LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, vấn đề lớn nhất đặt lên hàng
đầu đó là vấn đề cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán chính là giải
pháp cho vấn đề này bởi tính ưu việt của nó có thể cung cấp nguồn tài chính cho tăng
trưởng kinh tế một cách có hiệu quả hay nói cách khác thị trường chứng khoán là tiền
đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức.
Việc thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam là một đòi hỏi tất yếu
khách quan của lịch sử, là một yêu cầu trước xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới và cũng là ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân. Trong thời gian qua, thị
trường chứng khoán Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, được xem là thị trường
chứng khoán hấp dẫn nhất năm 2006. Nhưng sự phát triển đó vẫn tiềm ẩn rất nhiều
rủi ro. Yếu tố “bong bóng” trên thị trường được thể hiện rất rõ. Một điều không cần
phải tranh luận là mục đích cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận. Tất cả các nhà đầu
tư đều mong muốn các khoản vốn của mình sinh lợi cao nhất với độ rủi ro thấp nhất,
đây là 2 yếu tố chi phối mọi hoạt động của họ. Vậy làm thế nào hạn chế đến mức
thấp nhất những rủi ro do thị trường chứng khoán mang lại để thỏa mãn kỳ vọng của
nhà đầu tư một cách tốt nhất, đồng thời thu hút các nhà đầu tư đến với thị trường
chứng khoán Việt Nam ngày một sôi động hơn. Chính vì thế, việc đưa ra các giải
pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam có ý nghĩa thiết thực
và cấp thiết.
2. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
Luận văn đưa ra một số đóng góp chính như sau:
- Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán,
các loại rủi ro có khả năng xảy ra khi thực hiện đầu tư trên thị trường chứng khoán.
- Điểm qua tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam sau 7 nam xây dựng và
phát triển. Đánh giá tình hình hoạt động tại sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM, Hà
Nội và các rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ đó, rút ra bài học kinh
nghiệm trong đầu tư chứng khoán.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả
đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhận diện và phân tích các yếu tố rủi ro tác
động đến nhà đầu tư nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị giảm thiểu đến mức thấp
nhất những rủi ro cho các nhà đầu tư cũng như góp phần nâng cao hiệu quả trong đầu
tư chứng khoán.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các yếu tố rủi ro trong đầu tư cổ phiếu mà nhà đầu tư tổ chức và cá nhân gặp
phải khi tham gia vào thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam. Như vậy, luận
văn không đến đề cập đến những rủi ro trong giao dịch cổ phiếu trên thị trường phi
tập trung (OTC).
Thời gian nghiên cứu: Phân tích và đánh giá mức độ rủi ro trên thị trường chứng
khoán Việt Nam giai đoạn từ tháng 7/2000 đến tháng 7/2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, thống kê mô tả đóng vai trò chủ đạo
trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
¾ Phần mở đầu
¾ Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam
¾ Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong
thời gian qua
¾ Chương 3: Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán
Việt Nam
¾ Kết luận
91 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự như quá trình CPH. Đó là phải phân bổ chỉ tiêu số DN sẽ niêm yết tới
các ban ngành, thành phố như chỉ tiêu CPH. Thực tế, đối với các cổ đông thuần tuý,
việc niêm yết chỉ đem lại thuận lợi cho họ, như nâng cao tính thanh khoản, gia tăng
thu nhập qua việc miễn thuế, nâng cao tính minh bạch của thông tin… Do đó, nếu
người đứng đầu DN tạo điều kiện, việc niêm yết chắc chắn không bị cản trở từ phía
cổ đông.
Từ đầu năm 2007 đến nay có 2 DN niêm yết tại sàn Hà Nội (Chợ Lớn, PVI)
và 4 DN niêm yết tại sàn TP.HCM (Hoàng gia, VNECO, Cao Su Tây Ninh, Gỗ
Thuận An) là tất cả số DN mới nhập sàn niêm yết. Tuy nhiên, trong điều kiện thị
trường đang đi xuống như hiện nay, lượng NĐT mới gia nhập thị trường không
nhiều, dòng vốn nước ngoài đổ vốn vào TTCK có phần chững lại, nhiều DN có ý
định lên sàn đã xem xét lại kế hoạch niêm yết. Tâm lý hứng khởi của DN khi TTCK
bùng nổ hồi cuối năm 2006 và đầu năm 2007 đã chuyển thành tâm lý chờ đợi và thận
trọng với sàn giao dịch. Bên cạnh đó, việc xem xét các phương án phát hành của DN
xin niêm yết tại UBCKNN theo phản ánh từ thị trường là rất chậm chạp và không có
thời hạn rõ ràng khiến cho các DN phải chịu một áp lực lớn vì sự chờ đợi. Vẫn biết
UBCKNN, nhất là đơn vị phụ trách phát hành đang quá tải do thực hiện thêm một
mảng công việc lớn là xem xét hồ sơ của hàng trăm công ty đại chúng nhưng việc
dành nỗ lực “mở” nguồn cung cho TTCK chính thức là rất cần thiết để tạo sự tươi
mới cho thị trường, tăng tính hấp dẫn đối với NĐT. Do đó, về mặt lâu dài, UBCKNN
nên phân cấp việc xem xét hồ sơ phát hành của DN niêm yết, DN đại chúng cho Sở
và Trung tâm để tập trung vào nhiệm vụ chính là quản lý Nhà nước về CK và TTCK
như qui định tại Quyết định 63/2007/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó,
Chính phủ cần hỗ trợ và tạo điều kiện các DN CPH đưa CP lên niêm yết như: hỗ trợ
về thuế, hỗ trợ nâng cấp hệ thống quản trị DN, sản phẩm,… đồng thời giúp bản thân
DN thấy được lợi ích khi tham gia niêm yết trên TTCK như: giúp DN tiếp cận với
một kênh huy động vốn mới có hiệu quả hơn từ đó tăng thêm khả năng có được
nguồn vốn dài hạn để đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, quảng bá hình ảnh và
thương hiệu đến công chúng đầu tư,…
Nhìn chung, các công ty niêm yết hiện nay trên TTCK chưa phải là những
công ty hàng đầu và ngành nghề của những công ty này chưa bao quát hết toàn bộ
nền kinh tế, do đó nên tăng cường niêm yết CP của các công ty lớn với những ngành
nghề đa dạng và những công ty độc quyền của Nhà nước từ trước đến nay như: bưu
chính viễn thông, dầu khí, hàng không, điện lực… để vừa góp phần tạo sức bật cho
thị trường cũng như thu hút nhiều hơn nữa các NĐT trong và ngoài nước, vừa góp
phần xây dựng TTCK trở thành một “hàn thử biểu” của nền kinh tế. Triển vọng của
TTCK Việt Nam sắp đến sẽ trở nên sôi động hơn bởi sự tham gia của nhiều DN lớn,
làm ăn có hiệu quả và có uy tín như: Vietcombank, BIDV, Incombank, MHB,
Mobifone, Vinafone,… Việc CP của những ngành làm ăn có hiệu quả và mang lại lợi
nhuận cao được tham gia niêm yết và giao dịch trên TTCK tập trung là sự chờ đợi và
kỳ vọng của nhiều NĐT.
Hiện nay, trong lĩnh vực ngân hàng chỉ có Ngân hàng Sacombank và ACB
tham gia niêm yết trên TTCK. Cổ phiếu ngành ngân hàng được giới đầu tư đánh giá
rất cao bởi quy mô của hệ thống NHTMCP không ngừng gia tăng, trở thành huyết
mạch cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, các NHTMCP
hoạt động ổn định, tăng trưởng tốt, hiện đại hóa công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm
kinh doanh thích nghi với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Việc CPH các
NHTM quốc doanh sẽ làm gia tăng đáng kể số lượng CP trên thị trường, cung ứng
hàng hóa có chất lượng cao và dễ dàng chuyển nhượng CP sẽ hấp dẫn các NĐT.
