổi mới chính sách tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại hối.
3.3.3 Kiến nghị với Chính phủ và các ngành có liên quan trong việc hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp lý.
Hiện nay, một hệ thống văn bản pháp lý nhằm hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ mang tính chất thống nhất cho toàn hệ thống NHTM ở Việt Nam còn thiếu thậm chí chưa có. Việc thiếu văn bản pháp lý mang tính chất quốc gia hoặc văn bản không cụ thể, không rõ ràng đã là một trong nhiều nguyên nhân gây nên những vụ tranh chấp kiện tụng kéo dài nhiều năm, còn các toà án lại gặp phải khó khăn khi xét xử hoặc phán xét thiếu chính xác thiếu cơ sở pháp lý.
Thanh toán XNK bằng phương thức tín dụng chứng từ được các Ngân hàng trên thế giới thực hiện trên cơ sở áp dụng UCP 500. Nhưng UCP chỉ là một thông lệ, tập quán (Custom), chứ không phải là một luật (Law), hay công ước quốc tế (Convertion), UCP không có giá trị pháp lý bắt buộc mà chỉ mang tính chất hướng dẫn sử dụng với các bên.
Hiện nay, lừa đảo là một vấn đề ngày càng gia tăng trong giao dịch tín dụng chứng từ ở các nước cũng như ở Việt Nam. Do vậy:
Thứ nhất: Để tạo lập hành lang pháp lý cho các giao dịch tín dụng chứng từ giữa Ngân hàng phát hành và khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng, người NK) cần phải quy định giá trị pháp lý của các loại giấy tờ như: giấy yêu cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký nhận vận đơn, thông báo thư tín dụng đơn xin chiết khấu thư tín dụng... Về bản chất, các loại giấy tờ này là một loại hợp đồng dịch vụ giữa Ngân hàng và khách hàng, nhưng hiện nay chúng đơn giản chỉ là chứng từ giao dịch của Ngân hàng không thể hiện tính ràng buộc giữa các bên nên đã gây nhiều khó khăn cho tòa án khi xét xử tranh chấp. Hơn nữa các chứng từ này lại nằm ngoài sự điều chỉnh của UCP 500.
Thứ hai: Cần phải quy định rõ về thủ tục giải quyết tranh chấp về thư tín dụng. Chúng sẽ được giải quyết theo thủ tục nào, luật nào: kinh tế hay dân sự? Các cơ quan giải thích pháp luật cần xác định rõ thư tín dụng có phải là hợp đồng kinh tế theo luật Việt Nam hay không và xác định rõ thủ tục giải quyết thư tín dụng: Nếu không làm rõ vấn đề này, sẽ gây bế tắc trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ thư tín dụng và làm cho các doanh nghiệp nước ngoài mất tin tưởng vào môi trường pháp lý của Việt Nam, không có lợi trong việc phát triển quan hệ thương mại với nước ngoài.
Thứ ba: Hiện tại do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quy định pháp luật về trọng tài nước ta còn chưa hoàn thiện. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là Nhà nước cần ban hành một luật trọng tài quy định đầy đủ các vấn đề như phạm vi trọng tài, hiệu lực của thoả thuận trọng tài và các điều khoản của trọng tài, thủ tục chỉ định và thay thế trọng tài, lựa chọn nơi trọng tài, lựa chọn luật trong tài và việc thi hành các quyết định của trọng tài...
Nếu các vấn đề này không được quy địng rõ thì việc giải quyết các tranh chấp về tín dụng chứng từ bằng con đường trọng tài sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Việc vận dụng UCP 500 của các trọng tài viên khi giải quyết các tranh chấp cũng không đạt được mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên tham gia nếu giá trị pháp lý của các phán quyết trọng tài không được quy định rõ ràng.