Đồng thời, sẽ có tác động kích thích các NHTM cổ phần nhanh chóng niêm yết CP
của mình trên thị trường, cho phép các DN và các NĐT có thể dễ dàng chủ động khai
thác vốn trên thị trường theo yêu cầu riêng của mình. Để có thể niêm yết CP trên thị
trường, các NHTM phải tự hoàn thiện mình, đổi mới kỹ thuật quản trị NH, nâng cao
công nghệ thanh toán, lành mạnh tình hình tài chính để đảm bảo những quy định
nghiêm ngặt khi niêm yết CK. TTCK sẽ trở thành tấm gương phản ánh và đo lường
mọi diễn biến sức khỏe của các NHTM, là nơi “phán xét” CP của NHTM, cũng như
quyết định đến sự thành công của NHTM trong kinh doanh. Tuy nhiên nếu hoạt động
của NHTM không lành mạnh và thiếu minh bạch có thể là nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng tài chính trên thị trường.
Đối với các CTCP mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, hoạt động có
hiệu quả cao và có triển vọng phát triển cần tạo điều kiện khuyến khích tối ưu về cơ
chế để họ dễ dàng niêm yết. Cần thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu
về thị trường, về lợi ích của việc niêm yết đến các CTCP. Việc phổ cập hóa kiến thức
CK không chỉ diễn ra với đối tượng là các NĐT, mà giám đốc, chủ tịch HĐQT các
CTCP cũng là những đối tượng cần được xóa mù CK ở Việt Nam.
Thị trường CP phát triển đến đâu thì Chính phủ cũng nên quan tâm đến sự
phát triển của thị trường TP. Điều này đáp ứng phần lớn nhu cầu của các NĐT muốn
tham gia thị trường nhưng ngại rủi ro, xem mức độ an toàn của CK là yếu tố quyết
định sự lựa chọn của chính mình. Do đó, cần cải tiến phương pháp phát hành TP
Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương pháp đấu thầu, đa dạng hóa các kỳ
hạn của TP Chính phủ, triển khai phát hành TP Quỹ hỗ trợ phát triển, TP địa phương,
TP công trình, đô thị lên niêm yết và giao dịch trên TTCK.
Tăng cung có chất lượng chính là kích cầu. Nếu quan niệm một cách hết sức
thực tế, mục tiêu của NĐT trên TTCK là để kiếm tiền thì chúng ta có thể lôi cuốn các
NĐT bằng cách giúp họ kiếm tiền. Điều này gần như là bất khả kháng trong các
TTCK đã phát triển. Tuy nhiên, với đặc trưng TTCK Việt Nam còn trong thời kỳ sơ
khai, cần thận trọng phát triển TTCK bằng những DN có chất lượng trước, những
DN có khả năng tăng trưởng lợi nhuận hàng năm thì giá CP đương nhiên sẽ tăng qua
từng năm, tăng một cách có cơ sở và thực chất. Không cách gì hấp dẫn các NĐT đến
với TTCK một cách hữu hiệu hơn là hạn chế được một phần rủi ro và gia tăng cơ hội
tìm kiếm lợi nhuận cho họ. Cần giúp NĐT kiếm tiền trước khi thuyết phục họ đổ
những lượng tiền lớn hơn vào thị trường. Muốn hình thành một tầng lớp NĐT chuyên
nghiệp trong mười năm nữa chúng ta phải có một lượng NĐT tham dự thị trường
ngày hôm nay.
Tóm lại, việc tăng hàng hóa có chất lượng cao là rất cần thiết cho TTCK. Tuy
nhiên, việc tăng này cần diễn ra một cách thận trọng, từng bước. Bản chất thị trường
là nơi gặp gỡ cung - cầu. Giá cả hàng hoá do quan hệ cung - cầu quyết định, việc vội
vã tăng cung trong khi không có một lượng cầu tương ứng có thể làm TTCK sụp đổ
hoặc trầm lắng kéo dài. Ngoài ra, ngay cả khi đã có một lượng cầu tương ứng, thì
lượng cầu này cũng chỉ tập trung vào những CP tốt. Việc nhiều CP đã đăng ký niêm
yết 3, 4 năm nay mà vẫn chỉ có lượng giao dịch nhỏ bé, không hề được quan tâm, có
mặt trên TTCK chỉ để… tượng trưng là bài học cần rút kinh nghiệm. Chính những
DN yếu kém này đã và đang làm xấu đi hình ảnh TTCK Việt Nam. Như vậy, khái
niệm tăng cung cần được hiểu là tăng cung có chất lượng. Những DN được xem xét
niêm yết phải là những DN tốt nhất có thể. Những DN đủ điều kiện niêm yết, nhưng
có chất lượng kém hơn sẽ được xem xét đưa lên niêm yết sau. Việc vội vã phát triển
TTCK quá nhanh không chọn lọc có thể làm “ô nhiễm” TTCK ngay từ đầu, trong khi
với tiềm năng của nền kinh tế hiện tại, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra một thị
trường với những DN rất tốt làm nền tảng.
3.4.2. Triển khai và áp dụng các công cụ tài chính phái sinh
Sự biến động theo chiều hướng tiêu cực của TTCK trong thời gian qua đã gây
ra tâm lý bất an cho các NĐT. Vậy đâu là nguyên nhân khiến cho họ phải gánh chịu
toàn bộ thua lỗ trong khi đáng lẽ ra họ có thể hạn chế được phần nào rủi ro đó. Điều
cần nói đến nhất là TTCK Việt Nam chưa thực sự có các công cụ hạn chế rủi ro.
Trong khi đó, ở các TTCK phát triển trên thế giới, NĐT lại có các công cụ phái sinh
để giảm thiểu thua lỗ, bao gồm: quyền chọn bán (Put option), quyền chọn mua (Call
option), hợp đồng hoán đổi (Swap), hợp đồng tương lai (Futures), hợp đồng kỳ hạn
(Forward). Những người môi giới CK hoạt động rất hiệu quả với chức năng trung
gian thực hiện các giao dịch và tư vấn, giúp NĐT đánh giá danh mục đầu tư của
mình. Trong khi đó, TTCK Việt Nam còn thiếu các công cụ này và vai trò của môi
giới CK cũng chưa thực sự được phát huy. Vì vậy, khi thị trường tụt dốc, hàng loạt
CP giảm giá thì các NĐT phải gánh chịu toàn bộ rủi ro. Nói một cách khác, việc đầu
tư của họ chịu tác động rất lớn từ sự biến động của thị trường nhưng họ lại không thể
chủ động hạn chế rủi ro. Cách phổ biến nhất mà các NĐT trên thị trường Việt Nam
lựa chọn để giảm thua lỗ là đầu tư vào nhiều loại CK hay mở rộng danh mục đầu tư.
Cách làm này cũng góp phần hạn chế được rủi ro nhưng cũng sẽ không hiệu quả khi
thị trường liên tục tụt dốc và hầu hết các loại CK đều đồng loạt giảm giá như giai
đoạn vừa qua. Do đó, việc triển khai và đưa vào sử dụng các loại sản phẩm phái sinh
trên TTCK Việt Nam là một nhu cầu không thể thiếu được cho các NĐT, DN và cho
cả nền kinh tế.
Quyền chọn mua: người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền
chọn) cho người bán. Người mua sẽ có quyền được mua (không bắt buộc mua) một
lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định
trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng
tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận vào thời điểm
xác định trong tương lai (hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện
quyền chọn mua. Các NĐT sử dụng quyền chọn mua khi phân tích và đưa ra dự
đoán, kỳ vọng giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai. Nếu giá CK tăng như dự đoán
thì người mua hợp đồng sẽ thu được lợi nhuận trong khi chỉ phải đầu tư một khoản
nhỏ (phí hợp đồng) hơn là phải bỏ tiền ra mua toàn bộ số CK đó, trường hợp này thì
hợp đồng quyền chọn mua có lãi.
Quyền chọn bán: người mua quyền chọn bán sẽ trả phí cho người cung cấp
quyền chọn bán để đảm bảo rằng cổ phiếu của mình sẽ được giao dịch ở một mức giá
nhất định trong tương lai. Quyền chọn bán được sử dụng khi các NĐT lo lắng về giá
CP có thể giảm xuống trong tương lai.
Lúc mua, bán các hợp đồng này ban đầu không hề diễn ra việc chuyển giao
CK thực tế mà đúng hơn chỉ là sự trao quyền mua một loại tài sản tài chính để đổi lại
một khoản phí. Do có những nguồn thông tin khác nhau, cách phân tích, đánh giá
khác nhau cho nên mới nảy sinh sự kỳ vọng khác biệt giữa người mua và người bán,
dẫn đến việc các hợp đồng quyền chọn mua, quyền chọn bán được ký kết giữa các
bên.
Hợp đồng tương lai: là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên
ký hợp đồng về những nghĩa vụ mua, bán phải thực hiện theo mức giá đã được xác
định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá cả của thị trường tại thời điểm tương
lai đó. Các NĐT mua và bán các hợp đồng tương lai với mục đích nhằm giảm bớt sự
lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong thời gian
sau đó.
Hợp đồng kỳ hạn: là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên ký
hợp đồng về giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định
trong tương lai với mức giá xác định vào thời điểm ký hợp đồng. Mức giá trong hợp
đồng kỳ hạn có thể thay đổi tại thời điểm giao nhận hàng hoá theo sự thoả thuận của
các bên.
Điểm khác biệt giữa hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai là giá cả do hai
bên tự thỏa thuận với nhau dựa theo những ước lượng mang tính cá nhân và giá này
vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với
mức giá đã ký kết trong hợp đồng.
Với vai trò là một công cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Những lợi
ích của các công cụ phái sinh luôn được các NĐT khai thác triệt để nhằm tránh
những khoản thua lỗ do sự biến động của giá cả. Một cách đơn giản, với việc mua
các công cụ phái sinh, các NĐT đang đánh cược rằng thị trường sẽ biến động theo
chiều hướng ngược lại mong muốn sinh lời của mình; từ đó, với “một mũi tên trúng
hai đích”, các nhà đầu từ vừa có được lợi nhuận nếu giá cổ phiếu lên cao, vừa đảm
bảo sẽ không thua lỗ trong trường hợp cổ phiếu mất giá. Do đó, nếu biết vận dụng
các kỹ thuật mua bán CK kết hợp với công cụ phái sinh, các NĐT có thể bảo vệ được
lợi nhuận trong kinh doanh CK một cách hữu hiệu. Qua đó, sẽ thu hút thêm nhiều
NĐT còn e ngại về mức độ mạo hiểm, rủi ro trên TTCK mạnh dạn tham gia thị
trường. Khi nhiều người tham gia thị trường sẽ có tác động kích cầu, điều này làm
cho thị trường mở rộng và phát triển sôi động. Hơn nữa, việc ứng dụng giao dịch các
công cụ phái sinh vừa đáp ứng được sự mong đợi, vừa đem lại cho NĐT trên TTCK
Việt Nam một công cụ đầu tư mới.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các công cụ phái sinh còn có tác động gián tiếp đến
các công ty niêm yết và nền kinh tế. Chẳng hạn như, một công ty niêm yết nhận thấy
quyền chọn bán CP của công ty mình được mua bán liên tục trên thị trường là dấu
hiệu cho thấy thị trường dự đoán giá CP của công ty sẽ đi xuống và điều này cho thấy
uy tín của công ty trên thị trường đang giảm dần. Như vậy, công ty có thể nhìn vào
xu hướng giao dịch công cụ phái sinh như quyền chọn, hợp đồng giao sau trên thị
trường để nhận biết sự đánh giá của thị trường đối với công ty mình, điều này giúp
công ty có những điều chỉnh kịp thời trong chiến lược kinh doanh để giữ uy tín trên
thị trường. Như vậy, các công cụ phái sinh giúp NĐT giám sát gián tiếp hoạt động
của các công ty niêm yết. Một khi có thêm người giám sát, đòi hỏi công ty niêm yết
phải nỗ lực hơn trong hoạt động kinh doanh.
Ở các TTCK phát triển, các công cụ phái sinh đã giúp cho nhiều người hạn
chế, thậm chí là thoát khỏi các vụ thua lỗ lớn. Nhưng đối với các NĐT mạo hiểm thì
công cụ này lại không có ý nghĩa lớn vì họ chấp nhận rủi ro để được lợi nhuận cao.
Mặt khác, TTCK ở những nước phát triển tương đối ổn định nên đôi khi công cụ này
không đem lại nhiều lợi nhuận như mong muốn. Tuy nhiên, với một TTCK còn đang
phát triển ở những giai đoạn đầu như Việt Nam thì công cụ hạn chế rủi ro này lại có ý
nghĩa rất lớn. Nó giúp cho các NĐT bảo vệ được khoản tiền của mình khi có những
biến cố xảy ra ngoài dự kiến. Hơn nữa, việc đầu tư cũng trở nên hiệu quả hơn bằng
cách kết hợp giữa mua/bán CP với mua/bán CK phái sinh để có lợi nhuận, kể cả
trong trường hợp thị trường tụt dốc. Hy vọng rằng trong một tương lai gần, CK phái
sinh sẽ được giao dịch ở Việt Nam và các NĐT sẽ không còn bị phụ thuộc quá nhiều
vào sự biến động của thị trường như hiện nay.
3.4.3. Nâng cao chất lượng hoạt động công bố và minh bạch hóa thông tin của các
chủ thể tham gia trên thị trường
Thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng trên TTCK. Các thông tin tốt hay xấu
ngay lập tức đều tác động đến giá CK. Độ tin cậy của thông tin chính là cơ sở để
NĐT đưa ra quyết định đầu tư và là yếu tố quyết định thành công hay thất bại của
danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro đầu tư. Công khai hóa và minh bạch hóa thông tin
là yếu tố bắt buộc đối với mọi chủ thể phát hành CK. Đây là một trong những điều
kiện tiên quyết cho một TTCK minh bạch, NĐT chỉ thực sự yên tâm khi thông tin
trên thị trường có tính hoàn hảo cao.
Điều 9 Luật Chứng khoán qui định về những hành vi bị nghiêm cấm: “Trực
tiếp hoặc gián tiếp thực hiện hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật
hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu lầm, gây hậu quả nghiêm trọng….”. Nhưng
như thế nào là thông tin cần thiết và gây hậu quả như thế nào được coi là nghiêm
trọng thì vẫn chưa được làm rõ. Thời gian qua, đã có chuyện công ty gửi bản công bố
thông tin về TTGDCK, và chờ khi Trung tâm công bố rồi thì mới công bố. Trong khi
lẽ ra họ phải công bố ngay bằng nhiều hình thức. Do đó, một điều không thể thiếu đối
với TTCK Việt Nam hiện nay là UBCKNN cùng các cơ quan liên quan cần ban hành
những qui định chi tiết và đầy đủ hơn về việc công bố thông tin của các công ty niêm
yết để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ, kịp thời và thống nhất. Song song với điều
đó là các biện pháp chế tài đảm bảo việc thực thi nghiêm chỉnh các qui định trên.