Kết luận
Với chính sách mở cửa, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng ngày càng trở nên sôi động mang lại nhiều lợi ích và cơ hội cho các doanh nghiệp - những người trực tiếp tham gia và các đơn vị liên quan, trong đó có các Ngân hàng. Tuy vậy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu có tính rủi ro cao. Thực tế đã không ít doanh nghiệp phải gánh chịu hậu quả nặng nề do không chú ý đến việc phòng ngừa các rủi ro. Nhưng rủi ro lớn nhất và có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp là rủi ro thanh toán. Nhiều doanh nghiệp đã xuất hàng đi rồi mà không thu được tiền. Nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà các doanh nghiệp Việt Nam mới ra nhập thị trường thế giới không lâu, việc hiểu đối tác nước ngoài chưa nhiều, và những hàng rào phi thuế quan luôn được các nước nghĩ ra nhiều hơn để hạn chế nhập khẩu hàng hoá của nước khác, để bảo vệ nền sản xuất trong nước họ. Khi đó một phương thức thanh toán an toàn, là tiêu chí đầu tiên được các doanh nghiệp lựa chọn. Hiện nay, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đang là sự lựa chọn số một của các doanh nghiệp. Bởi những ưu điểm nổi trội của nó. Nhận thức được điều đó, TCB đã và đang tích cực đẩy mạnh các biện pháp để tăng nhanh doanh số của phương thức thanh toán này. Với sự cố gắng của toàn thể Ban lãnh đạo, nhất là của đội ngũ cán bộ nhân viên phòng thanh toán quốc, TCB đã ngày càng thu được những kết quả khả quan. Tuy vậy, bên cạnh đó, vẫn còn những khó khăn mà yêu cầu trong thời gian tới phải được TCB khắc phục, để phương thức thanh toán này trở thành phương thức thanh toán được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Sau một thời gian tìm hiểu về lý luận cũng như những thực tế tại TCB, với khả năng, và thời gian còn hạn chế, em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại TCB. Em hy vọng, những giải pháp đó có thể là những gợi ý nho nhỏ để phương thức thanh toán này có thể đem lại những lợi ích lớn hơn với TCB và với các chủ thể tham gia vào phương thức thanh toán này tại TCB. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, Ban lãnh đạo và các anh chị phòng thanh toán quốc tế của TCB cùng tất cả những ai đã động viên, ủng hộ em để em có thể hoàn thành tốt khoá luận của mình.
danh mục tài liệu tham khảo.
Báo cáo thường niên của TCB các năm 2000 – 2002.
Báo cáo thanh toán quốc tế của TCB các năm 2000 - 2002.
Tờ tin nội bộ – TCB hàng quý.
Quy trình phương thức thanh toán tín dụng chứng từ của TCB.
Tạp chí Ngân hàng.
Nguyễn Ninh Kiều - MBA - Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Giáo trình Tiền Tệ - Ngân hàng.
PTS. Đỗ Linh Hiệp – PTS. Ngô Hướng - Học Viện Ngân hàng - Phân Viện TP. Hồ Chí Minh - Giáo trình – Thanh Toán Quốc Tế - Tài Trợ Ngoại Thương & Kinh Doanh Ngoại Hối.
Giáo trình Hướng Dẫn Cách Sử Dụng Thư Tín Dụng Trong Ngoại Thương- Trường Đại Học Ngoại Thương. Xuất bản năm 1990.
những cụm từ viết tắt
XK : Xuất khẩu.
NK : Nhập khẩu.
L/C : Thư tín dụng (Letter of Credit).
B/L : Chứng từ vận tải (Bill of Lading).
XNK : Xuất nhập khẩu.
TCB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam.
HĐTM : Hợp đồng thương mại.
SWIFT : Tổ chức viễn thông tài chính quốc tế toàn cầu.
UCP 500 : Bản điều lệ và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ, ấn phẩm số 500.
TTQT : Thanh toán quốc tế.
VCB : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
ICB : Ngân hàng Công thương Việt Nam.
NHTMQD: Ngân hàng Thương mại Quốc doanh.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế tại đơn vị thực tập.
Tác giả ký tên.
mục lục
lời nói đầu 1
CHƯƠNG 1: Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM. 3
1.1: Ngân hàng thương mại và hoạt động thanh toán quốc tế. 3
1.1.1: Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ chủ yếu của nó. 3
1.1.2: Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại 5
1.2 Nội dung thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM 9
1.2.1: Khái niệm và đặc điểm của phương thức thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM 9
1.2.2 Phương tiện được sử dụng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 13
1.2.3: Văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 18
1.2.4: Quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. 23
1.2.5: Những nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM. 25
CHƯƠNG 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 31
2.1: Khái quát về hoạt động kinh doanh của NHTMCP Kỹ Thương trong thời gian qua 31
2.1.1: Sự hình thành và phát triển của NHTMCP Kỹ Thương 31
2.1.2: Tình hình hoạt động kinh doanh của NHTMCP Kỹ Thương trong thời gian qua. 33
2.2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 37
2.2.1: Quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương. 37
2.3: Đánh giá tình hình hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTMCP Kỹ Thương 47
2.3.1: Những kết quả đạt được 47
2.3.2: Những tồn tại và nguyên nhân 48
CHƯƠNG 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 52
3.1: Định hướng phát triển của NHTMCP Kỹ Thương đến năm 2005 52
3.2: Các giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 57
3.3: Một số kiến nghị 61
Kết luận 66
Danh mục tài liệu tham khảo
Nhận xét của cơ quan thực tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0024.doc