Ngày 08/08/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 97/2007/TT-BTC
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 36/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK và TTCK Tuy nhiên,
thực tế diễn biến trên TTCK thời gian vừa qua cho thấy các khung xử lý vi phạm còn
nhẹ và chưa cương quyết, chưa rõ ràng nên không có tác dụng răn đe. Luật Chứng
khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 trong đó có qui định về việc thanh tra và xử lý
vi phạm. Do đó, trong quá trình thực hiện cần mạnh dạn xử lý các hành vi vi phạm
công bố thông tin để tạo ra một tiền lệ và thói quen tuân thủ pháp luật của các đối
tượng có nghĩa vụ công bố thông tin. Tùy theo mức độ nghiêm trọng hay hậu quả
mang lại thì bên cạnh việc xử phạt hành chính cần phải xem xét đến khả năng truy
cứu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, cần phải có một ban giám sát tài chính có
trình độ chuyên môn cao và hoạt động độc lập để kiểm tra tình hình hoạt động và các
báo cáo tài chính của các công ty niêm yết dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế, từ đó phát
hiện ra những điểm bất bình thường của các DN để khuyến cáo và cảnh báo cho
NĐT. Có như vậy, lòng tin NĐT – một nhân tố rất quan trọng trên TTCK Việt Nam
mới được khôi phục và duy trì.
Hiện nay, nhiều thông tin do các công ty niêm yết đưa ra còn thiếu tính trung
thực, chính xác do chưa có cơ quan nào thẩm định; thị trường nhiều rủi ro, bất lợi cho
các NĐT. Do vậy, thông tin cáo bạch của các công ty đôi khi không có giá trị. NĐT
lớn có điều kiện để kiểm tra thông tin nhưng đối với NĐT cá nhân, việc này không
dễ dàng và trên TTCK hiện có tình trạng lợi dụng sự thiếu đồng bộ của quy chế để
trục lợi cá nhân, liên minh khống chế thị trường... Vì vậy, cơ quan chức năng cần có
cơ chế để ràng buộc các công ty niêm yết tuân thủ nguyên tắc công bố thông tin ra thị
trường. Đồng thời đưa ra công cụ quản lý hiệu quả để tạo tính công khai, minh bạch;
sớm triển khai hiệu quả Luật Chứng khoán có cơ chế, chính sách gắn quyền lợi, trách
nhiệm của DN sau CPH; ban hành quy định giám sát chống độc quyền... Bộ Tài
chính, UBCKNN cần có quy định về việc cung cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi
cho NĐT. Bên cạnh đó, cần ban hành cơ chế kiểm tra, kiểm soát các thành phần tham
gia vào TTCK; cần nâng cấp hệ thống tin học, nhân sự đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao trên thị trường.
Các DN niêm yết và cả các công ty đại chúng nên đầu tư nhiều hơn cho bộ
phận công bố thông tin để hình thành văn hóa quan hệ với NĐT. Các DN niêm yết
cần xây dựng qui trình công bố thông tin trong nội bộ công ty trên cơ sở qui trình
công bố thông tin mẫu của TTGDCK. Đồng thời, để nâng cao chất lượng công bố
thông tin, các công ty cần lập ra bộ phận chuyên trách theo dõi và kiểm tra việc công
bố thông tin của bộ phận trên, tiến tới chuẩn hóa chức vụ, tiêu chuẩn của người chịu
trách nhiệm công bố thông tin như: phải có kiến thức nhất định về kinh tế tài chính,
luật pháp và công nghệ thông tin. Khi có những sự kiện xảy ra có khả năng ảnh
hưởng đến SXKD, giá CP trên thị trường thì các công ty niêm yết cần phải báo cáo
công khai ngay lập tức. UBCKNN cần chủ động xác minh tính chính xác của thông
tin để đề phòng trường hợp các thông tin gây nhiễu thị trường và công bố kết quả trên
website của UBCKNN, TTGDCK được cập nhật liên tục. NĐT có thể dùng bất cứ
biện pháp gì như email, điện thoại, fax... để tìm hiểu thông tin về DN, tránh mua bán
dựa theo tin đồn. Có như vậy, NĐT mới dễ dàng tiếp cận thông tin hơn. Ngoài ra,
Trung tâm giao dịch và Sở giao dịch phải tập huấn cho các công ty niêm yết cũng
như các CTCK tư vấn cho các công ty niêm yết về chế độ, nghĩa vụ cũng như trách
nhiệm và quyền lợi của họ khi tham gia công bố thông tin. Đây là một kênh quan
trọng cho các NĐT. Đồng thời, UBCKNN phải thường xuyên bám sát những biến
động của thị trường để kịp thời có những biện pháp giải quyết linh hoạt trong khuôn
khổ pháp luật cho phép.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, đồng thời theo kịp sự phát
triển của thị trường, các CTCK cần cải tiến hình thức và nâng cao chất lượng thông
tin được công bố, đặc biệt là các thông tin đã qua xử lý trên các bản báo cáo nghiên
cứu thị trường bởi vì các thông tin này được đánh giá bởi các chuyên gia nên thu hút
rất lớn sự chú ý của các NĐT, nhất là các NĐT nhỏ lẻ. Vì vậy, các luồng thông tin
này phải được cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác và trung thực để
tránh tình trạng như việc đưa ra các chỉ số tài chính không chính xác như thời gian
qua khiến nhiều NĐT hoang mang, lo lắng khi sử dụng kết quả phân tích từ các
CTCK. Bên cạnh đó, các CTCK không ngừng đào tạo, nâng cao kiến thức, tinh thần
trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cho các nhân viên, đặc biệt là các nhân viên
công bố thông tin, hiện đại hóa hệ thống công bố thông tin, thường xuyên cập nhật
thông tin trên website để NĐT dễ tìm kiếm và thu thập thông tin khi cần thiết. Việc
làm này góp phần nâng cao uy tín, tên tuổi và quảng bá hình ảnh các CTCK đến các
NĐT.
Vừa qua, có một số giao dịch trên TTCK có những diễn biến rất bất thường.
Các lệnh giao dịch đầu cơ, khống chế, thu gom CP rồi đẩy thốc giá lên để bán ngày
càng lộ liễu, cho thấy sự tung tác của các tổ chức đầu tư trong nước, đặc biệt là hoạt
động tự doanh của các CTCK ngày một lớn. Do đó, để bình đẳng về quyền giao dịch,
UBCKNN, TTGDCK cần tách bạch hoạt động tự doanh của CTCK ra khỏi hoạt động
môi giới, trong đó công khai mã số tự doanh. Ngoài ra, cần tổng hợp kết quả giao
dịch tự doanh của CTCK định kỳ để công bố ra thị trường, cũng giống như việc công
bố giao dịch của các NĐT nước ngoài hiện nay. Một cách làm khác, quyết liệt hơn là
cắt quyền thực hiện giao dịch tự doanh. Theo đó, CTCK muốn hoạt động tự doanh
cần mở tài khoản tại một CTCK khác và cũng phải "xếp hàng" chờ đặt lệnh như NĐT
bình thường. Ngoài ra, việc mở tài khoản tự doanh tại một đơn vị khác cũng sẽ hạn
chế hiện tượng sử dụng lợi thế về thông tin để hớt váng thị trường như hiện nay.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, để có thể phát triển được, TTCK
Việt Nam nói chung, các DN nói riêng, rất cần thu hút sự tham gia của NĐT nước
ngoài. Để thu hút được đối tượng này, việc minh bạch hóa thông tin và trách nhiệm
công bố thông tin cần phải trở thành thói quen bình thường đối với các chủ thể trên
TTCK. Tuy nhiên, làm thế nào để công bố thông tin trở thành văn hóa kinh doanh
của các DN Việt Nam; làm thế nào để DN nhận thấy việc kiểm toán báo cáo tài chính
là cần thiết cho lợi ích của chính mình thì không thể trông chờ vào nỗ lực của
UBCKNN mà còn cần sự hợp tác và ý thức minh bạch hóa thông tin của chính các
DN, làm cho các DN thấy được lợi ích của việc công khai hóa thông tin để từ đó tiến
hành việc công bố thông tin một cách tự nguyện.
Trong thời gian qua, công tác kiểm toán đã đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc tạo dựng niềm tin đối với các NĐT trên TTCK. Chứng nhận của kiểm toán
là một trong những căn cứ để NĐT ra quyết định, vì thế nếu thông tin không xác thực
có thể dẫn tới quyết định sai lầm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của các
NĐT, vi phạm nguyên tắc công bằng trên TTCK. Các thông tin do các kiểm toán
viên đưa ra đòi hỏi tính trung thực, hợp lý, khách quan và có độ tin cậy cao không chỉ
riêng đối với TTCK mà cả với cơ quan Nhà nước và những người sử dụng kết quả
kiểm toán. Qua đó, cho thấy yếu tố đạo đức nghề nghiệp của người làm kiểm toán
đóng vai trò rất quan trọng. Trong quá trình kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp yêu cầu kiểm toán viên và người hành nghề kế toán phải thực sự không bị chi
phối hoặc bị tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng
đến sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình.
Nhìn chung, đội ngũ kiểm toán viên nước ta hiện nay không chỉ thiếu về
lượng, yếu về chất mà còn quá ít người có trình độ kiểm toán đạt chuẩn quốc tế. Các
báo cáo tài chính của các DN niêm yết mặc dù đã thông qua kiểm toán nhưng hầu
như thị trường không tin tưởng vào các báo cáo này, điển hình là trường hợp thông
tin không minh bạch của CTCP đồ hộp Hạ Long và Bibica trong thời gia qua đã làm
cho nhiều NĐT thua lỗ. Vừa qua, Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính kế toán
và kiểm toán phía Nam - AASCS bị UBCKNN xử phạt 40 triệu đồng vì vi phạm
nguyên tắc của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam khi tiến hành kiểm toán báo cáo tài
chính các năm 2005, 2006 của CTCP địa ốc Chợ Lớn (trong hồ sơ đăng ký niêm yết
của Công ty tại TTGDCK Hà Nội) tạo ra những thông tin sai lệch, gây hiểu lầm trong
hồ sơ niêm yết đã dấy lên nỗi lo về tính chính xác của các báo cáo tài chính. Do đó,
bộ máy thanh tra, kiểm soát thị trường cần thu hút các chuyên gia có kinh nghiệm để
kiểm tra lĩnh vực này. Bên cạnh đó, các DN kiểm toán cần quan tâm đến công tác
đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn và tính bảo mật thông tin cho nhân viên
nghiệp vụ nhằm đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực chuyên môn, đó cũng là những
nguyên tắc cơ bản của đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kiểm toán, đồng thời các
DN kiểm toán cũng phải xây dựng và thực hiện hệ thống kiểm soát chất lượng đối
với dịch vụ kiểm toán, các dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ liên quan khác.
Ngày 15/05/2007 Bộ Tài chính ban hành quyết định số 32/2007/QĐ-BTC ban
hành Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán. Quy chế này nhằm
mục đích xem xét việc xây dựng và thực hiện hệ thống kiểm soát chất lượng, bao
gồm các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng dịch vụ của các DN kế toán,
kiểm toán để đảm bảo các dịch vụ kế toán và các cuộc kiểm toán đều được tiến hành
phù hợp với quy định của pháp luật và các chuẩn mực nghề nghiệp. Thông qua quy
chế này, Bộ Tài chính mong muốn phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những tồn tại,
tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục để hoàn thiện hệ thống kiểm soát chất
lượng, quy trình nghiệp vụ và phương pháp làm việc của đơn vị nhằm nâng cao chất
lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, làm tăng độ tin cậy của xã hội đối với thông tin tài
chính và nghề nghiệp kế toán, kiểm toán.
3.4.4. Nâng cấp và phát triển hệ thống công nghệ thông tin
Khi quy mô TTCK gia tăng cả về hàng hoá và NĐT, vượt quá khả năng đáp
ứng của cơ sở hạ tầng công nghệ và thiết bị, thì hệ thống giao dịch “có sàn” với
phương thức khớp lệnh định kỳ như hiện nay tỏ ra bất cập, gây ách tắc cho giao dịch.
Sau nhiều lần phải trì hoãn, phiên giao dịch ngày 30/07/2007, TTGDCK TP.HCM đã
chính thức thực hiện phiên giao dịch khớp lệnh liên tục đầu tiên. Phương thức này
được áp dụng cho mỗi phiên 1 tiếng vào đợt thứ 2 của phiên giao dịch, từ 9h -10h.
Với TTCK Việt Nam hiện nay, giao dịch khớp lệnh liên tục được xem như một
phương thức giao dịch hiện đại, khắc phục được tình trạng nghẽn lệnh, giảm bớt
nguy cơ làm giá, tăng khả năng phán đoán và phản ứng của NĐT.
Hệ thống kỹ thuật giao dịch tại Sở giao dịch và TTGDCK hiện nay còn mang
tính thủ công và chậm chạp. Đây cũng là nguyên nhân làm cho tính thanh khoản của
CP kém đi. TTGDCK chưa xây dựng một chương trình phần mềm thống nhất, hệ
thống còn mang tính lắp ghép, rời rạc, dễ phát sinh sự cố trong giao dịch. Trung tâm
chưa trang bị một hệ thống phòng ngừa rủi ro trong giao dịch, thanh toán điện tử.
Một khi khối lượng niêm yết và các lệnh giao dịch, thanh toán gia tăng sẽ tạo ra một
áp lực rất lớn đối với hệ thống giao dịch, thanh toán hiện nay. Do đó, để khắc phục
tình trạng quá tải lệnh giao dịch của NĐT, Sở giao dịch và TTGDCK cần phải đầu tư
thiết bị công nghệ hiện đại để cải tiến hệ thống kỹ thuật giao dịch. Phát triển đồng bộ
hệ thống giao dịch kết nối Sở, Trung tâm với các CTCK, trước hết là giải quyết được
tình trạng quá tải tại sàn giao dịch, thứ hai là với hệ thống giao dịch hoàn hảo sẽ tự
động sàng lọc những lệnh được chấp nhận để chuyển thẳng vào Sở và Trung tâm.
Bên cạnh đó, cần sớm đầu tư nâng cao năng lực cho TTGDCK để giảm thời gian
thanh toán từ T+3 xuống còn T+2 hoặc T+1, tạo vòng quay tiền, hàng nhanh hơn góp
phần hạn chế phần nào rủi ro cho NĐT.
Để nâng cấp và phát triển hệ thống giao dịch, đáp ứng khả năng mở rộng về số
lượng thành viên giao dịch, triển khai các mô hình giao dịch mới nhằm tiến tới giao
dịch không sàn, đồng thời định hướng phát triển đồng bộ về công nghệ thông tin cho
toàn thị trường, SGDCK TP.HCM đã xây dựng lộ trình như sau:
- Giai đoạn 1: Từ tháng 10/2007 đến quý I/2008, triển khai Remote DCTerm,
nghĩa là đưa màn hình nhập lệnh DCTerm về tại địa điểm CTCK - bắt đầu triển khai
thí điểm từ 1 - 2 CTCK, sau đó mở rộng đến các công ty khác.
- Giai đoạn 2: Từ quý I/2008, cho phép hệ thống front-office của CTCK
chuyển lệnh và nhận thông tin giao dịch trực tuyến (gateways) với máy chủ của Sở
giao dịch, tiếp tục duy trì sàn giao dịch cho các CTCK chưa có hệ thống front-office.
Theo kế hoạch, từ nay cho đến giữa tháng 10/2007, SGDCK TP.HCM sẽ lựa chọn
CTCK thực hiện thí điểm giao dịch Remote DCTerm, ban hành các quy định liên
quan đến Remote DCTerm. Từ ngày 14/01/2008 đến 15/03/2008, phối hợp với
CTCK thử nghiệm giao dịch trực tuyến. Ngày 17/03/2008 bắt đầu triển khai giao
dịch trực tuyến với một số CTCK. Do đó, SGDCK TP.HCM yêu cầu CTCK thành
viên nâng cấp hệ thống mạng, tự trang bị hệ thống front-office.
Lợi ích của việc nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin trên nhằm giảm tải
những thao tác thủ công và giúp việc đặt lệnh vào hệ thống được nhanh chóng hơn,
làm tăng lượng giao dịch thành công cho NĐT.
3.4.5. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám
sát thị trường.
Chứng khoán là một thị trường nhạy cảm, nơi mà lòng tin của NĐT vào sự
hưng thịnh của nền kinh tế, vào tính minh bạch của thị trường quyết định đến thành
công của thị trường. Trong thời gian qua, niềm tin của NĐT vào TTCK ở nước ta
đang bị lung lay bởi rất nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là thị trường thiếu tính
minh bạch. Giao dịch nội gián, tiết lộ thông tin nội bộ, cổ đông lớn chèn ép cổ đông
nhỏ, hối lộ bằng quyền mua CP, ưu tiên lệnh công ty trước lệnh khách hàng,… và
hàng loạt các vi phạm khác nhưng chưa được xử phạt một cách đúng mức, chưa đủ
sức răn đe làm cho NĐT cảm thấy nỗ lực của cơ quan quản lý nhằm tăng cường tính
minh bạch cho thị trường còn yếu ớt. Do đó, để xác định khung xử phạt hợp lý cần có
những tổng kết thực tế để sửa nghị định, kiến nghị Quốc hội sửa Luật.
Còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng hành lang pháp lý nhằm tăng cường
tính minh bạch, giảm rủi ro cho thị trường và tính cấp bách của vấn đề này không cho
phép kéo dài hơn nữa. Các hoạt động kiểm tra, thanh tra phát hiện vi phạm của cá
nhân và DN phải được xử phạt thật nặng để làm gương, chắc chắn sẽ tác động tích
cực đến thị trường.
Một môi trường pháp lý ổn định và đầy đủ là nhân tố đầu tiên đảm bảo lòng
tin của NĐT. Theo đó, các NĐT trong nước và nước ngoài chỉ có thể đầu tư vào
TTCK nếu họ nhận thấy rằng vốn đầu tư cũng như kỳ vọng sinh lời của họ được bảo
vệ bởi một khuân khổ luật pháp minh bạch và an toàn. Với sự ra đời của Luật Chứng
khoán và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, đã từng bước hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý cho các chủ thể tham gia TTCK Việt Nam, khắc phục được những hạn
chế của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003, đảm bảo tính công
bằng, công khai, minh bạch của thị trường. Luật Chứng khoán ra đời tạo cơ sở pháp
lý cho TTCK Việt Nam phát triển ổn định, an toàn, có hiệu quả, tạo niềm tin cho
NĐT, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động trên TTCK.
Một tiêu chí cần đạt được trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng
cường năng lực hoạch định chính sách của UBCKNN là tiếp cận các chuẩn mực quốc
tế và phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Song song với việc hoàn thiện
Luật Chứng khoán, cần bổ sung và hoàn thiện thêm một số luật như: Luật hình sự,
Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh ngoại hối,… Hoạt động của TTCK
chắc chắn sẽ phát sinh một số tội danh mới cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự
chưa được được qui định trong Luật hình sự, nên cần bổ sung thêm một số điều
khoản về tội danh như: thông tin sai sau khi xin phép phát hành CK, mua bán nội
gián, lũng đoạn thị trường,… gây thiệt hại cho NĐT. Ngoài ra, cũng cần xem xét
chỉnh sửa qui chế về chế độ quản lý ngoại hối đối với các NĐT nước ngoài, đặc biệt
là cơ chế lưu ký, thanh toán đối với các tổ chức lưu ký nước ngoài. Đồng thời, nghiên
cứu hoàn chỉnh chính sách về sự tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam;
chính sách thuế đối với các tổ chức niêm yết và đăng ký giao dịch trên các
TTGDCK; chỉnh sửa quy định về kế toán đối với các tổ chức tham gia thị trường
theo hướng tiếp cận dần với hệ thống kế toán quốc tế. Việc xây dựng Luật Chứng
khoán và hoàn thiện các luật có liên quan sẽ giúp cho TTCK Việt Nam hoạt động
hiệu quả và ổn định.
Thực tế sau 7 năm hoạt động của TTCK Việt Nam, do lĩnh vực CK còn khá
mới lại chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh nên khi quyền lợi của các NĐT bị ảnh
hưởng, thiệt hại thì họ không biết kêu ai, khiếu nại ai và nếu có khiếu kiện thì không
biết ai đứng ra xử lý và được đền bù như thế nào. Đây là vấn đề ảnh hưởng đến
quyền lợi của số đông các thành viên tham gia trên TTCK, do đó Luật Chứng khoán
cũng cần qui định rõ quyền khiếu kiện của các NĐT kèm theo các khoản phạt vi
phạm.
Hiện nay, việc giám sát TTCK vẫn được thực hiện theo hướng SGDCK và
TTGDCK là nơi giám sát giao dịch, còn các ban chức năng tại UBCKNN thì giám
sát việc tuân thủ điều kiện cấp phép hoặc phát hành của khối CTCK, công ty đại
chúng. Với hai loại giám sát này, những hiện tượng giao dịch lũng đoạn, giao dịch
bất thường, giao dịch có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các NĐT khác ra
thị trường rất ít được các nhà giám sát phát hiện và công bố. Bên cạnh đó, hoạt động
tư vấn, giám sát, định giá cổ phần để niêm yết, chất lượng và quản lý thông tin còn
hạn chế; các quy định về quản lý, kiểm soát thị trường đảm bảo phát triển bền vững
còn thiếu và chưa đồng bộ; sự chủ động của các bộ, ngành chức năng cũng như sự
phối hợp liên ngành để thực hiện quản lý, kiểm soát TTCK chưa thật tốt; năng lực
quản lý giám sát thị trường của UBCKNN còn yếu. Trước những hạn chế này,
UBCKNN cần phải:
- Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan chức năng khác chỉ
đạo tăng cường giám sát hoạt động của thị trường, phát triển thị trường các giao dịch
chính thức, tăng cường quản lý các công ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng
khoán nhằm kiểm soát thị trường phi tập trung (OTC).
- Xây dựng chương trình và tổ chức kiểm tra định kỳ hoạt động của các tổ
chức tham gia thị trường, tập trung vào việc đánh giá các công ty niêm yết, CTCK,
công ty quản lý quỹ.
- Tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư CK, đặc biệt
đối với các quỹ đầu tư CK nước ngoài phải bảo đảm hoạt động theo đúng các quy
định của pháp luật về tỷ lệ CP, công bố thông tin và các quy định hiện hành khác.
- Tăng cường giám sát hoạt động giao dịch trên SGDCK, TTGDCK; chú trọng
kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân hoạt
động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu ký, thanh
toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công khai, minh bạch,
đúng pháp luật.
- UBCKNN phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc
thông tin tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có sự
hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường.
Đối với Ngân hàng Nhà nước, cần phải giám sát hoạt động của các NHTM
trong hoạt động repo, huy động, cho vay, cầm cố để đầu tư CK; xây dựng, củng cố về
tổ chức và áp dụng các công cụ quản lý thích hợp để bảo đảm giám sát được luồng
vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK trong mối liên hệ giữa TTCK và thị trường tiền tệ.
Một điểm đặc thù của TTCK Việt Nam là các CTCK được phép trực tiếp nhận
tiền mặt của khách hàng và quản lý tài khoản tiền gửi mua CK mà không thông qua
tài khoản của khách hàng ở ngân hàng như hầu hết các nước trên thế giới. Đây là một
yếu tố còn nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Mặt khác, nó còn gây
khó khăn cho UBCKNN trong việc giám sát tách biệt tài sản của công ty và tài sản
của khách hàng. Hơn nữa, ngoài việc quản lý tài khoản tiền của khách hàng, CTCK
còn phát triển nghiệp vụ cho vay dưới hình thức ứng trước tiền bán CK hoặc hợp
đồng repo. Chính từ những bất cập trên nên ngày 24/04/2007 Bộ Tài chính ban hành
Quyết định 27/2007/QĐ-BTC về qui chế tổ chức và hoạt động của CTCK trong đó
Điều 32 qui định các CTCK không được trực tiếp nhận tiền giao dịch của khách
hàng, NĐT mở tài khoản tại NHTM do CTCK lựa chọn. Thời gian để các CTCK
thực hiện là trong vòng 6 tháng kể từ khi quy chế được ban hành. Quy định trên đem
lại sự an toàn về tiền gửi cho khách hàng khi CTCK gặp những khó khăn trong hoạt
động kinh doanh, đồng thời đảm bảo lợi ích về lãi suất, khả năng thanh toán... cho
NĐT, thế nhưng đến nay chưa có CTCK nào thực hiện và triển khai.
3.4.6. Hình thành và phát triển các định chế trung gian
Hiện nay, số tổ chức phát triển cộng đồng ở nước ta còn quá ít so với nhu cầu
thị trường cũng như so với các nước trên thế giới. Hiện tại, trên TTCK Việt Nam mới
chỉ có Hiệp hội các NĐT tài chính (VAFI) và Hiệp hội kinh doanh CK. Vì vậy, nên
có chính sách phát triển các hình thức này để thu hút các NĐT tiềm năng cũng như
các NĐT chiến lược và củng cố thêm lòng tin của các NĐT hiện tại.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sự ra đời và phát triển các định chế
tài chính trung gian như: Hiệp hội đầu tư CK, Hiệp hội tư vấn CK, Hiệp hội bảo vệ
các NĐT,… Các hiệp hội này có chức năng và tôn chỉ riêng của mình. Hiệp hội đầu
tư CK được thành lập và hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích của các NĐT, đưa ra sự tư
vấn đầu tư một cách độc lập và chuyên nghiệp cho các NĐT, nhất là công chúng đầu
tư. Hiệp hội tư vấn CK là tổ chức nghề nghiệp của các nhà tư vấn, phân tích CK,
được thành lập và hoạt động để nâng cao nghề nghiệp của các nhà tư vấn, đồng thời
thúc đẩy phong trào giáo dục CK ra công chúng. Hiệp hội bảo vệ các NĐT chỉ
chuyên bảo vệ lợi ích NĐT theo pháp luật hiện hành, luôn đấu tranh chống những
biểu hiện hành vi vi phạm pháp luật và là chỗ dựa tin tưởng cho các NĐT.
Ngày nay, hầu hết TTCK của các nước trên thế giới đều tồn tại ít nhất một tổ
chức định mức tín nhiệm, một phần là do xu thế của thời đại, nhưng phần lớn là do
vai trò quan trọng của tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính. Nhưng
hiện nay so với các nước trong khu vực và trên thế giới, các tổ chức này ở Việt Nam
còn khá mới mẻ và chưa có một tổ chức tín nhiệm nào được thành lập.
Khi quyết định thực hiện đầu tư vào CK của một DN nào đó, ngoài việc thu
thập các thông tin cơ bản liên quan đến công ty, NĐT có thể sử dụng nguồn thông tin
từ bảng xếp hạng của các tổ chức định mức tín nhiệm. Khi các tổ chức tín nhiệm ra
đời, công tác giám sát thị trường có thể được thực hiện tốt hơn, các NĐT cá nhân sẽ
yên tâm hơn khi đầu tư vào các công cụ tài chính. Tuy nhiên, quá trình ra đời của các
tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam cần có sự chuẩn bị chu đáo, bởi vì ngành
định mức tín nhiệm có những hoạt động hết sức nhạy cảm liên quan đến lòng tin của
công chúng, một khi kết quả định mức tín nhiệm bị phát hiện do cố ý làm sai lệch thì
ngành định mức tín nhiệm thậm chí có thể bị sụp đổ vì khó có thể xây dựng lại lòng
tin. Vì vậy, tính độc lập của quá trình định mức tín nhiệm là điều kiện tối cần thiết
đối với sự phát triển bền vững của ngành định mức tín nhiệm ở Việt Nam.
Tóm lại, để TTCK phát triển, việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm là
vấn đề hết sức cần thiết. Trong điều kiện mức độ hiểu biết của công chúng đầu tư còn
hạn chế, các kênh cung cấp thông tin và đánh giá đúng rủi ro còn rất ít hoặc chưa có,
sự xuất hiện của tổ chức định mức tín nhiệm sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin cho
cộng đồng đầu tư, và chính bảng xếp hạng của tổ chức định mức tín nhiệm sẽ làm
cho NĐT yên tâm hơn khi tiếp cận với thị trường, giúp họ có cơ sở và tự tin hơn khi
thực hiện quyết định đầu tư vào một loại CK nào đó. Việt Nam đã có TTCK, song
hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm vẫn chưa xuất hiện. Nhưng vì vai trò
của tổ chức này là rất quan trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang trong quá trình hội
nhập quốc tế, tự do hoá tài chính và phát triển triển TTCK, nên việc thành lập và đưa
tổ chức định mức tín nhiệm vào hoạt động tại Việt Nam là vấn đề hết sức cấp thiết.
Bên cạnh đó, nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo sự ổn định, tránh những biến
động lớn và đột ngột của thị trường nên chăng có các cơ quan chức năng và quản lý
nên nghĩ đến việc hình thành Quỹ bình ổn thị trường. Từ kinh nghiệm của Trung
Quốc, Việt Nam có thể hình thành Quỹ bình ổn thị trường với nguồn vốn đóng góp
từ các công ty thành viên và các Quỹ đầu tư CK trên thị trường. Số tiền sẽ được quản
lý và sử dụng bởi một công ty được lập ra chuyên để bảo đảm lợi ích cho các NĐT
trong những trường hợp xấu. Như vậy, khoản tiền này có thể được tung ra để bình ổn
thị trường trong những lúc biến động quá dữ dội, qua đó giúp các NĐT khỏi bị sốc.
Quỹ có thể cũng sẽ được dùng để đầu tư sinh lợi và sử dụng lại cho các hoạt động có
lợi cho giới đầu tư.
3.4.7. Phổ biến, tuyên truyền kiến thức về CK và TTCK
Tìm hiểu và quyết định đầu tư vào TTCK là những việc làm phức tạp. Các
NĐT sẽ phải tìm hiểu rất kỹ lưỡng để có quyết định đầu tư của mình. Điều này đôi
khi đòi hỏi NĐT sự kiên trì và những kinh nghiệm cần thiết. Nhưng thực tế hiện nay
có rất nhiều các NĐT tại TTCK Việt Nam đầu tư CK theo cảm tính. Họ không cần
tính toán, suy nghĩ về tầm nhìn dài hạn và quyết định ồ ạt mua bán theo đám đông.
Thậm chí, nhiều phiên NĐT không cần biết cổ phiếu đó thuộc lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh nào nhưng vẫn bỏ tiền ra mua. Các NĐT này là tác nhân chính khiến cho
giá CK tăng “vụt” lên, hay rót “rụp” xuống và chính họ cũng là nạn nhân hứng chịu
sự rủi ro từ cách đầu tư này.
Một trong những hạn chế lớn nhất của NĐT trên TTCK Việt Nam là thiếu
kiến thức hiểu biết về CK và TTCK và đây cũng là một trong những nguyên nhân
khiến họ phải chịu nhiều thua lỗ trong thời gian qua. Điểm yếu nhất trong hơn 10
năm qua kể từ ngày thành lập UBCKNN và 7 năm hoạt động của TTCK Việt Nam là
vấn đề phổ biến kiến thức về CK và TTCK. Có thể nói ở lĩnh vực này chúng ta làm
chưa tốt và chưa theo kịp sự phát triển của TTCK. Nhà đầu cá nhân hiện vẫn đầu tư
theo phong trào, thiếu sự phân tích độc lập, hay không có được sự tư vấn đủ chất
lượng của các tổ chức tài chính, ngân hàng, CTCK. Sự hiểu biết về CK và TTCK có
nhiều ý nghĩa to lớn, nó không chỉ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho công
chúng, góp phần gia tăng lượng vốn đầu tư mà còn giúp bình ổn tâm lý NĐT trước
những “cơn sóng” thị trường. Do đó, để TTCK Việt Nam phát triển bền vững và
giảm thiểu những rủi ro cho NĐT, thu hút họ tham gia nhiều hơn nữa vào thị trường
thì Chính phủ, UBCKNN cần phải có các biện pháp sau:
- Mở rộng tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng trên các phương
tiện thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng Internet,
các khóa đào tạo miễn phí, xây dựng các bản tin, các chuyên mục về CK và TTCK,...
- Tổ chức các trò chơi tìm hiểu về CK và TTCK trên các phương tiện truyền
thanh, truyền hình, báo chí, tổ chức các cuộc thi CK ảo, thi phân tích tài chính, thi
làm giám đốc tài chính, thi làm giám đốc điều hành,... cũng là biện pháp phổ biến
kiến thức cho công chúng.
- Trung tâm nghiên cứu đào tạo UBCKNN cần thiết phải mở các lớp học mẫu
ngắn hạn, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về CK và TTCK tại các Trung tâm
văn hóa quận, huyện hay Nhà văn hóa thanh niên cho các đối tượng đang sinh hoạt
tại đây để vừa có dịp vui chơi, giải trí vừa có dịp học tập bổ ích bởi vì nhu cầu tìm
hiểu và tham gia TTCK trong công chúng là rất lớn.
- Các trường Đại học tiếp tục hình thành và phát triển hơn nữa bộ môn CK
cũng như đưa các môn học chuyên sâu vào chương trình để vừa phục vụ công tác đào
tạo tại trường vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ của những người làm
việc trong lĩnh vực này.
- UBCKNN phối hợp đào tạo với các nước có TTCK phát triển để học hỏi
kinh nghiệm đầu tư và tiếp cận với nền văn hóa CK tiên tiến của thế giới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương này, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho NĐT
khi tham gia vào TTCK. Các giải pháp được đưa ra đối với các công ty niêm yết,
CTCK, các NĐT, Chính phủ và UBCKNN nhằm tập trung vào việc khắc phục những
hạn chế từ thị trường và từ chính bản thân các NĐT như: hoạt động công bố và minh
bạch hóa các thông tin trên thị trường; hệ thống pháp lý và công tác thanh tra, giám
sát thị trường; chất lượng dịch vụ cung cấp cho các NĐT; hoạt động kinh doanh và
công tác quản trị của DN niêm yết; vấn đề về kiến thức và quản trị rủi ro của NĐT,…
Các giải pháp được đưa ra không quá vĩ mô mà rất cụ thể, chi tiết với hy vọng
sẽ góp phần giảm đến mức thấp nhất những rủi ro mà NĐT đã gánh chịu trong thời
gian qua và là công cụ hữu ích giúp các nhà đầu mới sẽ tự tin hơn khi tham gia vào
TTCK Việt Nam.
KẾT LUẬN
Thời gian 7 năm là rất ngắn đối với sự phát triển của một thị trường. Nhưng với
TTCK Việt Nam, sau 7 năm đã có những kết quả tích cực, đã trở thành một kênh huy
động vốn đầu tư trung dài hạn cho nền kinh tế, tác động tích cực đến quá trình cổ phần
hóa DNNN. Các doanh nghiệp đã có sự thay đổi lớn trong lề lối làm việc, lề lối quản
lý; hoạt động kinh doanh phần nào công khai và minh bạch hơn, đã tạo ra một kênh
huy động vốn hiệu quả trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài. Có
một giá trị cần được đề cập đến là sự góp phần của TTCK trong việc thúc đẩy các
doanh nghiệp, nền kinh tế Việt Nam hội nhập hơn với thế giới. Sự tham gia của nhà
đầu tư nước ngoài, sự hợp tác của các doanh nghiệp niêm yết, công ty đại chúng với
các đối tác nước ngoài không chỉ tạo sự hội nhập về nguồn vốn mà còn là kinh nghiệm
quản lý, ở khả năng phát triển công nghệ, con người… Những điều đó cũng thể hiện ở
một góc độ hội nhập của nền kinh tế nói chung.
Tuy TTCK Việt Nam đã đạt được một số thành công nhất định nhưng nhìn
chung toàn cảnh thì thị trường vẫn còn nhiều tồn tại, cho đến nay vẫn ở trong tình trạng
nhỏ bé, yếu ớt, thiếu ổn định, khiến tính rủi ro vốn có của TTCK đã cao lại càng cao
hơn. Để thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển lành mạnh, bền vững, ổn định, tạo ra một
sân chơi bình đẳng cho các NĐT, không phân biệt lớn hay nhỏ, chuyên nghiệp hay
không chuyên nghiệp và đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể
mang lại. Ngay từ bây giờ các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể tham gia trên
thị trường cần phối hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp, giải quyết tốt các vấn đề
vướng mắc, nảy sinh. Mọi chính sách đều phải hướng tới mục tiêu làm cho công chúng
quan tâm và ngày càng có thêm nhiều người tham gia đầu tư CK. Ngoài ra, bản thân
các nhà đầu tư mới tham gia thị trường cần phải từng bước học hỏi và tích lũy kinh
nghiệm để đầu tư thành công trên TTCK.
Tóm lại, việc hạn chế rủi ro và thu hút các nhà đầu tư tham gia thị trường là một
trong những chính sách ưu tiên để kích cầu trên TTCK làm cho thị trường trở nên sôi
động hơn, góp phần tạo ra một TTCK thực sự có ý nghĩa về mặt tài chính và thực sự là
một kênh huy động vốn hữu hiệu cho phát triển SXKD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Lê Minh, (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Lê Thị Mai Linh, (2003), Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia.
3. Trần Đắc Sinh, (2005), Các giải pháp để đưa doanh nghiệp tiềm năng lên
niêm yết trên thị trường chứng khoán, Đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Khoa
học Công nghệ TP.HCM.
4. Trần Đắc Sinh, (2005), “Đánh giá 5 năm hoạt động của thị trường chứng
khoán Việt Nam”, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, TP.HCM
5. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản
Thống kê.
6. Hồ Viết Tiến, (2006), “Thị trường cổ phiếu Việt Nam có hiệu quả không?”,
Tạp chí phát triển kinh tế 185, 186.
7. Trần Quốc Tuấn, (2000), Một số biện pháp cơ bản để nâng cao hoạt động đầu
tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ
sở, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, TP.HCM.
8. Bùi Kim Yến, (2005), “Hoàn thiện nghiệp vụ môi giới tại các công ty chứng
khoán”, Tạp chí phát triển kinh tế 181.
9. Bùi Kim Yến, (2005), Thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Lao động
10. Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM, (2006), Tổng kết 5 năm thị
trường chứng khoán Việt Nam, NXB Phương Đông, TP.HCM.
11. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, (2006), “Luật chứng khoán”.
12. Báo đầu tư chứng khoán số 53, 60, 62, 65 năm 2007.
13. Bản tin thị trường chứng khoán TP.HCM ngày 24/07/2007.
14. Bản tin thị trường chứng khoán Hà Nội ngày 24/07/2007.
Các trang web
1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước
2. Bộ Tài chính
3. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
4. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
5. Đầu tư chứng khoán
6. Tin nhanh chứng khoán
7. Tin nhanh Việt Nam
8. Thời báo kinh tế Việt Nam
9. Saga Việt Nam
10. Báo Tuổi trẻ
11. Báo Vietnamnet
12. Báo thanh niên
13. Công ty CP Chứng khoán Đại Việt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 47186.pdf